Outside of a dog, a book is man's best friend. Inside of a dog it's too dark to read.

Attributed to Groucho Marx

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Walden
Dịch giả: Hiếu Tân
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
17.Mùa Xuân
iệc mở những con đường lớn của những người thợ đục băng thường làm cho đầm tan băng sớm hơn, vì nước được gió khuấy động, ngay trong tiết đông, cũng làm mỏng đi lớp băng xung quanh. Nhưng điều này năm ấy không tác động lên Walden, vì nàng đã sớm có bộ quần áo mới dày dặn thay cho bộ cũ. Cái đầm này không bao giờ tan băng sớm như những đầm khác trong vùng này, vì nó vừa sâu hơn vừa không có dòng nước chảy qua làm tan hay làm mỏng băng. Tôi chưa bao giở thấy nó tan băng trong mùa đông, ngoại trừ mùa đông năm 1852-1853, các đầm khác cũng phải chịu một thử thách thật khốc liệt. Thông thường nó tan băng vào mồng một tháng Tư, một tuần hay mười ngày sau các đầm Flint và Fair Haven, bắt đầu tan ở mạn phía bắc và ở những chỗ nông hơn, nơi nó bắt đầu đóng băng đầu tiên. Nó báo tốt hơn mọi nguồn nước khác ở quanh đây sự tiến triển tuyệt đối của mùa, bị tác động ít nhất của những đợt thay đổi nhiệt độ ngắn. Một đợt cực lạnh kéo dài vài ngày trong tháng Năm đã làm chậm đi rất nhiều sự tan băng của các đầm cũ, trong khi nhiệt độ của Walden tăng lên hầu như liên tục. Một nhiệt kế đặt giữa đầm Walden ngày 6 tháng Ba, 1847, chỉ 32°F tức điểm băng [519]; gần bờ là 33°; ở giữa đầm Flints trong cùng ngày là 32/2°; cách bờ một chục rod trong vùng nước nông, dưới băng dày một foot, 36°. Giữa chỗ nước sâu và nông ở đầm này nhiệt độ chênh lệch ba độ rưỡi, và do một tỉ lệ lớn diện tích là tương đối nông, ta hiểu tại sao nó tan băng sớm hơn đầm Walden nhiều. Băng ở phần nông nhất lúc đó mỏng hơn ở giữa đầm đến mấy inch. Vào giữa mùa đông ở giữa đầm là ấm nhất và băng mỏng nhất. Như vậy, những người lội bên bờ một cái đầm vào mùa hè phải cảm thấy nước gần bờ, nơi chỉ sâu ba hoặc bốn inch, ấm hơn ở ngoài xa một chút như thế nào, và ở chỗ sâu, nước ở trên mặt ấm hơn ở gần đáy. Vào mùa xuân mặt trời không chỉ ảnh hưởng qua việc tăng nhiệt độ không khí và đất, mà sức nóng của nó còn xuyên qua lớp băng dày một foot hoặc hơn, và được phản chiếu từ đáy ở vùng nước nông và như vậy cũng làm nước ấm lên và tan chảy mặt dưới của băng, đồng thời nó làm tan chảy mặt băng phía trên, làm cho khối băng không đều, tạo ra những bọt khí bên trong, phình ra phía trên và phía dưới thành hình tổ ong, và cuối cùng đột ngột biến mất trong một cơn mưa xuân duy nhất. Băng cũng có thớ như gỗ, và khi một bánh bắt đầu tan ra, hoặc thành dạng tổ ong, dù ở vị trí nào, những lỗ khí đều thẳng góc với mặt nước trước đây. Nơi nào có một tảng đá hay một thân cây trồi lên gần bề mặt thì băng bên trên nó mỏng hơn nhiều, và nó thường bị tan hoàn toàn bởi thứ nhiệt phản xạ này; và người ta đã nói với tôi rằng trong thí nghiệm ở Cambridge cho nước đóng băng trong một cái bồn nông bằng gỗ, mặc dù có không khí lạnh lưu thông bên dưới, và như vậy có tiếp xúc cả hai mặt, lượng nhiệt từ phản xạ của ánh mặt trời từ dưới đáy vẫn nhiều hơn lượng làm lạnh này. Khi một cơn mưa ấm vào giữa mùa đông làm tan chảy băng tuyết trên đầm Walden, và để lại một lớp băng tối sẫm hay trong suốt ở giữa, vẫn còn một dải băng trắng gần bờ dù dày hơn đã tan ra, rộng một rod hoặc hơn, do tác động của nhiệt phản xạ. Như tôi đã nói những bọt khí trong băng cũng có tác dụng như một kính lúp lấy lửa [520] làm tan băng bên dưới.
Hiện tượng này của năm diễn ra hằng ngày trong một cái đầm nhỏ. Vào buổi sáng thường thì nước ở chỗ nông ấm lên nhanh hơn ở chỗ sâu, mặc dù cũng không thật ấm lắm, và buổi tối nó được làm lạnh nhanh hơn cho đến sáng hôm sau. Ngày là sự thu nhỏ của năm. Đêm là mùa đông, buổi sang và buổi tối là mùa xuân và mùa thu, và buổi trưa là mùa hè. Sự nứt vỡ và tiếng âm vang của băng báo hiệu sự thay đổi của nhiệt độ. Một buổi sáng dễ chịu sau một đêm lạnh, ngày 24, tháng Hai, 1850, khi đến đầm Flint để qua ngày ở đó, tôi ngạc nhiên thấy rằng khi tôi bổ băng bằng chiếc rìu của tôi nó vang lên như tiếng cồng cách đó mấy mét, hay như thể tôi đã đánh lên mặt một chiếc trống căng. Băng bắt đầu kêu âm vang khoảng một giờ sau khi mặt trời mọc, khi nó cảm thấy ảnh hưởng của những tia mặt trời từ trên những đỉnh đồi chiếu xiên lên nó, nó duỗi mình và ngáp như một người vừa thức dậy với cái chộn rộn cứ tăng lên, kéo dài ba bốn giờ liền. Tôi ngủ một giấc trưa ngắn, và tiếng âm vang lại tiếp tục cho đến đêm, sau khi mặt trời lặn. Trong thời tiết thích hợp, đầm bắn phát súng buổi tối của nó rất đều đặn. Nhưng vào giữa ngày, đầy những tiếng răng rắc, và không khí cũng kém đàn hồi hơn, nó mất hoàn toàn tiếng vang, và có lẽ khi đó nó không thể làm lũ cá và chuột nước choáng váng. Những người câu cá nói rằng "tiếng sấm của đầm" làm lũ cá hoảng sợ và chúng không đớp mồi. Đầm không phải tối nào cũng có sấm, và tôi không biết chắc khi nào thì có, nhưng dù tôi không nhận ra một thay đổi nào trong thời tiết, nó vẫn có. Ai có thể ngờ rằng một vật vừa to, vừa lạnh lùng, vừa dày da mặt lại có thể nhạy cảm như thế? Tuy nhiên nó có luật của nó mà sấm sét phải phục tùng, cũng chắc chắn như mùa xuân thì chồi lộc bật lên. Toàn bộ mặt đất sống động và được bao phủ bằng những núm vú nhạy cảm. Cái đầm lớn nhất nhạy với những thay đổi trong không khí như giọt nhỏ thủy ngân trong ống nghiệm.
