Điều tôi quan tâm không phải là bạn đã thắng hay thua, mà là bạn có sẵn sàng đón nhận thất bại hay không.

Abraham Lincohn

 
 
 
 
 
Tác giả: William Colby
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Lost Victory
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Ngoc Hai
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Bình Định
hiến dịch bình định cấp tốc là một thành công lớn. Hiệu quả lớn nhất của nó là đã khuyến khích chính phủ và các quan chức địa phương phải nắm lấy quyền chủ động tiến công trong chiến tranh và điều này là ở cấp độ chiến tranh nhân dân. Về vấn đề sống còn của an ninh nông thôn, sau khi làm một vài thẩm tra lúc bắt đầu chiến dịch, chúng tôi đã có một số sửa đổi trong việc phân loại mục tiêu ban đầu của các thôn ấp để loại trừ một số nơi đã đạt tới trình độ an ninh trung bình (trong một số trường hợp, các viên chức đã xếp loại nơi mình thấp hơn để rồi lại tự giao cho mình những công việc mà thực ra họ đã hoàn thành rồi). Mục tiêu cơ bản là tăng được nhiều hơn số dân sống an toàn đã đạt kết quả tốt: hơn một triệu dân đã được sống an toàn ở các thôn ấp xếp loại từ A đến C và ở đấy chính quyền đã được thiết lập vững chắc.
Theo các báo cáo gửi về thì nói chung, chiến dịch bình định cấp tốc đã đạt được các mục tiêu. Tuy nhiên, một vài số liệu cũng tỏ ra đáng ngờ đối với chúng tôi và đó là điều mà ít nhất người ta có thể nói. Ví dụ như người ta có thể tự hỏi về con số bảy nghìn thành viên của bộ máy cộng sản đã bị loại trừ khỏi vòng chiến hoặc đầu hàng đấu thủ, hồi chánh quốc gia hoặc bị bắt, bị giết trong các cuộc hành quân của quân đội hay cảnh sát. Điều đáng tiếc nhất mà chúng tôi thấy nhiều nơi có khuynh hướng “bất cứ một du kích nào ra đầu hàng, đầu thú hoặc bị bắt giết thì nơi ấy đều nâng họ lên thành cán bộ của bộ máy bí mật của cộng sản tức đối tượng chính của chương trình Phoenix”. Chúng tôi cũng có những hoài nghi nào đấy về con số 1,1 triệu dân tham gia lực lượng phòng vệ dân sự và trong đó số người được huấn luyện đã lên tới 400.000. Nhưng con số 170.000 súng đã được phát xuống các thôn ấp thì không có gì đáng phải nghi ngờ. Vả lại người ta cũng nhận thấy ngay con số ấy còn “thấp” hơn mục tiêu 200.000 súng đề ra. Con số 8.600 người ra chiêu hồi báo cáo về thì cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 5.000 người, nhưng chúng tôi có thể chấp nhận được vì nó chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng Cửu Long, vả lại phần lớn họ là những người ít liên quan đến cộng sản và nay họ có thể tự do khẳng định việc họ ưa thích chính phủ hơn.
Điều đáng chú ý nhất đối với chúng tôi là cộng sản không chống cự lại chiến dịch bình định cấp tốc. Có lẽ trong con mắt của họ nó chỉ là một trong rất nhiều chương trình đã từng tồn tại trên giấy nhiều hơn là trên thực địa. Nhưng điều này không dính dáng gì tới chiến lược của chúng tôi. Chủ định của chúng tôi chính là nhằm mở rộng sự có mặt của chính phủ ở những vùng ít bị địch xâm nhập để có được những bàn đạp cho sau này mở rộng thêm chứ không phải để đối đầu với địch ở nơi mà họ mạnh. Chúng tôi đã đạt được những mục tiêu chủ yếu: giành được quyền chủ động trong một cuộc đấu tranh cơ bản là chính trị, dần dần đưa được dân về với chính phủ và tước mất của kẻ địch những mối liên hệ họ có được trước đó với dân.
Chiến dịch bình định cấp tốc đã đem đến cho phía chính phủ một điều còn giá trị hơn nhiều so với quyền chủ động: đó là tổ chức. Tổng thống Thiệu nhanh chóng hiểu ra rằng với một chiến lược bình định quan trọng như thế này thì nó cần phải có một cơ cấu điều hành thống nhất giống như với cơ cấu mà người Mỹ cuối cùng đã tổ chức ra C.O.R.D.S. Vậy là ông tổ chức ra một “Hội đồng bình định và phát triển trung ương” để chỉ đạo chiến dịch và cả các bộ, các cơ quan tham gia chiến dịch. Ông đưa nó vào thành một cơ quan của thủ tướng và trang bị cho nó một tổ chức riêng do thiếu tướng Cao Hảo Hớn phụ trách và trực thuộc thủ tướng. Tất cả các bộ của chính phủ, kể cả Bộ Quốc phòng và Bộ Tham mưu liên quân đều có đại diện trong hội đồng ấy nhằm làm cho các chỉ thị của họ đều có hiệu lực đối với các cơ quan địa phương tham gia chiến dịch. Như vậy không một ai có thể nói là không biết đến các chỉ thị đó, lấy cớ rằng họ đã không nhận được nó từ bộ chủ quản.
