Số lần đọc/download: 1778 / 36
Cập nhật: 2017-08-29 15:43:50 +0700
Ở An-Giê
BÓNG NƯỚC ĐỊA TRUNG HẢI hắt lên lẫn lộn khoảng vàng khoảng trắng rồi lại xanh thẫm xuống, thật hắt hiu. Cảm tưởng hờ hững của người nhìn qua cửa sổ không đúng với những gì của cuộc sống hối hả, sôi sục, gầm thét dưới kia. Châu Âu đương đòi quẳng đi hơn hai trăm cái tên lửa Cru-dơ đầu đạn nguyên tử tầm trung Mỹ vừa khiêng sang đặt khắp các xó xỉnh từ Hà Lan đến Tây Đức.
Nhưng mà chẳng mấy lúc, vùng đất hoảng hốt ấy cũng đã xa mờ.
Tôi đương xuống phía nam.
Hơn một nghìn cây số bờ biển An-giê-ri êm đềm. An-giê-ri đất nước châu Phi Địa Trung Hải, bao nhiêu dân tộc nghìn năm qua lại, những người Béc-ba, Phê-ni-xiêng, Ả-rập... gặp nhau trên ngã ba ngã năm kỳ lạ ấy. Vườn ô-liu xanh rờn, vườn cam vàng rực. Cả một cánh đồng chà là xòe tán vào mùa thu mà nước ở đây ấm hơn hẳn khi bờ bến Tây Ban Nha bên kia đã xuống tuyết. Một mặt biển mà cái lạnh và nóng nắng xen kẽ nhau. Dưới bãi Ti-pa-sa, người ta tắm và chơi thuyền. Trên núi Chê-rê-a ngay cạnh, bãi trượt tuyết đỉnh núi. Rừng thông, rừng bách phủ kín dãy Ka-bi-ki, giữ lại đấy một mùa hè mát dịu. Nhưng từ biển vào, khi đã qua những vùng đồi cỏ chăn cừu, những cánh đồng lúa mì, đồng củ cải đỏ, lại gặp một An-giê-ri khác. Đấy là những biển cát ở En-uát, những đồi sỏi Ga-dai trần trụi mở đường vào vùng dầu lửa và hơi đốt ở Hát-xi Mét-xau, ở Hát-xi R’men rồi từng đoàn lạc đà chậm rãi hàng trăm hàng nghìn con, ròng rã đằng đẵng đêm ngày đi ngập trong bóng cát sa mạc Sa-ha-ra huyền bí.
Ta lại tưởng đến đây thì gặp Hy Lạp trời trong xanh ở Séc-xen, các làng mạc đá trắng Ả-rập ở Công-xtăng-tin và thiên nhiên Thụy Sĩ mát rượi vùng núi Ka-bin với đôi chút hoang dã Mếch-xích trong lùm chà là cạnh giếng nước tình cờ bắt gặp ở nơi trú chân giữa mênh mông kia. Di tích lịch sử trên đá, nghệ thuật và kiến trúc I-xlam đồ sộ, bề bộn, chẳng khác lúc nào cũng khơi gợi người ta đợi vào nhảy trong tiếng trống “ráp”, tiếng kèn “gai-đa” dù trên thềm đá một dinh thự cổ hay trong lều bạt hoang vu khi mặt trời đương lặn. Đâu đâu cũng giao hòa hồn cốt các nền văn minh châu Phi với Trung Đông và Địa Trung Hải.
Những cái khác nhau mà ăn ý ấy cũng thật đậm, khi trông thấy trên sân bay Bu-mê-điên, hai đầu cánh chiếc Bô-ing 727 của hãng hàng không An-giê-ri như còn đượm hơi tuyết. Thế mà bốn phía gió khơi vào thành phố cảng An-giê dạt dào lên vòm lá chà là lấp lánh và nắng in hoa đôi cánh tay trần của cô gái bầu bĩnh, đen giòn, bưng khay cà phê tới. Đôi chút vào xuân băng tan rớt lại bên kia rồi. Mùa hạ đã thấp thoáng những con buồm trắng như bướm bay đậu rập rờn mép nước.
Ô hay, tôi chưa được đến An-giê bao giờ mà lại dường như đã từng đến. Vẫn trong một trái ngược dịu dàng mà xa xôi, mà hòa hợp. Có phải chỉ vì tôi bỗng nhớ lại những câu vè “bắt lính sang Tây” từ thuở nào, trẻ con trong làng đều thuộc vanh vách. “Kể từ khi bước chân đi... Ba tháng năm ngày thì đến An-giê... Vợ con nhớ giỗ ngày rày cho cam... Bên Tây có chiếc tàu sang. Sinh ra khố đỏ quần vàng... Vai vác khẩu súng, tay cầm bình toong...” Những câu vè ảm đạm, rầu rĩ được kể mãi tưởng không bao giờ hết. Chú Năm tôi ở Sơn Tây đã sang làm lính dắt con la, con lừa bên Ma-rốc, An-giê-ri. Người lính khố đỏ “An Nam” bị đưa đi dẹp “giặc” Mặc Đình Kim [1] nước “Tây đen”. Người lính châu Phi phải sang “An Nam” đánh “giặc” Bãi Sậy, “giặc” Đề Thám. Những mưu toan thế kỷ của thực dân đế quốc đã ràng buộc số phận đất nước chúng ta.