Một điều hấp dẫn tôi đến sống trong rừng là tôi sẽ có thời giờ nhàn rỗi và có dịp ngắm mùa xuân đến. Băng trong đầm cuối cùng bắt đầu hình thành dạng tổ ong, và tôi có thể đặt gót chân lên đó khi bước đi. Những đợt sương mù, những trận mưa rào và ánh mặt trời ấm áp dần dần làm tan tuyết, ngày đã hơi dài hơn, và tôi thấy tôi sẽ qua mùa đông mà không cần bổ sung thêm củi, vì không cần đốt những đống lửa to nữa. Tôi lắng nghe những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân, nghe tiếng hót tình cờ của một con chim bay đến, hay tiếng chít chít của con sóc vằn, vì kho của nó chắc đã gần cạn, hay nhìn con chuột nước liều ra khỏi chỗ trú đông của nó. Ngày 13 tháng Ba, khi tôi đã nghe con sơn ca, con li tước, và con chim hét cánh đỏ hót, băng vẫn còn dày gần một foot. Khi thời tiết trở nên ấm hơn, nó vẫn chưa bị nước bào mòn đáng kể, cũng không vỡ ra và trôi như trên sông, mặc dù nó đã tan hoàn toàn một dải rộng khoảng nửa rod cạnh bờ, giữa đầm mới chỉ thành dạng tổ ong và bão hoà nước, do đó ta vẫn có thể đặt chân lên khi nó còn dày sáu inch, nhưng tối hôm sau, có lẽ sau một trận mưa ấm rồi sương mù, nó biến mất hoàn toàn, tất cả đi theo cùng sương mù, bay đi mất. Một năm tôi chỉ đi qua giữa đầm năm ngày trước khi băng biến mất hoàn toàn.
Năm 1845 ngày đầu tiên Walden tan băng hoàn toàn là 1 tháng Tư; năm 1846 là 25 tháng Ba; năm 1847 là 8 tháng Tư; năm 1851: 28 tháng Ba; 1852:18 tháng Tư; 1853: 23 tháng Ba; nãm 1854 khoảng 7 tháng Tư.
Mỗi sự kiện gắn với lần tan băng của các sông ngòi hay ao đầm và sự êm lắng của thời tiết đặc biệt thú vị đối với chúng tôi, những người sống trong một khí hậu cực là khắc nghiệt. Khi những ngày ấm hơn đến, những người sống gần sông ban đêm nghe băng kêu răng rắc và tiếng kêu to giật mình như tiếng một khẩu pháo, như thể những gông cùm bằng băng bị xé suốt từ đầu này đến đầu kia, và sau vài ngày nó nhanh chóng biến mất. Cá sấu chui ra khỏi bùn cũng làm mặt đất rung lên như vậy. Có một ông già, vốn là người quan sát tường tận Thiên nhiên, và hiểu biết thấu đáo mọi động thái của nàng, dường như khi còn là một cậu bé đã nhìn thấy nàng như một con tàu đang được đóng, và đã giúp hạ thủy nàng - khi đến tuổi trưởng thành ông đã hiểu biết nhiều đến nỗi dù có sống lâu như Methuselah [521] cũng không thể có được nhiều tri thức tự nhiên hơn. Ông kể với tôi (và tôi ngạc nhiên nghe ông bày tỏ cảm giác lạ lùng trước bất kì động thái nào của Thiên nhiên, vì tôi nghĩ giữa ông và nàng đã không còn bí mật gì nữa), rằng một ngày xuân ông xách súng và lên thuyền, nghĩ rằng sẽ được tiêu khiển một chút với lũ vịt trời. Trên đồng cỏ vẫn còn băng, nhưng trên sông băng đã tan hết, và ông xuôi thuyền từ Sudbury nơi ông sống xuống đến đầm Fair-Haven không gặp trở ngại gì, nhưng thật bất ngờ, ông thấy đầm này bị bao phủ phần lớn bởi một mảng băng cứng. Hôm ấy trời ấm, và ông ngạc nhiên thấy một khối lượng băng lớn vẫn còn đó. Không thấy con vịt nào, ông hướng mũi thuyền về phía bắc, sau một hòn đảo trong đầm, và ở đó, nấp trong những bụi cây phía nam để đợi chúng. Băng đã tan ba bốn rod từ bờ, và ở đó có một dải nước êm và ấm, với một đáy bùn, là chỗ lũ vịt thích, nên ông nghĩ chắc chẳng bao lâu sẽ có một vài con xuất hiện. Sau khoảng một giờ nằm im ở đó ông nghe thấy một âm thanh trầm dường như từ rất xa nhưng rất uy nghiêm và ấn tượng, không giống bất kì âm thanh nào mà ông đã từng nghe, cứ tăng lên dần như thể sẽ có một kết thúc lạ thường, một tiếng rống rền và rầu rí, đột nhiên ông có cảm tưởng như tiếng kêu của một đàn chim đông đảo đang bay đến, và, nâng súng lên, sẵn sàng bắn trong trạng thái hấp tấp và kích động; nhưng, thật kinh ngạc, ông thấy cả một khối băng lớn đã bắt đầu di chuyển trong khi ông nằm ở đấy, đang lừ lừ trôi vào bờ, và âm thanh mà ông nghe thấy chính là tiếng băng cọ vào bờ ken két, lúc đầu bị vỡ nhẹ từng chút một, rồi vở nát ra, cuối cùng trào lên đến một độ cao đáng kể và những mảnh vụn của nó tung tản mác dọc theo đảo, trước khi chịu lặng đi hoàn toàn.