Về phía Nam Việt Nam, một tổ chức hình tháp đã được thiết lập: trên ngọn tháp là tổng thống, rồi ngay dưới đó là Hội đồng quốc gia, tiếp theo là bốn hội đồng của bốn vùng chiến thuật dưới quyền của các chỉ huy vùng và kết thúc ở dưới là bốn mươi tư hội đồng tỉnh do các tỉnh trưởng phụ trách. Các hội đồng hàng tỉnh tập hợp trong một tổ chức duy nhất các đại diện các bộ ở mỗi tỉnh nhằm mục đích là thiết lập và thực hiện ở đấy một kế hoạch bình định có sự liên kết chặt chẽ. Mọi cơ quan chính phủ đều đóng góp phần mình vào nỗ lực chung. Thời mà các cơ quan mạnh ai nấy làm theo sở thích của mình đã qua rồi. Với cơ cấu tổ chức như hiện nay, kế hoạch bình định đã được kiểm soát ở mỗi tỉnh, ở mỗi cấp trong hình tháp và được chấp nhận trên thượng đỉnh bởi người Việt Nam và có sự điều chỉnh khi nó tỏ ra quá thận trọng hay thiếu phối hợp hài hòa với các tỉnh lân cận.
Cơ cấu của Mỹ cũng khuôn theo mô hình tháp của người Việt Nam: C.O.R.D.S. làm việc với Hội đồng trung ương và với các bộ, các chương trình khác nhau của Việt Nam, rồi làm việc với các đội C.O.R.D.S. ở các vùng và cuối cùng ở cấp trọng yếu nhất là với các êkíp cố vấn ở các tỉnh do một cố vấn cao cấp phụ trách và cố vấn này có quyền kiểm soát các cố vấn Mỹ của các chương trình khác nhau, cả dân sự và quân sự làm việc trong tỉnh.
Tất cả các báo cáo, dù của hệ thống đánh giá thôn ấp hay của các chương trình như Chiêu hồi, Phoenix và Lực lượng lãnh thổ, đều đi theo con đường hệ thống dọc của Nam Việt Nam và Mỹ. Nó được chia sẻ ở toàn bộ các cấp. Các phân tích thông tin của phía Mỹ sẽ là công cụ làm việc giúp cho cả Nam Việt Nam và Mỹ có thể đánh giá được kết quả thu được.
Tổng thống và thủ tướng sẽ đi công cán đến các vùng và tỉnh để kiểm tra xem kế hoạch có được tiến hành tốt hay không và so sánh kết quả thực tế với các báo cáo nhận được. Trong tiến trình đó, mạng lưới của C.O.R.D.S. đã đóng một vai trò quan trọng. Tôi thông tin cho tổng thống hay các thành viên Hội đồng trung ương các báo cáo độc lập của C.O R.D.S., trong đó lưu ý họ về những điểm yếu và bất cập của các địa phương để qua đó họ có thể chỉ đạo và uốn nắn các viên chức địa phương. Trong các báo cáo ấy, người Mỹ đã không ngần ngại khi cần phải chỉ trích các viên chức Việt Nam hoặc kiến nghị thay thế họ.
Trong những mối quan hệ như thế, tất nhiên các khó khăn và khác biệt được nảy sinh. Các viên chức Việt Nam không đồng tình với một số ý kiến của chúng tôi, khẳng định do ngôn ngữ bất đồng và những chuyến viếng thăm lẻ tẻ của người Mỹ nên Mỹ không thể đánh giá được đúng tình hình thực tế. Người Mỹ đề nghị nếu vậy sẽ tiến hành đi kiểm tra chung. Và người ta có thể đánh giá được “thiện chí” của người viên chức được “thanh tra” như thế nào qua tầm quan trọng của đoàn tháp tùng mà ông ta đề nghị đi theo chuyến viếng thăm.
Người ta cũng phải chờ đợi một thời gian, trước sức ép của Hội đồng trung ương, các bộ mới chịu từ bỏ các chỉ thị được tỉa tót kỹ càng mà họ có thói quen thảo ra từ trong các phòng có máy lạnh ở Sài Gòn. Cuối cùng, họ cũng muốn nhường lại quyền chỉ đạo và kiểm soát các chương trình của họ cho các tỉnh trưởng để họ quay về thực hiện vai trò đích thực của họ là ủng hộ, giúp đỡ các chương trình.
