Số lần đọc/download: 4312 / 69
Cập nhật: 2017-06-11 10:57:53 +0700
Đôi Ri Đá
Ít lâu nay, có một loài lạ lạc vào vườn. Anh chim sẻ xưa nay vẫn to hó đứng trong đầu nhà, kêu tẹc tẹc không được điềm tĩnh và đều đặn như mọi khi. Ra vẻ thảng thốt, như thể anh lo những kẻ lạ nào đương dò dẫm, tìm kiếm nơi ăn, chốn ở trong vườn nhà mình.
Quả đúng như nỗi lo của sẻ.
Có hai con chim ri đá, mấy bữa này, thường lai vãng đến vườn. Chúng nhấm nhoắt chuyền từ cây bưởi sang cây khế, đến cành hồng bì.
Sẻ ta đứng băn khoăn nơi nóc hồi nhà nhớn nhác nhìn ra điệu ghét lắm.
o O o
Bấy giờ là đầu mùa đông. Ngoài ruộng lúa chín vàng hây. Những bông nếp mập và tươi ong óng, trĩu gù lưng xuống. Màu vàng san sát giải từ cánh đồng làng Nghĩa Đô, mênh mông đến tận bờ tre làng Phú Gia.
Theo với mùa lúa, từng đàn chim ri bay về mọi cánh đồng. Và hai con chim ri đá kia thẩn thơ vào trong vườn này.
Đó là một đôi vợ chồng. Chàng và nàng. Có lẽ là đôi vợ chồng mới cưới nhau vào đầu mùa thu vừa rồi.
Nếu nói so sánh, ta có thể so sánh rằng đôi chim ri ấy tựa một cặp vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí. Họ thuộc loài ri đá chính tông. Và hiệu là ri sừng. Người loắt choắt, chưa bằng ri cam, mà lại bé hơn cả chim sẻ. Trông một ri đá chỉ bằng nửa chim sẻ. Vừa như chiếc hạt mít mập mạp, có đính chút đuôi. Đôi mắt nâu lờ đờ. Cặp mỏ ngắn, cục mịch, thây lẩy trước đôi mắt như một viên cuội xam xám. Lông màu nâu, mượt, trơn và mịn. Đôi chân cũng xám như mỏ.
Ở con chim ri, có hình bóng một người cù rù nhưng nhẫn nại, lam lũ và luôn chân lấm tay bùn - những người cần lao của đồng ruộng.
o O o
Một buổi sáng, vợ chồng ri từ đâu sà xuống cây bưởi. Chúng kêu kéc kéc nho nhỏ. Thế là anh chim sẻ lắng tai nghe tiếng cũng tẹc tẹc ầm ĩ. Dáng hẳn chàng ta chửi đứa nào dám vào nhà mình. Nhưng sẻ chỉ nỏ mồm công kích suông thế thôi, không dám xuống tận nơi.
Vợ chồng ri đá điềm nhiên, chẳng để ý đến sự lèm bèm đó. Chàng nghiêng má nhìn cây hồng bì rồi nhún cẳng nhảy sang. Nhẹ như một chiếc lá rơi, và cũng lẩn ngay vào lá, không động tĩnh gì hết. Nàng bay theo chàng nhưng bay hơi nặng nề, đôi cánh vỗ xè xè, bởi người nàng có đẫy đà chút đỉnh. Không hiểu nàng ri đá đã có con lần nào chưa, chứ thực trông nàng chẳng được gọn mấy. Đầu hơi phờ. Lông bụng bạc phếch. Cườm ngực, cườm cổ không đen nhánh và bóng mượt như của chàng. Có cái lối của những người đàn bà xười xĩnh khi không còn thì con gái, ăn mặc xốc xếch, chẳng thiết gì đến điểm trang nữa.
Chàng xáo xác trong cây hồng bì. Cây hồng bì thấp nhưng rậm lá. Vả lại, với một anh ri bé bỏng, thế đã là khá cao rồi. Nàng cũng sục sạo trong cây, như kiếm chác một cái gì. Chẳng có lẽ. Họ tìm chi trong tụm lá hồng bì đó? Loài ri đá không thể biết ăn sâu. Nhưng đâu có bông lúa vàng ở đây. Kìa, đôi vợ chồng lại bay ra đậu ở một cành cây cụt. Họ nghiêng má nhìn trời. Trời cao và xanh, không cùng. Vụt một cái, bốn cánh vút bay đi loang loáng.