Cuối cùng những tia mặt trời đã đạt được góc chiếu thích hợp, và những luồng gió ấm mang theo sương mù và mưa và làm tan những dải băng tuyết, rồi mặt trời xua tan màn sương, tươi vui chiếu rọi trên phong cảnh đang nghi ngút những làn khói nâu nhạt và trắng với mùi hương dễ chịu, trong đó người du khách cất bước đi từ gò đất này sang gò khác, tai vui nghe hàng ngàn dòng suối nhỏ và ngòi lạch róc rách, những mạch chứa đầy dòng máu mùa đông mà chúng đang cuốn trôi đi.
Ít có hiện tượng nào khiến tôi vui thích hơn khi ngắm nhìn những hình dạng của cát và đất sét đang tan băng chảy xuống những triền dốc của "Vết Cắt Sâu" (Deep Cut) trên tuyến đường sắt mà tôi phải đi qua để vào làng, một hiện tượng không thường thấy ở một quy mô lớn như thế này, mặc dù số lượng dải vật liệu thích hợp mới lộ ra chắc đã phải tăng lên nhiều từ khi xuất hiện đường sắt. Vật liệu này là cát ở mọi độ tinh và mọi màu sắc, thường trộn lẫn một ít đất sét. Khi băng giá đã tan trong mùa xuân, và thậm chí trong một ngày tan băng của mùa đông, cát bắt đầu chảy xuống các triền dốc giống như dung nham, đôi khi bùng lên qua tuyết và tràn lên nó ở chỗ mà trước đây chưa thấy có cát. Vô số những dòng chảy nhỏ lấn lên nhau và xoắn lại, bày ra một thứ sản phẩm lai tạp, chúng nửa tuân theo quy luật về dòng chảy, nửa tuân theo quy luật thực vật. Khi chảy nó có dạng những lá cây có nhựa, hay dây leo, tạo thành rất nhiều cành nhỏ mềm dày một foot hay hơn, và khi ta nhìn từ trên xuống chúng giống như những tán của một loài địa y, nhiều lớp xếp đè lên nhau; hoặc nhắc ta nghĩ tới san hô, chân báo hoặc chân chim, tới não hoặc ruột hoặc phổi, và phân cứt đủ mọi loại. Nó thật sự là một loài thực vật biến dạng (grotesque), mà hình dáng và màu sắc của nó, chúng ta thấy được mô phỏng trong đồng thau, một loại hoa lá trang trí kiến trúc, cổ hơn và điển hình hơn cây ôrô, rau diếp xoăn, dây thường xuân, nho, hoặc bất cứ thứ lá cây nào, có lẽ được trù tính để, trong những hoàn cảnh nhất định, trở thành câu đố cho các nhà địa chất tương lai. Toàn bộ gây ấn tượng cho tôi như thể chúng là một hang động có những thạch nhũ nằm phơi ra ánh sáng. Những sắc thái của cát phong phú và hòa hợp khác thường, bao gồm nhiều màu sắc khác nhau, nâu, xám, vàng nhạt, và hung đỏ. Khi luồng chảy tới cống rãnh dưới chân bờ, nó tỏa ra dẹt hơn thành những dải, những dòng chảy riêng rẽ mất đi dạng bán trụ của chúng và dần dần trở nên dẹt hơn và rộng hơn, chập vào nhau, trở nên ẩm hơn, cho đến khi chúng hình thành một lớp cát dẹt, vẫn còn những sắc thái đa dạng đẹp đẽ, nhưng trong chúng, ta đã có thể thấy lại những dạng thực vật ban đầu; cuối cùng, ở trong nước, chúng biến thành những bờ cát, giống như những bờ hình thành ở cửa sông, và những dáng hình thực vật mất đi trong những dấu sóng gợn trên đáy.
Toàn bộ bờ, cao từ hai mươi đến bốn mươi foot, đôi khi sau một ngày xuân, có hình tán lá do cát chảy tạo nên trên suốt một phần tư dặm, ở một hay cả hai bên. Điều ấn tượng nhất của cái hình lá bằng cát này là sự xuất hiện đột ngột của nó. Khi tôi nhìn một bên là mặt bờ trơ trọi, vì mặt trời lúc đầu chiếu trên một mặt - và mặt kia là hình tán lá tráng lệ, sáng tạo của một giờ, tôi cảm thấy xúc động, một cảm giác kì diệu như thể tôi đứng trong phòng thí nghiệm của người Nghệ sĩ đã tạo ra thế giới và bản thân tôi - nơi người vẫn còn đang vui vẻ làm việc trên bờ này, và với năng lượng vượt trội của người, trải những bản phác thảo mới mẻ của người ra khắp nơi. Tôi có cảm giác như tôi đến gần hơn với những phủ tạng của địa cầu, vì sự chảy tràn cát này dưới hình một tán lá giống như nội tạng của thân thể động vật. Ta tìm thấy trong cát một sự báo trước hình dạng lá cây. Chẳng đáng ngạc nhiên khi trái đất tự thể hiện mình ra ngoài bằng những lá cây, mà nó đã ấp ủ sâu kín bên trong. Những nguyên tử đã biết và đã được hoài thai bởi quy luật này. Cái lá trên cây thấy ở đây nguyên mẫu của mình. Bên trong, dù là trong địa cầu hay trong thân thể động vật, nó là thùy dày và ẩm ướt, một từ đặc biệt thích hợp để mô tả gan, phổi và những lá mỡ (êẵíâù, labor, lapsus, - chảy hoặc trượt xuống, sa ngã; ẻỉấiò, globus, thùy, địa cầu; cũng như lap, flap, và nhiều từ khác) [522]; Bên ngoài, một lá khô mỏng, thậm chí như f và v là chữ b bị phơi khô và ép mỏng. Gốc của lobe là lb, khối lượng mềm của b (một thùy, hay B, hai thùy) với chữ l lỏng đằng sau nó đẩy nó lên trước. Trong từ globe (địa cầu), glb, chúng ta có chữ g trong guttural, yết hầu, tăng cường ý nghĩa cho sức chứa của thanh quản. Lông vũ và cánh của chim còn khô hơn và mỏng hơn lá. Cũng như chuyển từ con nhộng ục ịch thành con bướm nhẹ nhàng bay bổng. Bản thân địa cầu liên tục tự chuyển mình và chuyển hóa, và bay lên trên quỹ đao của nó. Thậm chí, băng bắt đầu từ những lá pha lê thanh nhã, dường như đã chảy thành những dáng lá của loài cây thủy sinh in hình trên chiếc gương của đầm. Toàn bộ cây thực chất chỉ là chiếc lá, và những dòng sông là đường gân trên những chiếc lá rộng mênh mông, thịt của chúng là những châu thổ, những thị trấn thành phố là trứng sâu trên lá.