Cái ký ức tản mạn ngây dại của tuổi thơ tôi có chú Năm dắt lừa theo quan Tây ở Bắc Phi đã vào thành phố An-giê thời đại hôm nay, với tôi.
Ở đâu, những thành phố bờ biển, sóng rỡn lên đùa ướt cả gấu váy người đi đường không kịp xắn, bao giờ cũng giữ riêng một vẻ đẹp La-ha-ba-na. Bây-rút, I-an-ta, Bom-bay, Nha Trang, Bãi Cháy, cát và sóng mơn man. Cả màu xanh vườn ô-liu và cây thiên tuế cổ thụ, hoa chà là thơm cùng lẫn mùi muối.
Nhìn lên, An-giê như một lực sĩ vươn vai. Cao cao những dốc phố quanh lên châu tuần trước đài Chiến Thắng, nhóm tượng chiến sĩ súng trường lựu đạn hiên ngang, phía nào cũng thấy. Nhà Bưu điện nguy nga kiến trúc Ả-rập, nhà hàng Thánh Gioóc cũ, những lầu cao, như màu áo, như bắp tay mà cánh rừng xa xanh như mái tóc xõa. Khu An-giê cũ nhà cửa, hè phố phảng phất dáng dấp thời thuộc Pháp, anh em với Hà Nội và Sài Gòn, chỉ khác những đền đài đạo Hồi trơ trụi trắng xóa trên thành phố thoai thoải từ đỉnh núi xuống dầm chân bên bờ cát phẳng lặng.
Chỗ nào cũng thấy An-giê lẫn với núi, rừng cây, bãi cát và xa kia một ngấn biển xanh ngang trời. Khoanh đê chắn sóng ngay bên con dốc luồn dưới cây vắt lên núi.
Mỗi quãng, tưởng tắc vào hẻm đồi, lại mở ra một dãy phố, một ngã tư. An-giê, thành phố hãnh diện có tuổi ngoài nghìn năm, như Hà Nội với Cổ Loa, Tân Đê-li bên Đê-li cũ, như Tbi-li-xi mới cạnh thành cổ cùng soi bóng sông Gu-ra.
An-giê cổ kính đặc biệt. Trước cảng man mác mái nhà lúp xúp gồ ghề sần sùi da cóc. Phố xá chen chúc người lên xuống qua lại bậc đá, khu Cát-ba - mái nhà chồng diêm san sát nối tiếp. Hiệu cắt tóc, hiệu may, hàng quần áo cũ, quầy rau quả... Các quán ăn vách ám khói, sực nức mùi hành. Những bàn cờ, người ngồi quanh, chăm chú, lặng lẽ.
Cái vùng hang hốc ngoắt ngoéo thiên la địa võng đến rợn người này đã nổi tiếng là một khu du kích giữa lòng thành phố. Pháp đã ra công bắn giết, đốt phá. Nhưng chưa bao giờ phá vỡ được hết những bí mật của khu Cát-ba. Cho đến ngày Pháp cuốn cờ về bên kia Địa Trung Hải, Cát-ba vẫn thản nhiên ở nguyên đấy. Những hàng hiên trước nhà, những cột cây chống cửa sổ, như những con mắt tinh thần kháng chiến An-giê-ri. Cát-ba, tụ điểm kiêu hãnh giữa An-giê anh hùng. Những toán dù lê-dương cuối cùng của quan năm dù Mát-xu, viên tướng biệt kích đánh nhau toàn thua trên đồng chiêm Nam Định, Thái Bình ở Việt Nam, chạy về đây lại vỡ mặt vì các chiến sĩ du kích ở khu lao động Cát-ba.
Đài Chiến thắng trên đồi cao vòi vọi hình một lão du kích trong nhóm tượng đài các chiến sĩ tay vung lựu đạn đương vươn bóng dũng liệt từ những mái nhà lụp xụp ở Cát-ba lên.
Cả hạm tàu xâm lược đã vĩnh viễn cút khỏi cảng, có thể vào một buổi sáng nắng trắng toát thành phố tường trắng, trong veo biển xanh và tiếng sóng. Càng sâu thăm thẳm những con mắt cửa sổ tinh anh lạ lùng ấy của khu phố nghèo.