Một câu hỏi luôn luôn trở đi trở lại, đó là chiến dịch bình định cấp tốc là của Mỹ hay Việt Nam? Câu trả lời thích đáng là của cả hai. Sự thúc đẩy và những sáng kiến dấy lên từ phía Mỹ, kết quả từ rất lâu của họ trong việc gia nhập vào nỗ lực của C.O.R.D.S., là cũng cần thiết cho sức sống của chương trình như mạng lưới các cố vấn độc lập nối Sài Gòn với các tỉnh và các huyện hẻo lánh xa xôi. Những người Mỹ hoàn toàn hiểu chương trình sẽ thất bại nếu nó hoàn toàn là của Mỹ. Nó không thể vận hành được ở các địa phương nếu không có sự thúc đẩy và tổ chức của người Việt Nam. Vậy là chúng tôi chỉ thị cho các cố vấn: vai trò của người Mỹ là cố vấn chứ không phải chỉ huy, gợi ý chứ không áp đặt, ủng hộ chứ không phải làm thay cho các người có trách nhiệm ở địa phương. Trong những cuộc họp để bàn bạc hay chỉ đạo, họ phải đứng ra bên để giành quyền điều khiển cuộc họp cho người Việt Nam.
Cách làm ấy cũng được áp dụng ở cấp cao nhất. Nếu là những ý kiến được thảo luận chung giữa Mỹ và Việt Nam thì sau đó các chỉ thị vẫn phải do người Việt Nam thảo ra, tiếp đó họ phải hỏi chúng tôi về cách thức bổ sung hay sửa chữa. Một nguyên tắc đã được xác định: ưu tiên là thuộc về hệ thống thứ bậc của Việt Nam. Các bản tóm tắt các chỉ thị ấy sẽ được gửi cho Mỹ để các cố vấn biết được đồng sự Việt Nam của họ đã được yêu cầu làm những gì và có thể dựa vào đó để đánh giá kết quả trên thực địa. Đôi lúc, người Mỹ phải đành bằng lòng với những biện pháp mà họ thấy là nửa vời, song điều đó cũng đơn giản chỉ vì muốn xác nhận vai trò hỗ trợ chứ không phải chỉ huy của các cố vấn Mỹ.
Vậy nên giữa chừng chiến tranh bình định cấp tốc, phía Việt Nam đã ra một chỉ thị quy định từ nay Việt Nam sẽ không áp dụng cách phân loại như hệ thống đánh giá thôn ấp của chúng tôi nữa.
Tổng thống Thiệu quyết định các loại A, B, C, D, E sẽ trở thành “các khu vực do chính phủ kiểm soát”, và V sẽ là “khu vực chính phủ chưa hoàn toàn kiểm soát”. Thoạt đầu chúng tôi sợ làm như vậy sẽ làm yếu các cơ sở của chúng tôi ở nông thôn. Nhưng sau đó chúng tôi đã hiểu ra ý đồ của tổng thống Thiệu là muốn giành lợi thế cho mình trong đàm phán ở Paris, khi chính phủ của ông có thể “chấp nhận” nhường quyền kiểm soát cho cộng sản làng này hay làng nọ mà trên thực tế thì ông vẫn không mất gì hết. Từ đó vấn đề phân loại đã được giải quyết một cách thoải mái, dễ dàng: chính phủ cứ sử dụng cách phân loại như tổng thống quy định, còn chúng tôi thì vẫn sử dụng cách phân loại cũ để đánh giá những tiến bộ đạt được ở nông thôn.
Đương nhiên chiến dịch bình định cấp tốc chỉ là một chiếc bàn đạp. Những gì nó đạt được trên chiến trường vẫn ít quan trọng hơn mục tiêu chung của chính phủ Nam Việt Nam và Mỹ, tức là cần thiết phải có một chiến lược bình định dài hạn. Để chiến lược này trở thành hiện thực, chúng tôi đã phải dành rất nhiều thời giờ, thậm chí cả trong ba tháng tiến hành chiến dịch bình định cấp tốc, để xây dựng những kế hoạch bình định đặc biệt cho năm tới, tức từ Tết 1969 đến Tết 1970. Một kế hoạch chung về đường lối hành động và về nguyên tắc do Hội đồng trung ương thảo ra đã được gửi cho các tỉnh để các tỉnh dựa vào đấy mà chuẩn bị kế hoạch của họ (những kế hoạch này sau đó sẽ được đưa ra duyệt ở cấp vùng và trung ương).
Các nguyên tắc vẫn phải bám vào những mục tiêu giống như mục tiêu của chiến dịch bình định cấp tốc, nhưng có lồng vào đấy nhiều yếu tố mới nhấn mạnh vào một chiến lược chính trị dài hơi hơn. Có những vùng được xác định “vùng ưu tiên quốc gia” và có những vùng được ghi lại để các tỉnh cần phải có một sự “chăm sóc” đặc biệt hơn. Nhiều vùng không được xác định, điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ giải quyết sau. Ưu tiên ít nhiều như thế nào sẽ là căn cứ vào những hiểu biết của chúng tôi về mật độ dân cư, dựa vào những tiêu chuẩn của chiến lược bình định theo kiểu “vết dầu loang” mà thống chế Lyautey đã áp dụng ở Marốc mấy chục năm trước đấy, tức là đi từ các trung tâm đông dân, chúng tôi tiến dần ra ngoại vi nhằm củng cố bàn đạp trước khi lan ra các vùng xung quanh. Nói cách khác là chúng tôi sử dụng phòng ngự chiến thuật để phản công chiến lược.