Người ta thấy ở ngoài đầu xóm, hai vợ chồng ri đá đến đậu trên một mái rạ cũ. Rạ đã bạc trắng và nát mủn. Chị chim ri hé mỏ mổ vào cuộng rạ. Anh cong đuôi lên để lôi cuộng rạ đứt ra. Khi đã lôi được, anh quắp lấy và bay vụt đi. Cô ả cũng bay liền ngay theo. Họ bay về cây hồng bì. Cây hồng bì ở ngay trước sân, bên cạnh một bể nước. Những chiếc lá mùa đông, rụng xuống, vàng úa trên giại nứa. Chàng đặt cuộng rạ vào một cành hồng bì kín và cao nhất. Rồi họ lại bay đi, vợ theo đuôi chồng, đến lấy rạ ở mái nhà nát nọ. Chị mổ và anh kéo. Dù được mẩu dài hay mẩu ngắn, anh không phiền hà, quắp ngay lấy mang về cây. Công việc cứ thế, đều đều suốt ngày, như người ta mắc cửi.
Được chừng ba hôm, bác sẻ bay qua cây hồng bì, đã thấy trong cây lù lù một nắm rạ lòng thòng, bẩn thỉu như một mớ rơm rửa bát. À hai vợ chồng con ri đá đến ngụ cư ở nơi này. Họ đương làm nhà.
Bao nhiêu công việc xây dựng, người chồng phải đương lấy tất cả. Chàng tha rác liền liền về cây. Chàng xếp đặt cho thực khéo, thực gọn. Trong khi ấy, nàng chỉ biết có việc mổ đứt cuộng rạ và việc bay nhởn nhơ theo chồng. Thỉnh thoảng nàng lại khẽ hát kéc kéc, như để khuyến khích hoặc nói bông cho chàng vẫn hậm hụi, cắm cúi làm.
Chàng đặt móng cho nếp nhà mới bằng một lớp rạ. Rồi chàng đi tìm ở những bẹ dừa lấy những sợi dây rất nhỏ. Việc tha những sợi dây này vẫn là việc của người chồng chịu khó. Chàng đem về, đánh đai rất xinh, vòng trong những cuộng rạ, dựng thành một khung tròn hình lòng tổ.
Cái lòng tổ êm ái đã hoàn thành. Bây giờ chàng đi tìm lá khô. Chẳng biết mò mẫm thế nào mà tha về được từng nạm lá duối, đem chất lù lù cả lên xung quanh thành tổ. Mỗi chuyến chàng mang về chừng đôi ba tờ lá nhỏ.
Một chuyến kia, vợ chồng ri đá song song bay từ ngoài bờ giậu vào vườn. Vừa sà xuống cây hồng bì, anh ri đá đã hoảng hốt buông rời mấy chiếc lá, cuống cuồng nhào lên, rồi bay tít tắp ra tận ngoài đồng. Chị vợ cũng nhớn nhác rồi đuổi theo.
Có gì đâu! Dưới gốc cây hồng bì bỗng lộn xộn bao nhiêu là người. Khắp sân, đầy đống những lượm lúa vàng rượi. Người ta kê ra một chiếc cối đá hổng đáy. Từng lượm lúa chắc nịch cặp vào hai thanh tre rồi người ta đập lên cối đá từng hồi, cho thóc rơi vung vãi ra bốn phía.
Họ vừa làm vừa cười cười, nói nói ồm ồm, cả đàn ông lẫn đàn bà. Thấy thế, vợ chồng ri đá sợ hết vía. Không dám bén mảng về nữa. Nói của đáng tội, chiều hôm đó, cậu mợ cũng về. Nhưng ở sân vẫn còn tíu tít ồn ã những người, nên lại phải vội vàng bay đi. Sáng hôm sau, chàng lại về. Mỏ ngậm rác cẩn thận. Song người ta vẫn thi nhau đập lúa thình thịch. Chàng lại bỏ đi, để rơi mấy chiếc lá khô xuống đất.