Vùng du kích Cát-ba anh hùng giữa “ba mươi sáu phố phường”, chằng chịt đại lộ xung quanh. Trên lầu hàng cao lâu A-lê-ti trông xuống, từng miếng mái nhà lởm chởm như vảy con tê tê khổng lồ, một đàn tê tê dựng vảy đương lịch kịch lên giữa dốc và nhà nào lúc nào cũng ồn ào, nồng mùi đinh hương, mùi ớt, mùi mù-tạt cay xè, kích thích.
Dạo quanh Cát-ba, gần nửa đêm tôi mới về đến vùng bắc thành phố. Đường lớn kề bên biển, ngọn sóng chồm lên ngang thành xe, dựng đứng.
Châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh hùng vĩ và đau thương trong máu và nước mắt. Trăm năm vừa qua, cuộc đời các dân tộc trên trái đất trải những biến thiên lịch sử lớn. Cả đến chú Năm tôi và những người lính da đen ở Đông Khê năm xưa và tôi, cả tôi nữa. Những ngôi sao li ti giữa trời sáng trăng dạt trên ánh nước, như những số phận hiển hiện.
Bờ bên kia, chỉ hơn nửa buổi tàu thủy hoặc ngót giờ bay đã vào cảng Mác-xây. Ngồi đây trông ra đầu vịnh, bán đảo Si-đi Phê-rúc, cây đèn biển thoáng trắng thoáng xanh, bờ đá và bãi tắm so le từng quãng. Ai còn chẳng biết nơi vui chơi đây có những khách sạn hiện đại, cầu kỳ nửa nổi nửa chìm, sóng xô vào tận cửa sổ phòng ăn, thế mà năm 1830, thực dân Pháp đổ quân lên chiếm An-giê-ri đầu tiên đã lập đầu cầu ở đấy.
Nhưng vùng biển Si-đi Phê-rúc đã quang đãng từ năm 1962. Cuộc xâm lược 132 năm của thực dân Pháp đã bị tan tành bằng tinh thần một Điện Biên Phủ - lời thề thiêng liêng của các chiến sĩ An-giê-ri.
Khách sạn càng kề mặt nước. Dãy tường đá cao như pháo đài, nhưng lại là những nhà nghỉ lịch sự. Những hàng ăn và quán cà phê ấm áp: Mùa dong thuyền chơi đương tới. Bến nước nhấp nhô những cái thoi xinh xinh. Có chiếc, nước sơn còn đỏ nhếnh nhoáng nằm trên cát, với chiếc chèo trắng bạch.
Xa xưa và hôm nay trong bóng trăng vằng vặc. Chú Năm tôi ngày xưa chắc đã đổ bộ lên đây. Ừ, thế nào người lính khố đỏ dắt la lừa cũng phải lom khom trèo qua cái bãi đá ngoài kia. Người lính thuộc địa ở An-giê, ở Ma-rốc, ở Pông-đi-sê-ri, ở Việt Nam đem thân ra đi, “Vợ con nhớ giỗ ngày rày…”
Người lính da đen trong đội quân viễn chinh Pháp ngày ấy có phải người An-giê hay không, nhưng tôi cứ ngỡ như phải. Trên chiến dịch Biên giới phía Bắc năm 1950, hôm quân ta giải phóng Đông Khê, một tốp tù binh được đưa từ trong đồn ra. Những người tù binh da trắng da đen lũ lượt đi vào gió rét chiều lất phất mưa dưới gốc đa đầu xóm. Nhiều người cởi trần, vẫn còn hốt hoảng như lúc bị lôi sống ở lô-cốt xuống.
Ai biết có Bác Hồ trong những người đứng ven đường. Hay là người ta biết mà im lặng bảo đảm kỷ luật chiến trường. Trông thấy bác sĩ Chánh tôi quen, tôi mới nhận ra. Anh Chánh cũng mặc quần áo bộ đội xám lá cây, quần xắn như Bác. Bác đội nón lá, cái khăn tay che ngang cằm, vắt ra sau cổ, chỉ nhìn được đôi mắt chăm chú.
Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Người tù binh da đen sau cùng đương đi tới. Co ro, trần trùng trục. Bác Hồ bước ra, cởi nhanh cái áo sơ-mi Bác đương mặc, khoác vào vai người tù. Người ấy sững lại, lắp bắp nói, rồi lại lật đật chạy ngay theo hàng, trong khi bác sĩ Chánh lấy chiếc khăn mặt buộc túi của anh, vắt lên hai vai Bác đã ướt mưa.
Chẳng bao giờ người tù binh biết được ông già cho anh cái sơ-mi - đấy là người công nhân phụ việc “mạch lô” ngày trước đã từng qua các cảng An-giê, Ca-da-blăng-ca... khắp châu Phi.
II.