Về mặt chính trị, các kế hoạch đề ra cho năm tới sẽ đặt trọng tâm vào việc bầu bán lại chính quyền địa phương. Kế hoạch đã có dự kiến các cuộc bầu hàng tỉnh cho năm 1967, nhưng do tình trạng thiếu an ninh nên trên thực tế, chỉ có rất ít nơi làm được. Kế hoạch năm 1969 dự kiến tổ chức bầu cử ở tất cả các làng xã bảo đảm có đủ an ninh theo như cách quy định phân loại của hệ thống đánh giá các thôn ấp. Để khích lệ các địa phương, một khoản tiền do C.O.R.D.S. cung cấp nhằm tài trợ cho các dự án phát triển địa phương - mỗi làng một triệu đồng - sẽ được phát cho các làng khi nào bầu cử được thực sự tiến hành. Những làng chưa tổ chức bầu sẽ nhận được ít tiền hơn.
Thêm nữa, đã có quyết định là không một dự án địa phương nào được nhận kinh phí phát triển nếu trước đó dự án không được dân bàn bạc công khai (như xây một chiếc cầu nhỏ, một con mương tưới tiêu, một ngôi trường học v.v…) và được hội đồng hương chính chấp nhận. Hơn nữa, những dự án tương đối nhỏ thì có thể do xã trưởng hay hội đồng duyệt mà không cần được huyện và tỉnh cho phép.
Để mọi nơi nhận được “thông điệp” này, trung tâm huấn luyện cán bộ phát triển nông thôn do Nguyễn Văn Bé - viên đại tá không biết mệt mỏi phụ trách được chuyển thành một trung tâm huấn luyện quốc gia dành cho các ấp trưởng, xã trưởng và thành viên hội đồng hương chính mới được bầu. Người ta dạy ở đấy một bài học chủ yếu: các nhà chức trách mới được bầu ấy là những người phụ trách thực sự của cộng đồng của họ và họ cần phải quản lý các chương trình khác nhau của chính phủ ở cộng đồng của họ với sự tham gia và giúp đỡ của dân chúng. Ý tưởng chính trong bài học là uy tín và quyền lực của họ phải xuất phát từ nhân dân chứ không phải do họ áp đặt cho dân.
Mỗi khóa huấn luyện, mỗi khóa hơn hai nghìn người, kéo dài sáu tuần và kết thúc bằng một lễ bế giảng trọng thể có tổng thống, thủ tướng và một đoàn đại biểu Quốc hội đến tham dự và buổi lễ đã gây ấn tượng mạnh đối với mọi người.
Một biện pháp đặc trưng khác thể hiện tính năng động của kế hoạch 1969 là việc đào tạo những đội cán bộ phát triển nông thôn. Trong bộ bà ba đen truyền thống, họ làm việc thành từng đội năm mươi chín người có khả năng tự bảo vệ mình khi xuống công tác ở nông thôn. Chúng tôi giảm quân số các đội đó xuống còn ba mươi người. Bây giờ để đảm bảo an toàn cho họ, họ sẽ trông cậy vào các đội tự vệ nay đã mạnh ở các địa phương. Lệnh ra cho họ là tập trung nỗ lực vào nhiệm vụ chính của họ là động viên tinh thần của cộng đồng để cải thiện đời sống cho dân hơn là cứ phải lo cho chuyện tự bảo vệ mình.
Tất cả các yếu tố khác của một chiến dịch bình định ở địa phương đều được nhập vào kế hoạch hàng năm ấy và kế hoạch này sẽ vận hành ở quy mô quốc gia, xuất phát từ các huyện và tỉnh. Mỗi một vị trí lại có những mục tiêu của nó: Lực lượng phòng vệ dân sự sẽ phải phát triển từ một đến hai triệu thành viên, trong đó có bốn trăm nghìn được vũ trang, tức vượt hai trăm ba mươi nghìn người so với mục tiêu của chiến dịch bình định cấp tốc. Mục tiêu hai mươi nghìn người xin hồi chánh được ấn định, có dự kiến đến các món tiền thưởng tặng cho các thân nhân đã có công lôi kéo những người này. Một số biện pháp cũng được dự kiến để đưa những người về hồi chánh hòa nhập với cuộc sống cộng đồng và trong một số trường hợp thì bảo vệ họ chống lại sự trả thù của cộng sản. Mục tiêu còn định là phải giảm được số người đi di tản xuống dưới một triệu người, đặc biệt phải đưa được ba trăm nghìn người trong số họ vào sống ở các ấp tân sinh được bảo vệ chống lại các hành động quân sự của địch.