Người ta đập lúa trong sân. Bác sẻ mon men xuống kiếm chác, nhặt những hạt thóc rụng. Không thấy vợ chồng anh ri đá đâu, ý chừng bác sẻ ta hả hê lắm.
o O o
Gió may ràn rạt gào, lúc lắc những cành hồng bì mảnh khảnh. Cái tổ hoang kia, không chim nào chăm nom đến, những cuộng rạ ở xung quanh đã ải sẵn, cứ trệ xuống dần. Rồi nó chỉ còn là một nắm rác rưởi, một nắm bùi nhùi của một đứa trẻ nào gài vu vơ lên đấy. Hai con chim sợ người đã bỏ phí mất một cái tổ đương dựng. Nó sắp rơi hoài xuống cỏ mất.
Công việc gặt hái đã xong. Sân vườn lại trở về hiu quạnh như thường ngày. Chỉ còn tiếng anh sẻ rền rĩ. Cây hồng bì, không phải mùa quả, hoang vắng lạnh lùng như một cây rừng. Đôi chim ri chẳng trở về nữa.
Không, họ lại trở về. Một hôm, từ lúc trời vừa dựng sáng đã nghe có tiếng lạt sạt trong cây. Bấy giờ bác chim sẻ chưa dậy. Đến khi trở dậy, ra đứng ngoài đầu ống, bác đã thấy vợ chồng ri đá đương nối đuôi nhau tha rác về cây hồng bì. Bác lại trông xuống mà hé mỏ. Bắt đầu kêu than kêu vãn. Đôi chim ri tha về những cuộng rạ nát. Lại những cuộng rạ nát nhũn. Bởi vì họ lại bắt đầu. Nghĩa là vợ chồng chim ri lại kỳ cục xây lên trên cái ổ dở dang kia, một cái ổ khác, mới nguyên. Lại những cuống rạ mục, những dây dợ ở những bẹ dứa, bẹ cau. Lại những chiếc lá duối khô, đã quăn queo. Và lại vẫn anh chồng còm cọm tha rác suốt ngày để cho chị vợ thẩn thơ bay theo. Có khi, chàng bắt được đâu cả một mảng mạng nhện nhăng nhít, cũng lôi thôi tha về.
Chẳng bao lâu, cái tổ có lòng trũng xuống và những chiếc lá khô thì làm thành một vòng cao lên. Ở trên trông vào, tựa hình một cái tổ bé tí tẹo của trẻ con chơi. Giá ở nhiều loài chim khác, như chim chào mào, sáo sậu, ắt cái tổ kia đã được khánh thành. Nhưng với ri đá, tính cẩn thận, chàng chưa thể gọi thế là xong được. Họ còn tạo tác thêm. Nói là họ, kỳ thực công việc xây dựng đều do mỏ và chân của anh chồng. Chàng nựng vợ đủ điều.
Chàng ta đi kiếm ở các xó vườn lạ về những cẳng lá xoan, cẳng lá khế đã khô đét. Chàng lợp một cái mái. Cái mái nhà để che mưa và che nắng. Chàng lại đi khuân lá duối, khuân cẳng rạ về và xếp một lượt đầy lên trên những lượt cẳng. Xuôi đâu đấy, chàng loay hoay khoét một cái lỗ. Khi đục xong lỗ, vậy là lúc công cuộc làm tổ đã hoàn thành.
Chàng chui vào trong tổ, kêu lên mấy tiếng ke ke. Ở ngoài cô vợ cũng đáp lại như thế. Chàng liền bay ra, đứng cạnh nàng tỏ vẻ âu yếm. Chàng xích lại một chút. Chị vợ cũng nhún nhún đôi chân và rung rung đôi cánh. Hai cái mỏ chíu vào nhau. Đôi chim hoan hỉ nhìn nhau và cùng xù lông ra rũ phành phạch. Chàng khoan khoái bay tung tăng đi vu vơ đâu một lúc, rồi lại trở về, cùng chui tọt vào tổ. Cái tổ kín và riêng tư như một nếp nhà của người ta.
Thế là tổ đã làm xong. Trông nó xấu xí tựa một mớ rác lộn. Song đó chỉ là bề ngoài không quan hệ thôi. Này, hãy đến gần, ló đầu vào một tí mà xem. Đường cửa tổ tròn, xung quanh nhẵn thín, chui ra chui vào rất gọn, không vướng víu mảy may. Cái lòng tổ thì êm và mịn, vừa cho chỗ nàng ri nằm. Ri đực chỉ rón rén nằm ghếch bên cạnh, hai cái mỏ cùng chìa ra phía cửa.