Khi mặt trời lặn, cát thôi chảy, nhưng buổi sáng các dòng sẽ lại bắt đầu ngay và chảy loang ra, phân nhánh thành vô vàn dòng nhỏ. Ở đây bạn có thể thấy các mạch máu hình thành như thế nào. Nếu nhìn kĩ bạn sẽ thấy từ vô số dòng cát mềm tan băng tràn lên phía trước, với một điểm giống giọt nước, giống như đầu ngón tay, chậm chạp dò dẫm bò xuống, cuối cùng khi mặt trời lên cao, nhiệt độ và hơi ẩm tăng lên, phần lỏng nhất tuân theo định luật mà những vật chất trơ ì nhất cũng phải tuân theo, tách ra khỏi phần còn lại, rạch cho mình một cái rãnh hay mạch ngoằn ngoèo, trong đó ta thấy một dòng nhỏ trắng bạc, lóe lên như ánh chớp và thỉnh thoảng biến mất trong cát. Thật tuyệt vời, dòng cát này tự tổ chức bản thân nó khi chảy mới nhanh chóng và hoàn hảo làm sao, nó sử dụng thành phần tốt nhất của nó tạo thành những mép sắc của dòng chảy. Những dòng chảy như thế này là nguồn của những con sông. Trong thành phần silicat lắng trong nước có lẽ là bộ xương, còn trong lớp đất mịn hơn và thành phần hữu cơ là những thớ cơ, hay những mảng tế bào. Con người là gì nếu không phải khối đất sét [523] đang tan băng? Đốt ngón tay của con người chỉ là một giọt nước đóng băng. Những ngón tay ngón chân là những dòng chảy từ thân thể đang rã đông. Ai biết được trong một thiên đường ấm áp hơn, thân thể con người còn nở nang và tan chảy ra như thế nào? Bàn tay ta chẳng phải là tàu lá cọ xòe ra với những đường gân và thớ thịt của nó đó sao? Hãy thử tưởng tượng tai là địa y umbilicaria[524], được gắn vào đầu, và dái tai cũng là giọt nước. Môi – labium [525], từ chữ labor (?) - trùm lên hai bên của hốc miệng. Mũi là biểu hiện của giọt nước đông hay thạch nhũ. Cái cằm là một giọt lớn hơn, nhỏ ra từ khuôn mặt. Hai má là sự trượt từ các lông mày xuống thung lũng của khuôn mặt, bị các xương gò má (lưỡng quyền) tẽ ra. Mỗi một thùy tròn đầy của lá cây là những giọt nước đầy đặn va đang đi lang thang, lớn hay nhỏ, chúng cũng là những ngón tay của lá, có bao nhiêu thùy thì chảy theo bấy nhiêu hướng, và khi trời nóng hơn hay trong không khí ấm áp hơn chúng sẽ chảy xa hơn.
Như vậy dường như một sườn đồi này minh họa cho cái nguyên tắc theo đó mọi sự vật diễn ra trong thiên nhiên. Người Sáng tạo ra Trái Đất chỉ lấy một bằng phát minh ra chiếc Lá. Champollion [526] sẽ giải mã chữ tượng hình này cho chúng ta như thế nào, để chúng ta cuối cùng có thể lật sang một lá [527] khác? Hiện tượng này khiến tôi hồ hởi hơn sự sum sê và tươi tốt của một vườn nho. Thật ra, trong nó có một cái gì đó nhắc đến phân, và những đống gan, ruột [528] bất tận, như thể trái đất lộn ruột gan của mình ra ngoài, nhưng điều này cho thấy Thiên nhiên cũng có nội tạng của nó, có nghĩa Thiên nhiên chính là bà mẹ của loài người. Đây là sương giá toát ra từ đất, và mùa xuân bắt đầu. Nó báo trước mùa xuân xanh tươi hoa lá, như huyền thoại đi trước thơ ca nghiêm chỉnh. Không có gì tẩy sạch chứng đầy hơi khó tiêu của mùa đông hơn thế. Nó thuyết phục tôi rằng Trái Đất vẫn còn quấn trong tã lót và đang duỗi những ngón tay sơ sinh của nó ra mọi phía. Những món tóc xoăn dịu dàng đã phủ lên vầng trán khắc nghiệt nhất. Trong Thiên nhiên không có gì chết cứng. Những hoa văn hình lá nằm dọc theo bờ như xỉ than từ bếp lò, báo rằng Thiên nhiên đang hồi náo nhiệt nhất. Trái Đất không phải chỉ là một mẩu của lịch sử đã chết, lớp này đè lên lớp khác như những tờ giấy trong một cuốn sách, chủ yếu chỉ được các nhà địa chất và nhà khảo cổ nghiên cứu, mà là bài thơ sống động giống như những phiến lá của một cái cây, báo trước hoa và quả - không phải một trái đất hóa thạch, mà là trái đất sống; so với sự sống vĩ đại của nó tập trung ở tầng sâu, sự sống của toàn bộ thế giới động vật và thực vật chỉ như sống nhờ, kí sinh trên bề mặt. Chuyển động mãnh liệt của nó giằng giật những di hài của chúng ta ra khỏi mộ. Bạn có thể nấu chảy kim loại của bạn và đúc nó trong những khuôn đẹp nhất, chúng cũng không bao giờ làm tôi phấn khích như những hình dạng mà trái đất nóng chảy đúc thành. Không phải chỉ có nó, mà tất cả những gì đang hiện hữu trên nó, cũng đều dẻo như đất sét trong tay người thợ gốm.
Chẳng bao lâu nữa, và không phải chỉ trên bờ đầm này, mà trên tất cả mọi quả đồi và bình nguyên, trong các thung lũng, băng sẽ ra khỏi đất giống như những động vật ngủ đông ra khỏi hang của chúng, và đi tìm biển có nhạc, hay di cư đến những xứ sở mới của chúng trên mây. Thaw (sự tan băng) với sức thuyết phục dịu êm của chàng còn mạnh hơn Thor [529] với cây búa của ông ta. Một đằng thì tan chảy, còn bên kia đập tan ra từng mảnh.