Chương trình Phượng hoàng cần phải làm giảm bộ máy cộng sản xuống chỉ còn ba mươi ba nghìn cán bộ bằng cách tăng cường các hoạt động phát hiện kẻ thù bí mật và chuyển các thông tin ấy cho quân đội, cảnh sát và các thành phần khác và đến lượt mình, các thành phần này phải gây cho địch những thiệt hại (như khiến địch phải rút lui hay bỏ ngũ...), bắt được tù binh hay tấn công địch ngay tận các căn cứ của họ. Sản xuất lúa gạo phải tăng từ năm lên sáu triệu tấn một năm nhờ áp dụng phương pháp mới “thần kỳ” vừa được tiến hành ở Philippines. Chúng tôi phải làm thế nào để không một chương trình nào hoạt động riêng lẻ ngoài khuôn khổ của một chiến lược có sự hỗ trợ lẫn nhau.
Hội đồng trung ương và các chân rết của nó ở các địa phương của phía Việt Nam và tổ chức C.O.R.D.S. của phía Mỹ cố gắng phối hợp với nhau để thúc đẩy việc thi hành chương trình bình định dưới sự lãnh đạo của tổng thống Thiệu. Với sự giúp đỡ của người bạn và phụ tá thông thạo tuyệt vời hai thứ tiếng của tôi, thiếu tá Jean Sauvageot, tôi đã quen dần với vai trò người Mỹ duy nhất có chân trong Hội đồng trung ương - trên thực tế là Hội đồng Bộ trưởng của Nam Việt Nam. Tôi cũng là người duy nhất được mời đi theo tổng thống với tư cách là người cộng sự trên chiếc máy bay của ông trong những chuyến ông về thăm nông thôn, được những người nông dân hay dân chài tiếp đón và tặng những món ăn lạ miệng. Một hôm, làm việc với một quan chức cao cấp Việt Nam, tôi được nghe ông nói: “Chương trình bình định là chương trình được quan niệm một cách tốt nhất từ khi có chương trình ấp chiến lược của Ngô Đình Nhu đến nay”. Về vấn đề này, cả hai chúng tôi đều biết một cái gì đó, những lời nhận xét của ông đã cho thấy rõ giữa những năm 60 người ta đã bỏ phí thời gian biết bao.
Năm 1969, C.O.R.D.S. có cả thảy một nghìn nhân viên dân sự và năm trăm nhân viên quân sự làm việc từ tổng hành dinh cho đến các tổ năm cố vấn Mỹ làm việc với các đơn vị địa phương ở các xã ấp để giúp họ tổ chức phục kích chống lại cộng sản đột nhập, sử dụng vũ khí và trong trường hợp bị tấn công ban đêm thì biết cách gọi cứu viện. Về phía Việt Nam, so sánh lực lượng bắt đầu phản ánh được sự cần thiết của chiến tranh nhân dân: lực lượng dân chúng ở cấp xã, ấp lên tới 215.000 người, lực lượng địa phương cấp tỉnh: 260.000 và lực lượng phòng vệ dân sự: 400.000 có trang bị súng, hơn cả bộ đội chính quy. Quân số của cảnh sát quốc gia từ 75.000 tăng lên 120.000 người, phù hợp với mục tiêu đề ra. Kế hoạch 1969 yêu cầu một nửa trong số cảnh sát ấy phải phân bố xuống các làng thay vì cứ tập trung ở các khu vực đô thị.
Kế hoạch không đề ra việc “đếm xác” đối với các lực lượng địa phương bởi nhiệm vụ của nó là phòng thủ chứ không phải tấn công. Trừ một ngoại lệ nho nhỏ: chương trình Phượng hoàng nhằm vào hạ tầng cơ sở chính trị của cộng sản, có mục đích là làm giảm sự có mặt của địch. Nhưng nó đã được chỉ dẫn rõ ràng cách tốt nhất để đạt mục đích ấy là chiêu hồi hay bắt giữ được địch, bởi nó sẽ giúp chúng tôi có được những thông tin mà không một “xác chết” nào có thể cung cấp được.
Về phía người Mỹ, chương trình càng trở nên cấp bách do những thay đổi ở Hoa Kỳ. Sau Tổng tiến công Tết 1968, giữa Mỹ (và cả chính phủ Nam Việt Nam, tuy rằng miễn cưỡng) và Bắc Việt Nam đã bắt đầu có những cuộc đàm phán. Bắc Việt Nam đã lập ra một chính phủ lâm thời ở miền Nam nhằm, hoặc tiếp nhận sự đầu hàng của chính phủ Thiệu hoặc nắm lấy chính quyền khi người Mỹ - ít ra đây cũng là điều họ hy vọng - lật đổ tổng thống Thiệu. Nhưng Richard Nixon, tổng thống mới của Mỹ không hề có ý định đầu hàng Bắc Việt. Song đồng thời, ông cũng cảm thấy dư luận Hoa Kỳ đang mong muốn có một cái gì đó hứa hẹn hơn là một cuộc chiến tranh kéo dài đầy chết chóc cho một sự nghiệp rõ ràng là vô vọng. Học thuyết của Nixon là ủng hộ cuộc chiến đấu chống cộng sản của các nước nhưng không phải đưa quân đội Mỹ vào làm thay. Lực lượng Mỹ sẽ rút khỏi Nam Việt Nam, người Việt Nam sẽ phải tự mình chiến đấu nhưng có sự giúp đỡ về kinh tế và hậu cần của Mỹ.