Từ hôm ấy, sớm mờ mờ đã nghe tiếng ri động lạt sạt trong cây hồng bì. Họ đùa nhau. Họ mớm mỏ nhau. Và có tình yêu luôn luôn. Chị vợ chỉ nằm xù xù trong tổ cả ngày. Nàng ấp dọn cho những ngày sắp sinh trứng. Đến khi hoàng hôn xuống, cả hai vợ chồng cùng chui vào tổ, nằm chẩu mỏ ra ngoài cửa.
Họ chờ ngày đẻ trứng
o O o
Những con chim hét đen chậm chụi, mỏ vàng bệch, đã từ phương xa bay về. Dấu báo hiệu mùa lạnh sắp đến.
Gió may trở về đã từ lâu, hiu hiu và hiền lành. Nhưng chiều ấy, gió may bỗng trở mạnh và đột nhiên hóa cáu kỉnh, nổi cơn đùng đùng. Trời đất âm u sẫm lại. Từng làn mây nước lớn xám xì, chuyển vần theo gió bay xuôi hỗn độn, tới tấp như một cuộc thay đổi kỳ lạ của vũ trụ.
Sáng hôm sau, trời đổ mưa xuống đều đều, nhưng không to lắm. Vòm không mù trắng những nước. Và trời cứ mưa đều đều, lai rai, nhỏ nhẻ như thế, hết ngày ấy sang ngày khác. Ông mặt trời đã đi đâu mất, để cho trời đất cứ thi nhau khóc ra mưa ra gió. Người ta đều phải ở trong nhà. Đường trong làng lầy lội, bùn xám ngập cao tới lưng ống chân.
Đôi ri cũng phải ở trong nhà. Chúng nằm ro ró mà nhìn ra xem mưa. Chao ôi! Cái thứ trời gì mà cứ xối mãi nước xuống. Mưa ba hôm, đôi chim bắt đầu thấy buồn buồn. Mưa được bốn ngày thì lành lạnh. Những hạt nước đọng ở trên mái tổ rích vào, thấm xuống, ướt hết cả xung quanh. Nhưng sự lạnh và sự thấm nước đó chưa đáng để ý, bởi đôi chim mặc một bộ lông dày và họ có hơi nóng của nhau. Song không dám bay ra ngoài. Nằm nhịn đói cũng đã thường quen, không hề chi.
Trời vẫn mưa. Bây giờ lại có những giọt nước mới đến nữa, lá và cành khô không chịu thấm được hơn. Nước mưa lăn trên mái tổ rồi rỏ lạch tạch xuống đầu vợ chồng gã chim ri. Lại có thêm gió. Gió đung đưa cành cây hồng bì. Từng loạt nước rơi xuống rào rào, liên tiếp. Vợ chồng ri đá xù lông ra lắc bụi nước. Nhưng rồi bụi nước - tuy đã lắc mãi - cũng bám được vào lông chim. Hai cái đầu thấm nước, bết lông vào với nhau, bé tọp hẳn đi. Trông thảm hại như hai người ốm liệt giường mà bị cạo trọc đầu. Lúc này là lúc hai vợ chồng chim ri không nén được nữa. Nếu họ không đi tránh mưa, nước cứ rót lạch tạch luôn vào đầu thì đến chết rét mất. Bởi trời lạnh. Buổi sáng người ta mó tay vào nước thấy buốt thon thót. Mưa thì liên miên. Giọt gianh chảy rích rích xuống bốn bên xung quanh nhà.
Một hôm, hai vợ chồng chim ri đành lòng rời cái tổ ẩm ướt, đi tìm một cái nhà nào kín để tạm ẩn. Chúng bay đi trong bụi mưa, bốn cánh vỗ nặng nề. Bấy giờ mới là xế trưa, nhưng trời đầy mưa, xám và trắng những nước, nên tưởng như trời đã sắp tối. Vợ chồng chim ri rời tổ. Bác sẻ già kia không biết. Mấy bữa nay mưa gió, bác ta rúc tránh vào tận đáy ống tre.
o O o
Nhưng cũng vẫn còn cuộc trở về của đôi chim. Ấy là một ngày mùa đông có nắng, sau trận mưa ghê gớm liên miên đến nửa tháng. Mọi vật vẫn chưa khỏi hẳn ẩm ướt. Nước ám nhiều quá. Bức tường ngoài đầu ngõ, thảm rêu lên xanh om. Tuy nắng, nhưng nắng chưa đủ gây ấm. Không khí vẫn phảng phất hơi giá.