Khi đất đã phần nào lộ ra khỏi tuyết, và vài ngày ấm áp đã hong khô bề mặt của nó, thật thích thú khi so sánh những hồi ức thơ ấu dịu dàng với vẻ đẹp trang nghiêm của thảm thực vật tàn héo đã trụ được qua mùa đông. Cây thường xuân, goldenrod [530], cây mỏ cò [531], và những loài cỏ dại thanh nhã, tỏ ra thú vị hơn trong mùa hè, dường như vẻ đẹp của chúng đến lúc đó mới chín; thậm chí cỏ bông, cỏ đuôi mèo, mullein [532], johnswort [533], hardhack [534], cây râu dê, và những cây thân cứng khác, là kho thóc không cạn kiệt chiêu đãi những chú chim đến sớm nhất, những giống cỏ dại [535] xoàng xĩnh ấy, ít nhất cũng làm thành bộ tang phục của nàng Thiên nhiên góa bụa. Tôi đặc biệt bị cuốn hút bởi những ngọn lau sậy uốn cong giống như thành bó, mùa đông chúng nhắc ta nhớ tới mùa hè; đó là một trong những hình thức mà nghệ thuật thích tái hiện, và trong thế giới thực vật, chúng có cùng quan hệ với những kiểu dáng đã hình thanh trong trí óc con người cũng như ta nhìn thấy trong thiên văn học. Nó là một kiểu dáng mang phong cách cổ xưa, xưa hơn phong cách Hi Lạp hay Ai Cập. Nhiều hoa văn của Băng tuyết gọi lên một vẻ thanh nhã khôn tả và sự tinh tế mỏng manh. Chúng ta thường nghe người ta tả vị vua này là một kiểu bạo chúa thô lỗ và hung dữ; nhưng với vẻ thanh lịch của một người tình, chàng tô điểm cho mái tóc của Mùa hè.
Gần đến mùa xuân, những con sóc đỏ kéo đến nhà tôi, từng đôi một, ngay bên dưới chân tôi khi tôi ngồi đọc hoặc viết, cất tiếng cười quái đản và líu tíu liên hồi với những âm thanh ùng ục chưa từng nghe thấy bao giờ; và khi tôi giậm chân chúng chỉ càng líu tíu to hơn, như thể chuyển tất cả nỗi sợ hãi và tôn trọng vào trò nghịch điên của chúng, chống lại con người ngăn cản chúng. Không, chúng mày đừng...chiccari, chiccari. Chúng hoàn toàn điếc với những lí lẽ của tôi, hoặc không nhận ra sức mạnh của chúng, và tuôn ra hàng tràng tiếng chửi rủa không gì ngăn lại được.
Con chim sẻ đầu tiên của mùa xuân! Năm mới bắt đầu bằng niềm hi vọng trẻ trung hơn bao giờ hết! Những tiếng líu lo yếu ớt trong trẻo của con chim xanh, con chim sẻ hót hay, con chim hét cánh đỏ, trên cánh đồng đã tan băng một phần và ẩm ướt nghe như tiếng bông tuyết rơi leng keng! Trong một thời gian như thế những lịch sử, niên đại, truyền thống và những mặc khải thành văn có nghĩa gì? Những dòng suối ca những bài tụng ca và hân hoan chào đón mùa xuân. Những con chim ưng vùng đầm lầy sải cánh bay là là trên đồng cỏ đang tìm sự sống trì trệ thức dậy. Trong những thung lũng nhỏ nghe thấy những âm thanh chìm của tuyết đang tan và băng rã trong các đầm. Cỏ cháy trên các sườn đồi giống như một đám lửa mùa xuân, - "et primitus oritur herba imbribus primoribus evocata" [536] - như thể trái đất gửi đi một chút nhiệt trong lòng nó để chào mặt trời trở lại; ngọn lửa không có màu vàng mà có màu xanh cây, biểu tượng của tuổi thanh xuân bất diệt [537], lá cỏ, giống như một dải ruybăng dài, chảy từ trảng cỏ vào mùa hè, tất nhiên bị băng giá chặn lại, nhưng chẳng bao lâu lại được đẩy đi, nhờ sức sống tươi mới bên dưới đội lá cỏ khô năm ngoái nhô lên. Nó lớn lên đều đặn như dòng suối nhỏ rỉ ra từ lòng đất. Nó hầu như đồng nhất với dòng suối nhỏ kia, vì trong những ngày dài tháng Sáu, khi mọi dòng suối nhỏ đều cạn, những lá cỏ là những lòng suối, và từ năm này sang năm khác loài thảo mộc uống ở dòng suối vĩnh viễn xanh này, và người phát cỏ lấy nó làm thức ăn mùa đông cho gia súc. Như vậy cuộc sống của loài người chúng ta chỉ chết ở bộ rễ, nhưng vẫn vươn lá xanh của nó vào vĩnh cửu.
Walden đang tan băng nhanh chóng. Có một dòng kênh rộng hai rod dọc các bờ bắc và tây, và rộng hơn ở đoạn cuối phía đông. Một diện tích băng rộng lớn đã nứt ra khỏi mảng chính. Tôi nghe một tiếng hót, con chim sẻ đang hót trong một bụi cây trên bờ - olit, olit, olit, chip, chip, chip, che char, che wiss, wiss, wiss. Cả nó cũng đang giúp cho băng tan. Những đường cong uốn lượn ở mép băng mới đẹp làm sao, như đáp lại những đường cong trên bờ, nhưng cân đối hơn. Nó cứng một cách bất thường, do đợt lạnh ngắn nhưng khắc nghiệt gần đây, và tất cả những gì trước đây là nước và sóng trông như nền một lâu đài. Nhưng gió trườn về hướng đông trên bề mặt mờ tối của nó một cách vô ích, cho đến khi nó chạm tới bề mặt sống động phía xa. Thật thú vị khi nhìn dải ruybăng của nước lấp lánh dưới ánh mặt trời, gương mặt lồ lộ của đầm trẻ trung và tươi vui, như thể nó nói hộ niềm vui của đàn cá trong lòng nó, và của cát trên bờ của nó - một ánh bạc rực rỡ như lóe lên từ vẩy của con cá leuciscus, giống như toàn cảnh là một con cá khổng lồ hiếu động. Đó là sự tương phản giữa mùa đông và mùa xuân. Walden đã chết đi và đã sống lại [538]. Nhưng mùa xuân này nó tan băng đều đặn hơn, như tôi đã nói.