Nixon công bố học thuyết mới của ông trong một cuộc họp báo tháng Bảy năm 1969 ở Guam. Ngay sau đó, ông đến thăm Việt Nam, một chuyến thăm ngắn chỉ kéo dài năm tiếng rưỡi. Tại dinh tổng thống, ông gặp Thiệu để nói về chuyện rút quân. Tôi cũng có mặt trong cuộc họp đó, cùng với ông bạn cũ Marshall Green, khi ấy là thứ trưởng về Đông Nam Á. Các nguyên tắc được định đoạt trước đề ra trong cuộc họp thực ra chỉ đơn thuần là thủ tục. Tất nhiên, Nixon cũng dành ra một thời gian quan trọng để chụp chung với binh sĩ Mỹ mấy kiểu ảnh kỷ niệm. Nhưng trong cuộc họp, ông cũng công khai bày tỏ sự quý trọng của ông đối với tổng thống Thiệu và khẳng định Hoa Kỳ sẽ luôn luôn ủng hộ Thiệu và đất nước của ông ta. Trên thực tế, chuyến viếng thăm của Nixon chỉ nhằm mục đích tăng cường chiến lược cơ bản: đó là làm thế nào để quân đội Nam Việt Nam tự đảm đương lấy gánh nặng chiến tranh trên chiến trường, trong khi nhấn mạnh phải làm sao để chương trình bình định có thể giúp cho Nam Việt Nam giành chiến thắng trong chiến tranh nhân dân ở nông thôn. Tôi rất mừng khi thấy tổng thống đã thừa nhận những nỗ lực của tôi.
Học thuyết Nixon lập tức dẫn đến một hệ luận của nó, đó là chính sách “Việt Nam hóa”, một chính sách nhằm trao lại chiến tranh vào tay người Việt Nam và rút quân Mỹ về nước. Hệ quả của chính sách này có thể nhận thấy ở các con số. Giữa 1968, lực lượng của Mỹ ở Nam Việt Nam là năm trăm năm mươi nghìn quân, với một tỷ lệ rất cao của lực lượng yểm trợ. Nay Mỹ rút quân, lực lượng liên quân Mỹ - Việt sẽ có một lỗ hổng lớn và lỗ hổng ấy đòi hỏi phải được lấp đầy bằng cách này hoặc cách khác, nếu không muốn thấy cộng sản thắng thế. Vậy là phải tăng cường lực lượng Nam Việt Nam để họ có đủ sức đương đầu với đe dọa quân sự của địch, đồng thời cũng để thực hiện công cuộc bình định. Nếu nông thôn đã đủ được bảo đảm về an ninh thì quân đội chính quy có thể rút bớt và tập trung lực lượng để chiến đấu với bộ đội chủ lực cộng sản (nhiệm vụ chính của quân đội Mỹ trước đây) và thế cân bằng có thể được giữ vững.
Do đó mục tiêu là phải đẩy nhanh công tác bình định để bù vào việc rút quân của Mỹ sẽ bắt đầu vào tháng Bảy năm 1969. May mắn thay người ta cho rút trước tiên số quân Mỹ đóng ở đồng bằng Cửu Long để đưa tất cả các đơn vị Mỹ ra khỏi một vùng đông dân mà ở đấy người dân tỏ ra rất không hợp với quan niệm “đếm xác”. Những mục tiêu địa lý của bình định - tức bình định những nơi nào - thì vẫn không có gì thay đổi nhiều, nhưng giờ đây mục đích thực sự của chúng tôi, như tôi đã nói với John Vann là giải phóng những đơn vị chính quy Nam Việt Nam ra khỏi đồng bằng để họ ra thay thế cho những đơn vị Mỹ và đương đầu với quân chủ lực Bắc Việt Nam hoạt động trên các tỉnh phía Bắc và vùng rừng núi giáp biên. Vai trò của tôi là thúc đẩy phong trào theo hướng ấy để tướng Abrams có thể rút quân Mỹ về nước và cung cấp cho người Việt Nam các phương tiện để chiến đấu. Về phía mình, đại sứ Bunker ra sức trấn an người Việt Nam, trong khi Henry Kissinger tìm cách thương lượng về việc giải quyết chiến tranh với những người Bắc Việt Nam, những người không biết khoan nhượng là gì và cứ đưa ra đòi hỏi trước hết là phải gạt bỏ Thiệu, điều sẽ giúp họ đoạt được chính quyền.