Thành phố An-giê, bờ biển cát trắng bên những ngọn đồi hoa mi-mô-da vàng hây quanh các dinh thự. Đâu cũng vẫn một An-giê xinh đẹp ấy. Những đường đá trắng đồi En Bia sang Mu-ta-pha sáng điện và xanh cây. Lại từ Bô-na-ri-da đến Ku-bai, đến những khu nhà đồ sộ giữa vườn cọ pan-ma và chà là, lại quanh xuống khu Cát-ba. Đến cửa rừng thông Đi En Ma-con nhìn xa, gặp lại mặt biển kẻ một đường xanh chân trời.
Mỗi lần tha thẩn, quanh quẩn lên dốc xuống dốc khu phố lao động Cát-ba lại khám phá ra những thú vị mới. Phố lao động, nhưng lại không phải dân tứ chiếng ở lều “bi đông” tường thùng sắt mái ni-lông. Cát-ba cổ kính đã ra đời trước cả những dinh thự thành quách xung quanh - có lẽ nơi tụ cư của những người thoạt đầu đến lập nên thành phố cảng.
Tôi xuống bậc đá cuối ngõ ẩm ướt. Thế nào mà tự dưng trông thấy cái bảng có dòng chữ Restaurant Hà Nội - Hiệu ăn Hà Nội, chữ viết sơn đen mờ trên miếng gỗ mộc ám khói trong bóng nhập nhoạng những mái nhà. Vậy mà thình lình, như có linh tính, sự chú ý hút ngay vào đấy. Ai như tôi lúc này, chắc cũng thế. Dường như gặp lại đất quê ngay trước mặt. Hai chữ “Hà Nội” vuông vắn, chân phương dấu huyền, dấu mũ, dấu nặng. Quanh tôi lại bồi hồi lẫn lộn hôm nay và ký ức, có chú Năm tôi dắt con la đến vắt chiếc thừng da vào cột hiên, có người tù binh năm nào ở Đông Khê đương ngồi hau háu trông ra, hình như vẫn mặc tấm áo sơ-mi ka-ki xám nhạt ấy.
Tôi bước vào quán. Tiếng chim sẻ róc rách trên đầu hồi. Cảm tưởng lạ lùng tôi vừa thấy đã hóa ra quen thuộc. Đây chẳng khác một hàng cháo lòng, hàng phở, hàng bánh cuốn mà khách ngồi chực bà hàng tráng từng chiếc, ở một khe cửa, một vỉa hè nào trong những ngõ phố khúc khuỷu, tun hút ở Hà Nội, ở Sài Gòn.
Ngoài thành tường, mấy người thong thả ngồi chơi, chân buông thõng. Một cụ già vác trên vai một con cừu nhỏ, không biết ông đi chơi hay đem cừu đi đâu. Trước mặt, bác thợ cắt tóc giơ kéo làm điệu tóc tách quanh đầu một chú bé ngồi im trên cái ghế sắt xếp. Chẳng ra vẻ cao lâu tửu quán gì cả, cái Restaurant Hà Nội chỉ là một hàng cháo bò.
Thành phố An-giê trên ngã tư ngã năm lịch sử. Bờ nam Địa Trung Hải này thêm cái hàng cháo bò cháo cừu của ông An càng đậm nét của thế kỷ. Một gian hẹp như mọi gian nhà ở khu lao động Cát-ba. Quầy làm hàng kê góc trong. Chiếc thùng tôn trắng phau đặt trên lò, nghe tiếng cháo sôi ùng ục đều đều. Một dãy móc sắt lủng lẳng những buồng gan, quả tim, quả cật, cái pín, chiếc cổ hũ, miếng sách xù xì vỏ mít, bộ lòng non vắt như chằng thừng. Mọi thứ sắp sẵn, chỉ đợi lẳng xuống chảo cho sủi tái. Bên trong, xếp những bó hành ta, rau húng, cả cà chua, khoai đã luộc, bóc vỏ và hành tây, tỏi tây cho những khách ưa món súp hổ lốn. Ông chủ hàng quấn tạp-dề xanh, một mình đứng giữa các thứ đồ nghề. Con dao xẻo miếng gan, miếng nầm, miếng thịt tái, ném xuống chảo. Từng bát đã lót sẵn rau thơm và gia vị được múc cháo nóng sôi vào.
Khách xúm xít nhìn chủ quán với tay và dao và muôi cứ múa hoa lên, rồi hí hửng được bưng bát cháo của mình ra bàn. Vào hàng này người ta thích thế và bao lâu nay đã thế.
Bàn ăn kê giữa nhà ôm một cái bể thủy tinh tròn to choán cả, khiến cái bàn rụt lại, chỉ như máng gỗ mép bể nước. Mặt bể nở những cánh bèo xanh ngắt. Ở làng xưa, ao bèo tấm, bèo ong, những ô bèo cái vuông vắn trong các sào nứa, ngày ngày cô gái ra xắn quần lên tận bẹn lội vớt - giống bèo cái nấu trộn cám, lợn đen, lợn ỉ ăn vào lớn trông thấy.