Cuộc chuyển từ mùa đông mưa bão sang tiết trời trong sáng êm dịu, từ những giờ tối tăm uể oải sang những giờ sáng sủa và lanh lẹn là sự kiện quan trọng mà mọi vật vội vàng loan báo. Nó dường như diễn ra ngay lập tức. Ánh sáng đột ngột tràn vào nhà tôi, mặc dù trời đã gần tối, những đám mây vẫn lơ lửng trên cao, và mái hiên đang nhỏ những giọt mưa tuyết. Tôi nhìn ra cửa sổ, và kìa! Nơi hôm qua còn là băng xám lạnh thì bây giờ là mặt đầm trong sáng, êm lặng và đầy hi vọng như trong một buổi tối mùa hè, phản chiếu bầu trời buổi tối hè trên mặt nó, mặc dù phía trước còn chưa thấy rõ gì, như thể nó có liên lạc tin tức với một chân trời xa xăm. Tôi đã nghe thấy tiếng một con chim cổ đỏ từ xa, con đầu tiên tôi nghe thấy tưởng chừng qua cả ngàn năm nay, và tôi nghĩ giọng của nó tôi sẽ nhớ đến cả ngàn năm nữa - cũng tiếng hót mạnh mẽ ngọt ngào như trong quá khứ. Ôi con chim cổ đỏ buổi tối, vào cuối một ngày mùa hạ New England! Nếu tôi có thể tìm thấy cành cây nào nó đang đậu! Tôi nói nó, tôi nói cành cây. ít nhất đây không phải là Turdus migratorius [539]. Những cây thông lấy nhựa và những bụi sồi xung quanh nhà tôi, vốn ủ rũ từ lâu, bỗng nhiên lấy lại được nhiều tính cách của chúng, trông sáng sủa hơn, xanh hơn, đứng thẳng lên và đầy sức sống, như thể đã được mưa tẩy rửa và hồi sinh. Tôi biết rằng sẽ không còn mưa nữa. Chỉ cần nhìn bất cứ cành cây nào trong rừng, hay nhìn ngay đống gỗ nhà tôi, là biết mùa đông đã đi qua hay chưa. Khi trời tối hơn, tôi giật mình vì tiếng ngỗng trời bay thấp trên cây, giống như những khách bộ hành mệt mỏi từ những hồ miền nam đến muộn, và cuối cùng tự cho phép không ngừng tuôn ra những lời ca thán và an ủi lẫn nhau. Đứng trong nhà, tôi nghe thấy tiếng vỗ cánh hối hả của chúng, khi bay về phía nhà tôi, chúng bỗng phát hiện ra ánh sáng của tôi, và tắt đi những tiếng ầm ĩ, chúng quay vòng bay ra đậu trên đầm. Thế là tôi đi vào, đóng cửa, và qua đêm xuân đầu tiên trong rừng.
Buổi sáng từ trong cửa qua màn sương, tôi nhìn đàn ngỗng này bơi ờ giữa hồ, cách năm mươi rod, rộng rãi và hỗn độn đến mức Walden thành ra giống như một cái đầm nhân tạo để chúng vui chơi. Nhưng khi tôi ra đứng bên bờ đầm, chúng vội bay lên với tiếng đập cánh dữ dội theo hiệu lệnh của con đầu đàn, và chúng bay thành đội ngũ lượn tròn trên đầu tôi, hai mươi chín con tất cả, rồi thẳng hướng sang Canada, với tiếng quạc quạc cách quãng đều đều của con đầu đàn, tin tưởng sẽ có bữa ăn sáng ở những vũng nước nhiều bùn hơn. Một bầy vịt trời đồng loạt bay lên nhằm hướng bắc theo những anh em họ lắm mồm của chúng.
Trong một tuần liền vào những buổi sáng sương mù, tôi nghe tiếng một con ngỗng cô độc lượn vòng kêu lanh lảnh chói tai đi tìm bạn; và làm vang động cả khu rừng với những tiếng kêu mà rừng không chịu nổi. Tháng Tư lại thấy những con bồ câu bay nhanh theo từng tốp nhỏ; vào những thời gian thích hợp tôi nghe tiếng chim nhạn ríu rít trong khoảng rừng thưa, mặc dù hình như thị trấn không có nhiều đến mức tôi có thể kiếm được một con, và tôi tưởng tượng rằng chúng đặc biệt thuộc giống cổ xưa sống trong những hốc cây trước khi con người đến. Hầu như trong mọi miền, rùa và ếch nhái là những kẻ đến trước và là sứ giả đưa tin về mùa xuân, chim với tiếng hót và bộ lông rực sáng bay đến, cây cối nảy mầm và ra hoa, gió thổi, để điều chỉnh dao động nhẹ của các cực và duy trì trạng thái cân bằng của tự nhiên.
Vì bất cứ mùa nào cũng là tốt nhất cho chúng ta khi nó đến, sự xuất hiện của mùa xuân giống như sự Sáng tạo ra Vũ trụ từ cõi Hỗn mang và sự thực hiện Thời đại Hoàng kim [540].
"Eurus ad Auroram Nabathaeaque regna recessit,
Persidaque, et radiisjuga subdita matutinis".
"Gió Đông rút tới Rạng đông và vương quốc Nabathean[541],
Và Batư, và những đỉnh núi dưới những tia mặt trời buổi sáng".
………………………
Con người ra đời. Ai sinh ra người?