Tôi thường mời các nhà quan sát - phóng viên Mỹ hay ngoại quốc, khách đến từ Washington, các đại sứ nước ngoài ở Nam Việt Nam - cùng tôi đi buổi tối ra các tỉnh. Tôi chú ý để họ có thể dự các buổi họp và ở đấy họ có thể tha hồ hỏi những gì họ muốn hỏi vì có thể nói chương trình không có gì là bí mật. Tôi chỉ yêu cầu khi viết bài, các nhà báo đừng viết rõ tên những người Việt Nam hay người Mỹ mà họ trò chuyện. Như vậy tôi cũng che chở cho các viên chức bậc trung thoát khỏi cơn thịnh nộ mà các cấp trên của họ thường không tha gì mà không giáng xuống đầu họ, mỗi khi biết rằng họ chính là nguyên nhân của những lời phàn nàn mà chúng tôi nhận được - hoặc khêu gợi được - có liên quan đến các vấn đề và khó khăn của chương trình.
Làm như vậy, tôi hy vọng sẽ gây được một sự thông cảm nào đấy đối với chương trình, cả về phía bạn đồng hành của tôi cũng như đối với bạn đọc hay người đối thoại khác. Thường thì các quan chức có sự phản ứng tốt hơn, nhưng với các nhà báo thì nó có vẻ tồi tệ hơn. Stewart Alsop, người đã cùng tôi nhảy dù xuống nước Pháp hồi Thế chiến thứ hai, sau này đã trở thành một nhà viết xã luận nổi tiếng của tờ Newsweek. Ông đã cùng John Vann và tôi ròng rã đi suốt một ngày trên con đường đã hư hại nặng đến tỉnh An Xuyên xa xôi của đồng bằng Cửu Long, dọc đường ghé chân nhiều nơi và xem một buổi tập bắn pháo. Sau đó trở về, ông đã viết một bài báo trong đó có một câu: “Họ có thể gần như đã đạt tới”. Theo tôi, có lẽ đó là nhận xét tích cực nhất mà tôi được đọc trong báo chí Mỹ hồi ấy.
Một nhà báo khác đã đặt tay vào một thực tế phải nói là khá tinh tế. Trong chuyến bay trở về Sài Gòn trên chiếc trực thăng, ông có ý cho rằng trong chuyến đi đêm trước, ông chưa thấy có một điều gì “kỳ lạ” để có thể viết nên một bài báo. Đúng như vậy, chuyến đi của chúng tôi chẳng gặp một sự cố gì đặc biệt: không một phát súng cối hay rốcket của Việt cộng. Thế là tôi bèn lưu ý ông rằng tuy nhiên, ông đã đặt tay vào một thực tế rất thú vị khi ông hỏi chuyện một cụ già, đề nghị cụ hãy so sánh cuộc sống năm nay của cụ với cuộc sống năm trước. Tôi giải thích cho ông rằng vào thời kỳ đó, lẽ ra cụ đã phải vào sống ở trong một trại tị nạn, chẳng biết gì hết về số phận con cháu của cụ. Nhưng đến nay, cụ đã được trở về làng, làm lụng ở quê, được sống trong ngôi nhà mà một người con của cụ đã dựng lại trong khuôn khổ của chương trình ân xá và được hưởng sự che chở của một người con khác có chân trong đội phòng vệ, trong khi người con thứ ba của cụ có thể đang chiến đấu trong hàng ngũ du kích Việt cộng. Đó chẳng phải là một sự “hái ngược rất ấn tượng” xứng đáng làm đề tài cho một bài báo hay đó sao. Người khách phóng viên của tôi hoàn toàn công nhận ngay điều đó, nhưng cả hai chúng tôi đều không thể có cách gì để lôi kéo sự chú ý của giới thông tin đại chúng vào một chương trình mà về bản chất, nó rất khó có thể “gây ấn tượng”.
Tôi có nhiều chuyến đi như thế với tổng thống, thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Phát triển nông thôn và nhiều quan khách khác cùng phái đoàn cùng đi với họ để xem xét sự hoạt động của chương trình và vị trí của các khu vực mà họ quan tâm trong chiến lược tổng thể. Điều đó đã làm nảy sinh nhiều tình tiết rất bổ ích. Một hôm, trong cuộc họp cấp vùng, một tỉnh trưởng bực tức tuyên bố: nếu người ta cứ để các ấp trưởng, xã trưởng có quyền quyết định về những dự án của địa phương mình mà chẳng cần xin phép trước tỉnh trưởng thì sẽ không tránh khỏi chuyện tham ô lãng phí. Lập tức thủ tướng thẳng thừng bác bỏ: “Tổng thống và tôi tạo ra một xã hội dân chủ mà ở đấy những người được bầu ở địa phương có quyền và có trách nhiệm thực tế. Nếu họ tỏ ra có một quyết định sai lầm thì các cử tri có quyền chọn một người khác xứng đáng hơn để thay thế họ.”