Thế mà giữa nhà hàng ở An-giê trong bể cảnh nở đầy bèo cái. Cánh bèo xanh phấn, mỡ màng, chùm rễ trắng ngà lưa thưa. Một đôi cá trắm lượn ra, giống cá trong tranh đớp trăng trung thu, những chiếc vẩy đẹp lấp lánh như đôi mắt trẻ thơ.
- Chào ông An!
Ông An ngước lên, dừng tay dao pha thịt, nhẹ nhàng hỏi:
- Anh mới sang à?
Tiếng cuối hơi nặng giọng người kẻ bể Thụy Anh, Diêm Điền. Và câu hỏi, cách hỏi ấy cũng có thể biết ông là người tinh ý và chắc ông thường quen biết anh em trong sứ quán. Ông hỏi thêm:
- Có ở đây lâu không?
Bấy giờ khách ăn đã vãn. Ông An bảo tôi:
- Ta làm bát mì ăn tạm nhé. Làm nghề gì thì sợ các thức nghề ấy. Anh bán phở thích cơm chan nước rau muống luộc, mà cái anh nhà bếp cao lâu suốt ngày phải đứng ngửi mùi mỡ lót chảo, đến lúc rời tay ra, chỉ còn ao ước bát nước chè tươi vò thật đặc. Nghề đời nó thế, anh ạ.
Tôi cười. Tôi lại để ý ông An thích gọi nhau bằng anh, dẫu sao chúng tôi chẳng ai còn trẻ nữa. Đấy cũng là thói quen của người suồng sã và chân tình.
Tôi hỏi:
- Anh ở An-giê lâu chưa?
Ông An cười nhếch mép:
- Xem nào, “pờ-lúy đờ tờ-răng tăng” [2]
- Thế hẳn anh cũng biết restaurant cụ Quất bên Ma-rốc?
- À cụ Quất. Ông cụ quê ở Yên Hưng. Năm nay ngoài chín mươi rồi. Vẫn lịch sự như Tây. Năm nào tôì cũng nhận được thiếp chúc Tết cụ gửi từ Quảng Yên. Anh biết cụ Quất à?
Tôi cũng chỉ gặp cụ Quất một lần. Có dễ mười mấy năm đã qua. Lần ấy, cụ Quất từ Pa-ri tới và chúng tôi cùng đi chuyến bay từ Mát-xcơ-va về. Ghế tôi cạnh cụ Quất. Tình cờ thế thôi.
Mười năm tuổi, cậu bé Quất bỏ quê ra Hải Phòng làm phụ “mạch lô” hãng tàu Tây Diếc, chạy đường Mũi Ngọc. Ở cái làng Yên Hưng bãi lầy ngày đêm nghe tiếng biển mà làm nghề tàu biển cũng phải. Rồi Quất theo chúng bạn xuống tàu lớn đi đại dương vẫn chỉ là chú bé nhặt than, rửa bát, lau cửa kính. Không rõ đến năm nào Quất lên bờ. Chỉ biết nhiều người Việt Nam lưu lạc trên thế giới đã biết tiếng Phở Quất - restaurant Quất, đông khách đã trên năm mươi năm ở Ca-da-blăng-ca…
Bao nhiêu năm, đại chiến thứ nhất, lại đến đận đại chiến thứ hai, lính tráng các thuộc địa Pháp đổi đồn, đổi trại lung tung cả châu Phi, châu Á, châu Đại Dương ta sang “khố đỏ”, lại đến “ô en ét” - ONS, lính không nghề - nhiều người thường lui tới cửa hàng Phở Quất này.
Năm tôi gặp, ông Quất đã tròn tám mươi tuổi. Nước da săn bánh mật, khỏe, quắc thước. Ông Quất cười hếch hàm, khoe răng chưa rụng cái nào. Hàm răng bàn cuốc của ông nhuộm đen từ thuở trẻ, rồi cả đời lang bạt chân trời góc biển, mà ông cứ để thế, bây giờ thành răng cải mả nhờ nhờ.
Hồi ấy, các chuyến bay về Hà Nội, đường phía tây hay trên phía bắc, đều đợi nhập nhoạng tối mới vào Gia Lâm. Có lẽ đến giờ ấy không quân Mỹ mới ngớt hoạt động. Chiếc IL 18 bay thấp, trông rõ hoàng hôn dưới kia, dải núi Cai Kinh lởm chởm và con sông Kỳ Cùng uốn quanh thị xã Lạng Sơn. Làng xóm xinh gọn vun vào trong lũy tre. Tưởng nhìn được cả trẻ con đương chơi nhởn đầu ngõ.