Phải chăng Đấng sáng tạo muôn loài, - nguồn gốc của một thế giới tốt đẹp hơn - đã tạo ra người từ những hạt giống thần thánh? Hay trái đất, vừa mới bị tách ra khỏi ête trên cao, vẫn còn giữ được những hạt giống của bầu trời thân thích?... [542]
Chỉ một trận mưa êm cũng đem đến cho cỏ nhiều sắc xanh tươi. Cũng như niềm hi vọng của chúng ta hồi sinh từ mỗi ý nghĩ tốt đẹp. Sung sướng thay những ai luôn sống trong hiện tại, tận dụng mọi thuận lợi trong những sự cố xảy đến với mình, giống như ngọn cỏ hân hoan với giọt sương mong manh nhất treo trên nó, chẳng mất thời giờ nuối tiếc vì bỏ lỡ những cơ hội, mà chúng ta gọi là thực hiện nghĩa vụ. Chúng ta cứ quanh quẩn với mùa đông, khi ngoài kia đã là mùa xuân. Trong một sáng xuân dễ chịu, mọi tội lỗi của con người đều được tha thứ. Trong những ngày như thế không có chỗ cho cái ác. Và trong lúc mặt trời không chiếu, tên tội đồ ghê tởm nhất sẽ quay trở lại [543]. Qua sự vô tội mới tìm lại được của chúng ta, chúng ta nhận ra sự vô tội của người hàng xóm. Hôm qua bạn còn nghĩ người hàng xóm là một kẻ cắp, một tên nghiện rượu, một kẻ trụy lạc, bạn thương hại hay khinh miệt hắn và thất vọng về cuộc đời, nhưng trong buổi sáng xuân đầu tiên này mặt trời soi sáng và sưởi ấm, tái tạo thế giới, và bạn bắt gặp người hàng xóm trong một công việc hiền hòa, và nhìn những mạch máu kiệt quệ vì trác táng của hắn nở ra như thế nào trong niềm vui thầm lặng và cảm tạ ngày mới, cảm thấy ảnh hưởng của mùa xuân đối với sự vô tội của tuổi thơ, thế là bạn quên hết mọi tội lỗi của hắn. Ở hắn không chỉ có thiện ý, mà còn cả một vẻ thánh thiện đang tìm cách hiển lộ, có lẽ còn đang mò mẫm uổng công, giống như một bản năng mới sinh, và trong một giờ ngắn ngủi sườn đồi phía nam không vọng lại một câu đùa thô tục. Bạn thấy từ lớp vỏ cây sần sùi sắp sửa bật ra những cành non xinh đẹp vô tội, khao khát sống một cuộc đời khác, dịu êm và tươi mới như cái cây trẻ trung nhất. Thậm chí hắn "đi vào hưởng niềm vui của chủ hắn” [544]. Tại sao viên cai ngục không để mở những cánh cửa nhà tù của y, tại sao quan toà không bãi phiên tòa của ông ta, tại sao nhà thuyết giáo không giải tán giáo đoàn của ông ta? Ấy là bởi vì họ không tuân theo lời gợi ý nhẹ nhàng của Chúa, cũng không nhận sự tha tội mà Người rộng lòng ban cho tất cả mọi người.
"Khát vọng điều thiện sinh ra mỗi ngày trong hơi thở êm lặng và tốt lành của buổi sáng, buộc con người yêu mến đức hạnh và căm ghét cái ác, đưa người ta về gần hơn một chút với bản tính nguyên thủy của con người, như những chồi non bật lên từ những thân cây đã bị đốn hạ. Ngược lại, cái ác mà người ta làm trong ngày ngăn không cho phát triển những phôi thai của đức hạnh vừa mới bắt đầu nhú lên trở lại, và tiêu diệt chúng.
Sau khi những mầm mống của đức hạnh nhiều lần bị ngăn không cho phát triển như thế, thì khí lực của buổi tối không còn đủ để gìn giữ chúng. Chừng nào mà khí lực của buổi tối không đủ để gìn giữ chúng nữa, thì bản chất con người không khác nhiều với bản chất của thú vật. Người ta thấy bản chất của người này giống bản chất của thú vật, thì nghĩ y chưa bao giờ có cái khả năng thiên bẩm của lí trí. Vậy chúng có phải những tình cảm thật và tự nhiên của con người không?" [545].
"Thời Hoàng kim thuở mới ra đời, trong thiên hạ không có kẻ báo thù.
Lòng trung thành và chính trực được tôn vinh đều tự nguyện không cần đến luật pháp.
Không có trừng phạt và sợ hãi; cũng không có cả những lời hăm dọa
lơ lửng trên đầu, không có đám đông sợ hãi van xin
những lời phán của quan toà. Nhưng được an toàn không bị trả thù.
Cây thông đổ trên núi chưa bị rơi xuống nước để có thể thấy một thế giới khác.
Và mọi sinh linh không biết đến bến bờ nào khác ngoài bến bờ của quê hương mình.
******
Có một mùa xuân vĩnh cửu với làn gió nhẹ mang hơi ấm,
Trìu mến vuốt ve những bông hoa không sinh ra từ hạt giống nào" [546].
Ngày 29 tháng Tư khi đang câu cá bên bờ một con sông gần cầu Nine-Acre-Corner, đứng trên cỏ bên những gốc liễu, nơi những con chuột nước ẩn núp, tôi nghe thấy một tiếng vù vù kì lạ, gần như tiếng những cái gậy mà bọn trẻ con nghịch trên tay, khi nhìn lên tôi thấy một con diều hâu thon thả và thanh nhã, giống như một con cú muỗi, hết lần này đến lần khác lúc thì bay vọt lên như những đợt sóng, lúc thì bổ nhào xuống một hai sải, mảng lông dưới cánh phô ra như những dài ruybăng sa tanh lấp lánh trong nắng, hay giống như những hạt ngọc trai trong vỏ. Hình ảnh ấy gợi tôi nhớ đến thuật huấn luyện chim mồi, và vẻ cao sang và chất thơ gắn với thú chơi này. Hình như tên gọi của nó là Merlin: nhưng tôi không quan tâm tên nó là gì. Đây là một đường bay phi phàm nhất mà tôi từng chứng kiến. Nó không đơn giản vẫy cánh như bướm, không vọt lên như những con diều hâu lớn, mà vui chơi một cách đầy kiêu hãnh và tự tin trong môi trường không khí, nhiều lần nâng mình lên với tiếng kêu cục cục đặc biệt của nó, nhiều lần buông mình rơi tự do rất đẹp, lật đi lật lại như một cánh diều, rồi lấy lại tư thế sau một cú bổ nhào ngoạn mục, như thể nó chưa bao giờ đặt chân lên terra firma. Hóa ra nó không có bạn trong thế giới này - nó chơi một mình ở đó - và không cần gì ngoài buổi sáng và ête mà nó đang chơi với. Nó không cô đơn, mà làm cả trái đất cô đơn bên dưới nó. Mẹ đã ấp ra nó ở đâu, họ hàng thân thích của nó ở đâu, cha của nó ở chỗ nào trên trời? Là chủ của không khí, dường như nó chỉ liên quan với đất bởi một quả trứng được ấp trong một khe núi, hay cái tổ nơi nó chào đời được xây trong một đám mây, được bện bằng những đồ trang sức sặc sỡ của cầu vồng và bầu trời hoàng hôn, và được nhồi đầy sương mù từ dưới đất bốc lên trong một ngày hè êm dịu?
