The wise man reads both books and life itself.

Lin Yutang

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17: Nước Mắt Ả Rập
alvorsen rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Harry bước vào văn phòng.
“Đã đến rồi cơ à? Anh biết rằng đây chỉ là…”
“Không ngủ được,” Harry làu bàu rồi ngồi xuống trước màn hình máy tính, tay khoanh trước ngực. “Mấy cái máy này chậm như rùa.”
Halvorsen ngó qua vai anh. “Tất cả phụ thuộc vào tốc độ truyền dữ liệu khi anh lên mạng. Giờ anh đang dùng đường truyền ISDN tiêu chuẩn, nhưng vui lên đi, vì chúng ta sẽ sớm có băng thông rộng. Anh đang tìm bài báo của tờ Dagens Næringsliv à?”
“Hả?… Ừ.”
“Arne Albu? Anh đã nói chuyện với Vigdis Albu à?”
“Ừ.”
“Thật ra họ có liên quan gì tới vụ cướp ngân hàng?”
Harry không ngước lên. Anh chưa hề nói là chuyện đó có liên quan gì đến vụ cướp, nhưng anh cũng không nói rằng nó không hề liên quan, vì vậy chuyện cậu đồng nghiệp của anh giả định như vậy cũng là bình thường. Harry không phải trả lời anh ta vì đúng lúc đó mặt của Arne Albu hiện lên màn hình. Nụ cười tươi nhất mà Harry từng thấy trong ngày hôm nay ngự phía trên cái cà vạt thắt chặt. Halvorsen chép môi khoái trá và đọc to lên:
Ba mươi triệu cho công ty giả định. Hôm nay Arne Albu đã có thể tích cóp ba mươi triệu krone sau khi chuỗi khách sạn Choice mua hết toàn bộ số cổ phần của Albu AS ngày hôm qua. Albu nói rằng ông ta muốn dành nhiều thời gian hơn nữa cho gia đình, đó là lý do lớn nhất khiến ông bán đi công ty đang ăn nên làm ra này.
“Tôi muốn thấy các con của mình lớn lên”, Albu trả lời phỏng vấn. “Gia đình là khoản đầu tư quan trọng nhất của tôi.”
Harry nhấn nút PRINT.
“Anh không muốn xem phần còn lại của bài báo sao?”
“Không, tôi chỉ muốn xem tấm ảnh thôi,” Harry đáp.
“Có ba mươi triệu trong ngân hàng rồi mà bây giờ lại bắt đầu cướp các ngân hàng nữa hả?”
“Tôi sẽ giải thích sau,” Harry đáp, đứng dậy khỏi ghế. “Trong lúc đó, tôi không biết liệu cậu có thể giải thích giùm tôi cách tìm ra người gửi một cái email như thế nào không.”
“Địa chỉ có trong email đó mà.”
“Và nó có trong danh bạ điện thoại, phải không?”
“Không, nhưng anh có thể truy ra máy chủ nào đã gửi nó. Nó nằm ngay trong địa chỉ thư. Máy chủ này có một danh sách khách hàng kèm theo các địa chỉ thư mà họ sở hữu. Đơn giản lắm. Anh đã nhận được một cái email hay ho à?”
Harry lắc đầu.
“Cho tôi địa chỉ, tôi sẽ tìm ra ngay cho anh,” Halvorsen nói.
“OK. Anh đã bao giờ nghe nói tới máy chủ có tên là bolde.com chưa?”
“Chưa, nhưng để tôi kiểm tra đã. Phần còn lại của địa chỉ là gì?”
Harry ngần ngừ. “Tôi quên rồi,” anh đáp.
○○○
Harry trưng dụng một chiếc ô tô trong ga ra và thong thả lái qua Grønland. Một cơn gió lạnh ngắt cuốn bay những chiếc lá đã khô cong trên vỉa hè dưới ánh nắng của ngày hôm qua. Những người đi bộ đút tay vào túi áo và rụt đầu vào giữa hai vai.
Tới phố Pilestredet, Harry đi sau một chiếc xe điện công cộng và thấy chương trình tin tức NRK đang phát trên đài. Họ chẳng hề đả động gì tới vụ Stine Grette. Người ta đang lo rằng hàng trăm nghìn đứa trẻ tị nạn sẽ không sống nổi qua mùa đông khắc nghiệt ở Afghanistan. Một lính Mỹ đã bị giết. Có một cuộc phỏng vấn gia đình anh ta. Họ muốn trả thù. Bislett vẫn đang cấm đường nên xe cộ phải chuyển hướng.