Từ lúc qua biên giới, ông Quất cứ đăm đăm nhìn xuống.
Ông Quất về thăm đất nước lần ấy, lần đầu tiên. Nhưng ông Quất đã định về ở hẳn nhà, từ mấy năm nay. Cái người hai bàn tay không, dựng lên cơ nghiệp đã quen quyết đoán và làm dứt việc. Vốn liếng và số tiền sang cửa hàng, cả gia tài, ông gửi một nửa vào chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tại Pháp để ủng hộ Nhà nước. Còn đâu ông mang bằng ngân phiếu về đây. Ông sẽ gửi quỹ tiết kiệm cả. Một mình ông, chỉ cái lãi tháng lấy ra ăn cũng thừa phong lưu rồi. Ông đã gửi tiền cho xã xây cái trường phổ thông tám phòng lớp. Ông cũng đã nhờ xã làm nhà cho ông từ lâu. Ông đưa tôi xem ảnh nếp nhà hai gian một chái, lợp lá gồi. Mảnh sân nhỏ lát gạch bát tràng. Nhà và sân, cổng tán, bò rào đều theo quy cách của ông gửi về. Ông nhớ kỷ niệm thuở bé hay ở nông thôn Ma-rốc cũng tranh tre thế sao, nhưng ông nói hệt các cụ ta trong làng: “Nhà gạch bí lắm. Ở nhà lá mát mẻ lại khỏe người”. Rồi ông nheo mắt cười hề hề. Thoải mái y hệt chú Năm tôi ngày trước.
Ông Quất vẫn ngồi yên.
Tôi cũng nhìn ra cửa sổ rồi nói với ông:
- Cái khúc cong cong nước đỏ ấy là sông Hồng, sắp thấy cầu Long Biên rồi.
- Có phải cái cầu Long Biên xuống Phòng, hả me-xừ?
- Vâng xuống Hải Phòng.
Hai hàng nước mắt ông già bỗng ứa ra. Nhưng miệng ông lại mếu máo cười:
- Tôi chưa được biết Hà Nội, tôi chưa được biết...
Phải rồi, khi ông Quất ra đi... Tàu quay mũi bến Sáu Kho…
Chưa có dịp nào tôi trở lại Yên Hưng. Chỉ gặp cụ Quất lần ấy. Nhưng tôi đã đến Yên Hưng từ khi cụ Ọuất chưa về quê. Tôi vẫn nhớ cái làng khuất nẻo trong sương mù và bãi lầy. Nửa đêm nghe tiếng còi tàu rúc ngoài xa.
Tôi đã nói lại với ông An như thế. Chúng tôi trò chuyện về những người nước ta phiêu bạt các nơi. Ma-đa-gát-ca... Xê-nê-gan... Có người đã mất, có người lưu lạc đã hai ba đời... Biến cố đất nước và đời mỗi con người, biết bao số phận, bao nhiêu éo le. Ông Mậu làng tôi vào lính đi “phiếc-me” [3] nhà binh ở A-lép nước Xy-ri suýt lấy vợ bên ấy. Chú Năm tôi dắt con la, dắt con lừa, hết Ma-rốc lại An-giê-ri và cái “người nước Bắc Kỳ ở Bây-rút có cây đàn một dây” năm trước tôi đã có ý tìm nhưng không gặp. Và cả đến cái sự ông An chủ quán cháo bò tha hương gặp nhau ở ngõ phố lao động Cát-ba này.
Ông An kể mấy năm trước ông còn tráng cả bánh cuốn. Đông khách, nhưng mà bận lắm. Có cà cuống không à? Cái này thật thần tình. Tôi nghiệm thấy dẫu đến ở nơi xa lạ thế nào rồi người ta cũng mầy mò ra những cái ăn cái uống chẳng khác quê nhà. Mác-xây phía nam nước Pháp ấm áp, rau cỏ mắm muối nước ta được bà con mang sang từ bao giờ, giống má ra sao chẳng biết, nhưng có đủ cả. Mắm tôm, nước mắm, ớt chỉ thiên, cả ớt gió, ớt Quảng Bình, húng Láng hẳn hoi, không thơm hắc như húng bạc hà Sơn Tây, thìa là nhỏ cây mà đậm mùi khác thìa là Tây nhạt nhẽo. An-giê đối mặt với cảng Mác-xây tàu bè qua lại như phà sang ngang ấy mà.
- À mà tôi sẽ kể anh nghe chuyện cô Tâm. Hôm nay mấy ta nhỉ? - Hỏi thế, nhưng rồi ông An vào cầm tấm bìa lịch treo tường in ở thành phố Hồ Chí Minh có tờ lịch to tướng. Ông An lật lật mấy tờ. Thứ sáu này là rằm tháng bảy âm lịch. Các cụ ta ngày xưa ngoài cái Tết cả thì trọng nhất tết rằm tháng bảy đấy. Tết cúng vong nhân xá tội mà. Năm nào cô Tâm cũng lên ăn tết rằm tháng bảy.