Ngoài ra hôm ấy tôi còn câu được một mớ những con cá hiếm hoi màu vàng, bạc, và đồng sáng chói, trông như một chuỗi ngọc. Chà! Đã bao lần trong buổi sáng đầu tiên của mùa xuân tôi đi sâu vào những đồng cỏ ấy, nhảy từ gò này sang gò kia, từ gốc liễu này sang gốc liễu khác, khi thung lũng của dòng sông hoang dã và những cánh rừng được tắm gội trong ánh sáng tinh khiết và rực rỡ đến mức tưởng như đã đánh thức cả những người đã chết nếu họ còn đang ngủ trong mồ. Chẳng còn bằng chứng nào mạnh hơn về Bất tử. Mọi vật phải được sống trong một ánh sáng như thế. Này hỡi Thần Chết, nọc độc của ngươi đâu? Hỡi Địa Ngục, chiến thắng của ngươi đâu? [547].
Cuộc sống trong thành phố của chúng ta sẽ trở nên tù đọng nếu không có những khu rừng và những đồng cỏ hoang bao quanh nó. Chúng ta cần thiên nhiên hoang dã như thuốc bổ tinh thần - đôi khi cần lội qua những đầm lầy nơi những con vạc và những con sâm cầm, gà nước lẩn núp, nghe tiếng trầm sâu của con chim dẽ giun, ngửi mùi lau lách xì xào nơi chỉ có con chim hoang dại và cô đơn hơn xây tổ, và con chồn vizon bò ép bụng sát đất. Cùng lúc chúng ta hăm hở khám phá và học hỏi mọi điều, chúng ta lại đòi hỏi mọi vật phải huyền bí và không thể khám phá, rằng đất và biển phải vô cùng hoang dã, chưa được chúng ta thăm dò khảo sát, vì chúng là thăm thẳm khôn dò. Với chúng ta Thiên nhiên không bao giờ đủ. Chúng ta phải lấy lại sinh khí khi nhìn những cảnh tượng mênh mông vô tận và hùng vĩ phi thường của nó, bờ biển với những xác tàu đắm, những bụi cây hoang dã với những cây sống và những thân cây mục nát, đám mây dông, trận mưa kéo dài ba tuần lễ và gây nên lũ lụt. Chúng ta cần phải chứng kiến những giới hạn của chúng ta bị vượt qua, và một cuộc sống phồn thịnh nơi chúng ta chưa bao giờ lai vãng tới. Chúng ta thích thú nhìn con kền kền ăn cái xác thối rữa làm chúng ta ghê tởm, và thấy nó lấy lại được sức khỏe và sức mạnh từ bữa tiệc này. Trong thung lũng trên đường tới nhà tôi có một xác ngựa chết, buộc tôi đôi khi phải đi vòng tránh đi, đặc biệt trong đêm khi không khí nặng nề, nhưng nó cho tôi thấy sự thèm khát mãnh liệt và sức khỏe bất khả xâm phạm của Thiên nhiên, và điều đó an ủi tôi. Tôi thích nhìn Thiên nhiên tràn ngập sự sống đến mức có thể hi sinh vô số sinh mệnh để làm mồi cho nhau, những cơ thể mềm yếu có thể bị bóp nát một cách bình thản như cục bột nhão - những con nòng nọc bị con diệc nuốt gọn, và những con rùa những con cóc bị chẹt chết trên đường; và đôi khi có cả những trận mưa thịt sống và máu tươi! Những khả năng bị tai họa ngập tràn như thế, chúng ta thấy có quá ít lời giải thích. Theo một hiền giả thì thế giới này thật trong sạch. Thuốc độc dù sao cũng không phải là độc, một vết thương không thể chết người. Lòng trắc ẩn là một lí lẽ yếu ớt. Nó phải thật hữu hiệu. Những lời biện hộ cho nó không thể rập khuôn.
Đầu tháng Năm, những cây sồi, cây mại châu, cây thích và nhiều cây khác, vừa mới bị nhổ ra khỏi những bụi thông quanh đầm làm cho phong cảnh sáng rực lên như được mặt trời chiếu rọi, đặc biệt trong những ngày trời nhiều mây u ám, như thể mặt trời ló ra qua màn sương và chiếu loang lổ trên những vạt đồi. Ngày ba và bốn tháng Năm, tôi thấy con chim lặn gavia trên đầm, và trong tuần đầu của tháng, tôi nghe tiếng chim họa mi đỏ, chim đớp muỗi (whip-poor-will), chim veery [548], chim pewee [549] rừng và những con chim khác. Trước đó tôi đã nghe tiếng chim hét rừng (wood-thrush [550]). Con chim đớp ruồi [551] cũng quay trở lại và ngó nhìn vào cửa và cửa sổ nhà tôi, để xem nhà tôi có giống cái hang thích hợp cho nó làm tổ không, trong khi quan sát toàn bộ căn nhà móng vuốt nó quặp lại, đôi cánh mạnh mẽ dang ra như thể tựa trên không khí. Chẳng mấy chốc phấn hoa vàng rực như màu lưu huỳnh của cây thông nhựa đã bao trùm cả đầm, và đá và những thân cây mục trên bờ, nhiều đến mức có thể thu được cả một thùng đầy. Đây chính là những cơn mưa lưu huỳnh mà chúng ta thường nghe nói. Thậm chí trong vở kịch của Calidas [552] về Sacontala chúng ta cũng đọc thấy những dòng suối nhỏ "bị nhuộm một lớp bụi vàng của hoa sen". Đó là lúc trời chuyển mùa sang hạ, và người đi dạo phải đi trong cỏ ngày càng cao hơn.
Năm đầu tiên của cuộc sống trong rừng của tôi đã hoàn thành như thế đấy. Năm thứ hai cũng tương tự. Cuối cùng tôi rời Walden ngày 6 tháng Chín năm 1847.
Walden - Một Mình Sống Trong Rừng Walden - Một Mình Sống Trong Rừng - Henry David Thoreau Walden - Một Mình Sống Trong Rừng