○○○
“Vâng?” Một tiếng gọn lỏn cất lên trên điện thoại nội bộ ngoài cửa đủ cho thấy Astrid Monsen đang bị cúm nặng.
“Tôi Harry Hole đây. Cảm ơn chị đã giúp đỡ cho tới nay. Tôi tự hỏi liệu tôi có thể hỏi chị thêm đôi câu nữa không. Chị rảnh chứ?”
Chị ta sụt sịt hai lần rồi mới đáp. “Về chuyện gì thế?”
“Tôi muốn vào nhà để hỏi hơn là đứng ngoài này.”
Hai tiếng khịt mũi nữa.
“Lúc này không tiện à?” Harry hỏi.
○○○
Tiếng khóa kêu o o, rồi Harry đẩy cửa vào.
Astrid Monsen đang đứng trong hành lang, vai choàng khăn và khoanh tay trước ngực trong lúc Harry bước lên bậc thang.
“Tôi đã thấy chị tới dự đám tang,” Harry nói.
“Tôi nghĩ ít nhất thì một hàng xóm của cô ta cũng nên có mặt,” chị ta đáp.
Giọng chị ta nghèn nghẹt như nói bằng loa phóng thanh.
“Tôi tự hỏi liệu chị có nhận ra người này không?”
Chị ta ngần ngừ cầm lấy tấm ảnh bị gấp góc. “Ai?”
“Thật ra là bất cứ ai trong ảnh.” Giọng Harry vang vọng cả lên phía trên lẫn xuống phía dưới cầu thang.
Astrid Monsen nhìn chằm chằm vào tấm ảnh. Nhìn một lúc lâu.
“Thế nào?”
Chị ta lắc đầu.
“Chị chắc chứ?”
Chị ta gật.
“Ừm. Chị có biết là liệu Anna có người tình nào không?”
“Chỉ một thôi á?”
Harry hít sâu một hơi. “Ý chị là có nhiều sao?”
Chị ta nhún vai. “Trong căn nhà này anh có thể nghe thấy mọi tiếng động. Cứ tạm nói là cái cầu thang kẽo kẹt cũng được.”
“Có mối tình nào nghiêm túc không?”
“Tôi không rõ.”
Harry đợi. Chị ta ngập ngừng không lâu. “Dạo hè, tôi thấy có mảnh giấy ghi tên ai đó dính cạnh hòm thư của cô ta. Nhưng tôi không biết liệu chuyện đó có phải là nghiêm túc hay không…”
“Không ư?”
“Tôi nghĩ trên mảnh giấy đó là chữ viết tay của cô ta. Nó chỉ đề là ERIKSEN.” Đôi môi mỏng của chị ta phảng phất một nụ cười. “Có lẽ anh ta đã quên không cho cô ta biết tên thánh của mình. Mà dù sao thì mảnh giấy cũng biến mất sau một tuần.”
Harry nhìn xuống qua lan can. Cầu thang dốc đứng. “Nhưng một tuần cũng còn hơn là không được ngày nào, phải không?”
“Có lẽ với một số người thì đúng là thế thật,” chị ta đáp, đặt tay lên tay cầm trên cánh cửa. “Tôi phải vào đây. Tôi vừa nghe thấy máy báo có email.”
“Nó có chạy đi mất đâu mà chị phải vội?”
Chị ta lại bị một cơn hắt hơi nữa. “Tôi phải trả lời,” chị ta nói, nước mắt trào lên. “Đó là tác giả của cuốn sách. Chúng tôi đang trao đổi về bản dịch của tôi.”
“Vậy thì tôi sẽ hỏi nhanh thôi,” Harry nói. “Tôi chỉ muốn chị xem thêm cả cái này nữa.”
Anh đưa cho chị ta một tờ giấy. Chị ta cầm lấy, lướt qua một lượt rồi ngước lên nhìn Harry vẻ ngờ vực.
“Cứ xem kỹ đi,” Harry nói. “Bao nhiêu lâu tùy chị.”
“Không cần đâu,” chị ta đáp, trả lại tờ giấy.