Đôi chim ri lìa tổ ngơ ngác ở đâu về đậu bên cây bưởi. Bác sẻ ở dưới sân, đứng trong nắng để hong lông, hong cánh, trông thấy đôi chim đáng ghét liền bay vù lên nóc nhà và kêu choe chóe như bị ai bóp cổ. Chàng ri đực liệng vào trong vườn lá hồng bì. Chàng vào thăm tổ. Trận mưa cũng có làm hư hại mất đôi chút. Mấy chú nhện lạc lõng nơi nào đã chăng mạng kín cả cửa ngõ. Ri ta mới tức làm sao! Hắn mổ luôn cho mấy mỏ, tan hoang cả khung cửa nhện. Vào trong tổ, hắn dùng mỏ và cẳng bới xếp, dọn lại một lát thì giường nệm lại phẳng phiu gần được như cũ. Hắn chui ra, nhường chỗ cho vợ vào. Chị ả lại nằm xềm xệp thò chiếc mỏ ngắn ngủn ra cửa.
Và hai vợ chồng lại luôn luôn thay nhau ấp tổ. Mười hôm, ri cái đẻ ra một chiếc trứng nhỏ xíu. Trước sau chị đẻ được bốn chiếc trứng. Bốn chiếc trứng chỉ nhỉnh hơn bốn củ lạc lớn, màu trắng đục lốm đốm nâu, nằm đều đặn, gọn thon lỏn trong lòng tổ. Chị ri phải xòe lông bụng ra mới đủ che cả bốn trứng.
Trong cái tiểu gia đình này, người ta nửa mừng và nửa lo. Sáng ngày ra, hai vợ chồng hát nho nhỏ. Họ hát ru sao? Chỉ có mỗi một điệu hót ke ke. Và riêng khi nào vui lắm, âu yếm nhau lắm, họ mới rung hai cánh mà làm điệu mỏ ri ri ri... Họ ăn ở dè lén, bình lặng, chịu khó, ít ồn ã. Cuộc đời trôi chảy âm thầm dưới vòm lá xanh, y như cuộc đời của những người Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khó trên cái khung cửi, trong bốn lũy tre. Họ ít nói. Trái hẳn với loài sẻ láu táu, luôn mồm kêu lải nhải.
Bốn trứng đã tới kỳ nở. Những cái mỏ non nớt tự mổ rạn bốn vỏ trứng để thoát ra. Thế là bốn con chim ri nhỏ vào ánh sáng. Mẹ chúng nhảy ra cửa, đứng giạng chân, ngó bố của chúng đứng gần đấy. Bốn con mắt nâu đục nhìn nhau lơ láo.
Bây giờ cái tổ là chiếc giường của đàn bà con mọn. Bừa bãi đầy những vỏ trứng vỡ, bẩn thỉu như mấy cái tã. Líp nhíp bốn nhách chim đỏ hỏn. Mụ ri cái càng phờ phạc, đờ đẫn tợn. Anh chồng cũng ra vẻ lo lắng thay. Song giờ đương là đầu tháng Chạp. Không còn mưa rớt của tháng Bảy như trận mưa tầm tã hôm xưa nữa. Thời tiết lạnh, nhưng hanh và khô cứng.
Bốn con ri cũng đã nhớn nhao. Bố mẹ chúng rạc cả người, về nỗi đi kiếm mồi nuôi con. Chúng lớn dần dần. Cùng với Tết Nguyên đán, cũng lần lần nghiêng đến với mọi nguời ta.
o O o
Năm nay, ở Nghĩa Đô, người ta ăn cái Tết Nguyên đán không vui.
Bởi vì làng có mỗi một nghề làm lĩnh, lụa thì lĩnh, lụa lại ế. Hàng dệt ra không thể bán đi được. Chẳng có ai mua. Nhiều khung cửi phải xếp lại. Những guồng tơ bỏ trống. Vắng tiếng lóc cóc ran rỉ của cái vày tơ. Ngày phiên, không có những bác thợ cửi say rượu, mặt đỏ gay, đi chệnh choạng trên đường cái làng. Công việc chẳng có hoặc bao nhiêu dấn vốn đều hết cả, người ta phải quẩy đất thuê, đi làm thợ nề và ra Hà Nội kéo xe. Có những kẻ liều lĩnh đã ký giấy “mộ phu” sang “Tân thế giới”.