Ở buồng trong nhà ông An có chiếc giường một kê bên cái án thư mộc, lùn vừa tới trần nhà thấp, trên bày chiếc mâm đồng sơn then và một ống hương. Chẳng khác cái giường thờ đơn sơ ở quê. Ông An đương nói về cô Tâm ở Ô-ran.
Tôi hình dung ra thành phố Ô-ran xa xôi, những vườn đồi bậc thang xung quanh mép núi, những bãi cát gập ghềnh chưa bao giờ đến mà trong lòng vấn vương ái ngại như mỗi khi ta nghĩ tới người con gái lấy chồng xa. Ai đã lên Hà Tuyên vào Bắc Mê, đến chặng dừng chân rẽ vào bản Khuổi Nọi phải lội cả buổi qua tám chín khúc suối lớn. Ở Khuổi Nọi cuối rừng ngọn nước ấy, người con gái đi lấy chồng thiên hạ, tưởng như chẳng bao giờ còn về thăm được suối quê mẹ nữa.
Bốn mươi năm đã qua rồi. Ngày ấy cô Tâm mới trạc hai mươi tuổi, chứ chưa phải bà lão sáu mươi như bây giờ. Cuộc kháng chiến toàn quốc mới bắt đầu. Các vùng ngoại thành Hà Nội thật sôi nổi. Du kích mỗi làng tập trung thành trung đội, đại đội. Cô Tâm tiểu đội trưởng một đại đội toàn nữ.
Cô Tâm mất tích trong một trận du kích chống càn. Không ai biết tiểu đội trưởng Tâm đã hi sinh hay bị bắt, trong lúc đánh nhau, lúc rút, đã có việc gì xảy ra. Khi ấy mạng con người như sợi tóc, vương ở đâu, biết đâu... Rồi mặt trận lan rộng ra, mãi đến tám năm sau, có người trở lại, có người không bao giờ trở về.
- Ở An-giê-ri bây giờ - ông An nói - khá nhiều chị em Việt Nam tài đảm có tiếng.
Chồng chị Tâm có nghề thợ nề. Chị Tâm làm nội trợ như thông thường các bà mẹ, các chị ở đây. Hai con chị Tâm, con gái bác sĩ, con trai kỹ sư, đã nên người cả. Vườn bưởi của chị Tâm, cái vườn bưởi hái ra tiền ấy, phải gọi là đồn điền bưởi mới đúng.
(Hôm trước, trên đường đi Khi-đa qua núi Chê-rê-a xuống thung lũng Mê-đi-a, tôi đã được qua một quãng những vườn bưởi. Hoa bưởi nở trắng ngần, người đi ngợp vào hương bưởi ngây ngất, muốn say).
Chị Tâm thật khéo nuôi lợn. Ở đây, người theo đạo Hồi kiêng thịt lợn. Không khí đạo giáo trùm lên những thành phố châu Phi. Những người đàn bà bối rối áo choàng trắng, vạt nâng ngang nửa mắt, đi loáng thoáng như chiếc bóng.
Đàn lợn chị Tâm nuôi, cứ bán năm hai lứa, ba lứa, không biết có ai đạo Hồi phá giới vì được ăn thịt lợn ngon giống đen tuyền. Chỉ biết lợn của chị đắt hàng, người mua lái xe tải đến bắt lợn tận chuồng, chị chẳng cần biết mặt cái chợ.
Cái bể bèo cái ông An nuôi làm cảnh đây của chị Tâm đem cho giống đấy. Ông An đã có về chơi nhà chị ở Ô-ran. Tòa nhà hai tầng khang trang. Trong nhà treo toàn ảnh phong cảnh Việt Nam. Sứ quán ta trên An-giê mua hộ các thứ bên nhà. Thỉnh thoảng, vợ chồng lên khuân về từng va-li sách báo. Hai con chị đều đọc được quốc ngữ. Cả phố khen nức nở, và ước: Làm thế nào cho con trai An-giê-ri sang lấy được vợ bên Việt Nam. Chị Tâm cười bảo: Như tôi, ở nước tôi chưa phải người chăm việc đâu - Thì hãy cứ được người chưa biết chăm việc như chị! - Mọi người nói thế.