Một trong những chuyến đi thăm ấy đến các tỉnh, tổng thống Thiệu nói rõ với những người phụ trách vùng và tỉnh rằng: họ phải ủng hộ chương trình một cách không hạn chế và toàn tâm toàn ý cộng tác với các cố vấn Mỹ cũng giống như các êkíp của C.O.R.D.S. ở Sài Gòn đã cộng tác với Hội đồng trung ương. Ông không do dự khi lấy việc coi tôi là một thành viên trong chính phủ của ông để dẫn chứng cho sự cộng tác mẫu mực ấy.
Trong một chuyến đi dài theo trục lộ chính Nam - Bắc, chúng tôi đã đi qua Quảng Tín, Quảng Ngãi, Quảng Nam đến thành phố Đà Nẵng, nơi có sở chỉ huy của lính thủy đánh bộ Mỹ. Quảng Ngãi cho người ta thấy quang cảnh của một tỉnh hoàn toàn bị chiến tranh tàn phá: những ngôi nhà đổ nát, những trại tị nạn, những cây cầu bị đánh gục. Đó cũng là nơi diễn ra thảm cảnh Mỹ Lai, mà ở đấy một đơn vị Mỹ bực tức vì không sao phát hiện được kẻ thù nằm giữa lòng một khu cư dân, đã tàn sát toàn bộ dân chúng một làng.
Qua Quảng Tín, người ta có cảm giác như ngắm một tấm bưu ảnh: đồng ruộng tốt tươi và đất đai màu mỡ này còn trải rộng ra xa ngoài con đường. Nhân một đêm nghỉ lại tại một ngôi làng hẻo lánh, chốc chốc lại nghe thấy tiếng đạn rốcket của địch bắn vào một căn cứ Mỹ từ phía Nam dội lại. Ngoài rìa tỉnh Quảng Nam, bộ mặt của chiến tranh lại xuất hiện: những cây cầu làm tạm bợ, những đồn tiền tiêu bằng gỗ đất xung quanh rào kẽm gai, hình ảnh của một sự bất an thường trực.
Tôi biết tại sao Quảng Tín lại có một bộ mặt khác: đó là nhờ một tỉnh trưởng chín chắn, khôn ngoan, đại tá Hoàng Đình Thọ. Rất hiểu giá trị cơ bản của con người trong chiến tranh, ông đã mời đến ăn cùng ông những người trước đây là kẻ thù nay đã chọn con đường xin hồi chánh. Ông nói chuyện lâu với họ về quá khứ, về động cơ, về những kinh nghiệm của họ và bảo đảm họ sẽ được đối xử tử tế trong tái nhập cộng đồng. Nhờ họ, ông biết được nhiều thông tin về địch và điều quan trọng hơn, là tranh thủ được thêm nhiều người quay về với quốc gia. Chương trình bình định ông áp dụng trong tỉnh được đặt trọng tâm vào củng cố chính quyền địa phương và vào những dự án mà người nông dân quan tâm bởi nếu không thì họ sẽ quay về với địch, hy vọng có một số phận tốt đẹp hơn.
Một trong số quận trưởng của đại tá Thọ cũng tỏ ra rất đắc lực, khiến tôi đã phải thuyết phục thủ tướng để mời ông đi cùng tôi đến thăm huyện của ông này một buổi tối. Tình tiết đáng nhớ nhất của chuyến thăm ấy là cả đoàn chúng tôi, ngồi kèm sau xe máy, đã rong ruổi hết làng này sang làng khác. Không có quân đội chính quy của cả Nam Việt Nam hay của Mỹ đi hộ tống, tất cả chỉ trông cậy vào các lực lượng an ninh địa phương và tinh thần cố kết mà những người phụ trách ở đấy đã tạo được trong cái ốc đảo yên bình của họ. Sự trái ngược giữa huyện này với huyện kế cận ở phía Bắc thật là đáng kể.
Điều có ý nghĩa nhất, đó là việc lính thuỷ đánh bộ Mỹ đi tìm diệt kẻ thù ở những tỉnh phía Bắc Quảng Tín. Bộ đội chủ lực Bắc Việt tất nhiên chiếm lĩnh vùng rừng núi phía Tây hai tỉnh, nhưng sự tương phản giữa hai vùng có dân của hai bên đã chứng tỏ sự hơn hẳn của công tác bình định, đứng trên cách tiếp cận hoàn toàn quân sự của chiến tranh mà nói. Tôi nhớ có lần đến thăm một điện thờ đèn nến sáng trưng ở một làng ven biển của Quảng Tín. Khung cảnh các trận chiến đấu ở quê hương chứng tỏ rằng không khí thanh bình này đã phải trả bằng cái giá của nó, nhưng ít ra đồng bào của những người đã khuất cũng được yên ổn sinh sống, làm ăn.
Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ - William Colby Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