Cái Tết hững hờ đến với mọi sự lạnh nhạt. Giá gạo cao tới ba đồng rưỡi một chục đấu nhỏ. Xưa nay chưa như thế bao giờ! Túng quẫn quá, người ta không cần và không thể nghĩ đến lo Tết lắm nữa. Hàng lá dong vào làng rao ơi ới, rồi lại ê hề quẩy ra. Làng mạc buồn teo.
Chiều hôm Ba mươi, cả làng vắng tanh. Ấy là một buổi chiều bồn chồn và khó chịu. Người ta ở cái hoàng hôn u uất đó để đợi một năm mới vẫn hằng mong ước sắp đến. Một năm mới với đầy bí mật và hy vọng còn khuất bên kia một lần lặn mặt trời và một đêm đen thẫm, nặng trịch. “Nhờ phép tổ”, mà nghề nghiệp có được khá khẩm chăng?
Gia đình tôi cũng không còn phong lưu như xưa. Ngày mồng Một, không pháo đốt. Tôi mặc tấm áo vải chéo go cũ, đi đôi guốc sơn bóng nhoáng, đầu vuốt nước lã lên để rẽ cho được mượt. Tôi thơ thẩn trong cổng ngõ hai tay thủ túi, buồn ngẩn ngơ. Cả làng chỉ có vài nhà đốt pháo. Nghe lẹt đẹt như tiếng gõ mẹt vậy.
Nhưng sang ngày mồng Hai, nhà tôi được tiếp một người đến lễ Tết. Khách có đem theo một bánh pháo: bác quyền Vực, người bên làng Phú Gia, một học trò “tam tự kinh” ngày xưa của ông ngoại tôi. Bác Vực đi lính, Tết nghỉ phép về chơi quê.
Bác ăn vận rất ngộ. Đầu bác đội chiếc mũ Tây lợp vải vàng và quần áo cũng màu vàng, xù ra. Bắp chân quấn xà cạp chặt chẽ lên tận đầu gối. Bác dận một đôi giầy có cổ, da mốc thếch như da cóc. Đi nện gót trên sân gạch, nghe kêu kệt kệt, đến ghê.
Lặc cầm bánh pháo của bác Vực, đem ra sân. Bánh pháo dài chưa đủ một gang tay. Hắn treo lên cây hồng bì. Rồi cầm một cái sào dài, đầu có mồi lửa, một tay bịt tai, một tay run run, châm. Pháo bén lửa nổ xì toạch, xì toạch toang toang. Mươi cái xác pháo toàn hồng, rắc ra sân như những cánh hoa đào.
Con Đực đương luẩn quẩn dưới bếp, đột nhiên nghe tiếng pháo, hốt hoảng chúi cổ cúp đuôi chạy biến ra ngoài đồng. Chó sợ pháo.
Nhưng cái gia đình chim ri ở trên cây hồng bì thì không bao giờ còn về nữa. Sớm ấy, bỗng tiếng pháo kinh khủng nổ vang động trong cây, cả đàn chim cuống cuồng bay đi. Những con chim nhỏ ngã xuống, cũng cố vỗ cánh mà bay ngoi ngóp. Tội nghiệp, bốn con ri nhỏ mới ra ràng. Ngày nào cũng đứng chen chân nhau ở cửa tổ để ngơ ngác nhìn xung quanh và nhìn lên trời. Bố mẹ lượn xập xè như muốn bay cho các con bắt chước.
Sớm ngày mồng Hai Tết Nguyên đán ấy, sợ những tiếng pháo nổ một cách vô tình ở dưới gốc hồng bì, đôi vợ chồng ri đá chịu khó và nhẫn nại kia, cùng một đàn bốn con thơ dại, tan tác bay đi, không bao giờ còn trở về cây. Chẳng ai biết được cái bầu đoàn khốn khổ ấy long đong bạt đi đâu và về sau ra làm sao.
Đến độ tháng Ba năm đó, đương mùa hoa bưởi nở, cũng có một đôi chim ri lảng vảng đến vườn - biết có phải những gã chim ri cũ! Song chúng chỉ đậu trên cây bưởi một lát. Bác sẻ già đứng trong đầu hồi, ngó cổ xuống, trông thấy, liền kêu tẹc tẹc rộn rã, như muốn khơi chuyện cãi vã.
1942