○○○
Harry đi bộ từ Sở Cảnh sát tới số 21A phố Kjøberggata mất mười phút. Vào thời hoàng kim, tòa nhà bằng gạch đổ nát này từng là xưởng thuộc da, xưởng in, xưởng rèn và có lẽ là cả vài xưởng khác nữa. Một di tích gợi nhắc rằng Oslo đã từng có công nghiệp. Giờ thì bên Pháp y đã tiếp quản nó. Mặc dù đã được lắp hệ thống chiếu sáng mới và nội thất hiện đại, tòa nhà vẫn mang dáng dấp của một cơ sở sản xuất công nghiệp. Harry tìm thấy Weber ở một trong những căn phòng rộng lớn, lạnh lẽo.
“Chết tiệt,” Harry kêu lên. “Ông hoàn toàn chắc chắn chứ?”
Weber mỉm cười mệt mỏi. “Dấu vân tay trên chiếc chai rõ tới độ nếu chúng ta có trong hồ sơ lưu trữ thì máy tính ắt hẳn đã tìm ra. Đương nhiên là chúng ta có thể tìm kiếm kiểu thủ công cho chắc chắn hơn, nhưng sẽ mất tới nhiều tuần lễ mà có khi công toi. Đã rõ ràng rồi.”
“Xin lỗi,” Harry nói. “Chỉ tại tôi quá chắc là chúng ta đã lần được ra hắn. Tôi đoán là cơ hội để một gã như hắn chưa từng bị tóm vì bất cứ chuyện gì là quá nhỏ.”
“Việc chúng ta không có hồ sơ lưu trữ về hắn chỉ có nghĩa rằng chúng ta phải tìm ở nơi nào khác thôi. Nhưng bây giờ thì ít ra chúng ta cũng đã có chứng cứ rõ ràng rồi. Dấu vân tay này và những sợi vải ở chi nhánh trên phố Kirkeveien. Nếu anh tìm ra được gã đó, chúng ta sẽ có chứng cứ thuyết phục. Helgesen!”
Một thanh niên đang đi ngang qua dừng phắt lại.
“Người ta đưa cho tôi cái nắp này từ Akerselva trong một cái túi không niêm phong,” Weber làu bàu. “Đây không phải là cái chuồng lợn đâu nhé. Rõ chưa?”
Helgesen gật đầu và nhìn Harry với ánh mắt vẻ thấu hiểu.
“Anh phải ra dáng nam nhi mà chịu thôi,” Weber nói, lại quay sang Harry. “Ít ra thì anh cũng không phải chịu cảnh của Ivarsson hôm nay.”
“Ivarsson ư?”
“Anh chưa nghe chuyện xảy ra ở Culvert hôm nay sao?”
Harry lắc đầu. Weber cười khùng khục và xoa tay. “Nếu thế thì tôi sẽ kể cho anh nghe một câu chuyện hay ho để giúp anh vui vẻ lên đường nhé.”
○○○
Cách kể chuyện của Weber rất giống với bản báo cáo của ông. Những câu ngắn gọn, không trau chuốt, phác họa giản lược vụ việc xảy ra mà không hề thêm mắm giặm muối về cảm xúc, giọng điệu hay nét mặt. Nhưng Harry cũng chẳng gặp khó khăn lắm trong việc mường tượng ra toàn cảnh. Anh có thể hình dung ra hai sếp Rune Ivarsson và Weber đi vào phòng dành cho khách tới thăm ở bên Cánh A và có thể nghe thấy cả tiếng cửa bị khóa lại sau lưng họ. Cả hai căn phòng đều nằm cạnh quầy lễ tân và được trang bị đồ đạc như trong gia đình. Tù nhân có thể tận hưởng chút yên bình với người thân trong một căn phòng mà thậm chí người ta còn cố gắng làm cho ra vẻ ấm cúng - nội thất đơn giản, hoa giả và hai bức tranh màu nước nhạt trên tường.
Raskol đang đứng thì hai người bước vào. Dưới nách hắn kẹp một cuốn sách dày cộp, và trên chiếc bàn thấp tè trước mặt họ có một bàn cờ vua đã bày sẵn. Hắn chẳng nói một lời, chỉ nhìn họ chằm chằm bằng cặp mắt nâu u buồn. Hắn mặc một chiếc sơ mi trắng trông như áo khoác dài gần ngang gối. Ivarsson có vẻ lúng túng bèn cộc cằn bảo tên Di gan lênh khênh, gầy gò kia ngồi xuống. Raskol làm theo lệnh, miệng khẽ nhếch lên cười.