Bây giờ qua đã lâu cái ngày những lo, những ngại ấy rồi. Cuộc đời đã nên như thế. Không phải chồng chị nói thế, mà từ khi An-giê-ri độc lập, người hàng phố hay nói: đất nước Việt Nam tận đâu đâu mà ai cũng nhắc nhớ. Vì tình cảm con người, xa xôi hóa gần gũi. Các vùng du lịch ở Công-xtăng-tin, ở Sau-ra và cả những “oa-di” giữa mênh mông, lâu rồi thấy quen cũng như chùa chiền và khoanh tre, cảnh đồng ở quê. Những khoảng vẽ trên đá thời tiền sử, người và bò tót, núi đá lạ ở I-li-xi, ở Hô-ga, bắt đầu lạc đà vào sa mạc... dưới cát có dầu lửa... đất nước tôi... Người ta bảo tôi cầm súng, đem tôi sang Đông Dương, thế nào mà tôi được gặp mình...
Con trai chị Tâm cằm bạnh giống như tạc các chú bên quê. Em gái nó, mặt trắng tròn bầu bĩnh, đặc biệt khuôn mặt các cô gái Bắc Phi láng giềng châu Âu. Chị Tâm không mặc quần áo ta, nhưng chị Tâm cũng không lòe xòe váy đầm như mọi người. Tết âm lịch, vợ chồng con cái lên An-giê chúc Tết sứ quán. Chị mặc quần áo mới - bộ ka-ki đồng phục xanh nhạt với chiếc mũ tai bèo. Lúc nào chị cũng chỉ mặc một kiểu giản dị chiến sĩ giải phóng như thế. Tết dương lịch, khu phố vui chơi ngoài công viên, cả nhà chị đều diện quân phục quân giải phóng đứng đồng ca bài “ Giải phóng miền Nam”, anh ấy xòe tay đập trống “ráp” đệm làm nhịp.
Và chẳng khác ai, chị Tâm cũng giỏi chơi không thua cô gái nào trong các hội hè… Tết hái cà chua tháng ba, tết trảy cam tháng tư, hội cừu tháng sáu, rồi sang hội vào xuân Địa Trung Hải… Tâm choàng khăn voan xanh lơ, nhảy điệu Da-dô-na nhịp nhàng vào hội hái chà là…
Tôi hỏi ông An:
- Chị Tâm có liên lạc gì với bên nhà không?
- Chị ấy đã gửi tiền ủng hộ xã xây trường học. Cái ảnh trường phổ thông thôn Vân được phóng to treo giữa nhà ở Ô-ran.
- Chị Tâm đã về chơi bên nhà...
Ông An nhìn tôi chăm chú rồi nhẹ nhàng lắc đầu:
- Chưa về lần nào, anh ạ.
Chúng tôi ngồi im một lúc lâu.
- Chị Tâm nói chuyện vui như liếu điếu. Nhưng cái gì mà chị không nói thì thôi đừng hỏi. Đến rằm này, thế nào chị ấy cũng lên. Mời anh ra chơi.
Nhưng rằm tháng bảy ấy chị Tâm không lên An-giê. Tôi nghĩ, biết đâu chị ấy có lên mà không muốn giáp mặt tôi chăng? Tôi không hề quen biết chị, nhưng tôi là người ngoại thành, khá thông thạo vùng Vân cửa sông Hát. Năm ấy, tôi đã làm phóng viên báo, khi các đội du kích ven sông Hồng làm nhiệm vụ tiếp tế bí mật cho Liên khu Một, những ngày đầu kháng chiến vô cùng ác liệt của Hà Nội. Có thể ông An đã kể về tôi với chị Tâm, cho nên chị không đến. Ồ, có thể như thế.
Mỗì người thường có một điều riêng gì không bao giờ ai hiểu được. Như cái ông An này mà chả lạ sao. Ông là tay bếp nghề và sành rượu. Thịt cừu nấu món “sóc ba”, gia giảm dầu dấm, trộn bột và giữ lửa nhỏ thế nào. Vang trắng để uống chơi, vang hồng cho bữa ăn nhẹ, má-ca-ra hay mê-đi-a. Vang đỏ ở Bu-sa-vi-ni trong tiệc thì vô địch. Gì ông An cũng thạo.
Nhưng tôi chẳng biết gì hơn nữa. Ông ở đâu trôi giạt đến cái xóm Cát-ba - khu du kích tự hào của An-giê này, ông là ai? Vẻ lịch lãm và trầm lặng của con người không để ý những câu hỏi ấy. Tôi lặng im.
Cây chà là trước cửa, hoa trắng ngà như hoa cau phảng phất thơm. Ngoài kia, sóng xô vào quanh mép tường phòng tôi ì oàm vật vã đến cả đêm.
1985
[1] Áp-đen Krim (đọc theo cách đọc của người lính Việt thời ấy trong quân đội thực dân không biết tiếng Pháp: Mặc Đình Kim): thủ lĩnh nghĩa quân, hoạt động chống Pháp trong vùng núi Ríp giáp giới Ma-rốc và An-giê-ri.
[2] Tiếng Pháp: hơn ba mươi năm.
[3] Tiếng Pháp: y tá