Ivarsson đưa Weber đi cùng thay vì mấy nhân viên trẻ trong nhóm điều tra vì ông ta nghĩ rằng tay cáo già này có thể giúp ông ta “cân đo Raskol”, như lời ông ta nói. Weber kê một cái ghế tựa sát cửa và lôi một cuốn sổ ra trong lúc Ivarsson ngồi đối diện với tên tù khét tiếng.
“Mời ông, Trưởng Đơn vị Chống Cướp Ivarsson,” Raskol nói, chìa một bàn tay để ngửa ra mời vị thanh tra khai cuộc.
“Chúng tôi tới đây để lấy thông tin chứ không phải để chơi cờ,” Ivarsson nói và đặt năm tấm ảnh chụp vụ cướp ở Bogstadveien cạnh nhau sang mặt bàn phía bên Raskol. “Chúng tôi muốn biết gã này là ai.”
Raskol nhấc từng tấm ảnh lên và xem xét kỹ, miệng “hừm, hừm” rõ to.
“Cho tôi mượn một cái bút được không?” Hắn đề nghị sau khi đã xem hết.
Weber và Ivarsson nhìn nhau.
“Lấy bút của tôi đi,” Weber nói, đưa chiếc bút máy cho hắn.
“Tôi thích loại thông thường hơn,” Raskol nói, mắt vẫn không rời Ivarsson. Ivarsson nhún vai, lôi một cây bút bi từ trong túi áo trong ra đưa cho hắn.
“Trước tiên, tôi muốn giải thích nguyên lý vận hành của những ống màu,” Raskol nói, bắt đầu vặn cái bút bi trắng của Ivarsson, tình cờ lại có logo của ngân hàng Den norske. “Như các ông đã biết, nhân viên ngân hàng lúc nào cũng để thêm một ống màu cùng số tiền đề phòng trường hợp bị cướp. Ống màu đó được gắn vào khay đựng tiền trong cây ATM. Một số ống màu còn được kết nối với máy phát tín hiệu và được kích hoạt khi có chuyển động, ví dụ như bị cho vào một cái túi chẳng hạn. Một số ống khác được kích hoạt khi đi qua một cái cửa từ có thể được gắn vào phía trên cửa chính của ngân hàng. Ống màu này có thể chứa một máy phát tín hiệu rất nhỏ kết nối với một thiết bị thu nhận sẽ kích hoạt một vụ nổ khi nó bị di chuyển ra xa, khoảng một trăm mét chẳng hạn. Một số loại khác thì phát nổ sau khi được kích hoạt một khoảng thời gian đã được cài đặt trước. Bản thân ống màu cũng có đủ mọi định dạng, nhưng nó phải nhỏ đến mức có thể giấu giữa những tờ tiền. Một số nhỏ cỡ này.” Raskol giơ ngón cái và ngón trỏ lên cách nhau hai xăng ti mét. “Vụ nổ không nguy hiểm cho tên cướp; vấn đề là chất màu, tức là mực ấy.”
Hắn giơ ruột mực của cái bút lên.
“Ông nội tôi là một thợ làm mực. Ông đã dạy tôi rằng ngày xưa người ta sử dụng mủ cây keo để tạo ra thứ mực muối sắt pha với a-xít ta-nanh. Thứ mủ đó được lấy từ cây keo và được gọi là nước mắt Ả Rập vì nó chảy ra thành từng giọt màu vàng tươi cỡ này.”
Hắn dùng ngón trỏ và ngón cái tạo một hình tròn bằng hạt quả óc chó.
“Tác dụng của thứ mủ đó là làm đặc và giảm độ căng bề mặt của mực. Và nó giữ cho muối sắt ở dạng lỏng. Ta cũng cần có dung môi nữa. Ngày xưa, nước mưa và rượu vang trắng được khuyên sử dụng. Hoặc là giấm chua. Ông nội tôi khuyên nên cho giấm vào mực khi viết thư cho kẻ thù và rượu khi viết cho bè bạn.”
Ivarsson hắng giọng, nhưng Raskol không thèm đếm xỉa, cứ nói tiếp.
“Ban đầu, thứ mực đó vô hình. Nó chỉ hiện ra khi viết lên giấy thôi. Trong ống màu ấy có những phần tử màu đỏ tạo ra phản ứng hóa học khi tiếp xúc với giấy tiền, và phản ứng này sẽ khiến cho nó không thể tẩy xóa được. Những tờ tiền đó sẽ vĩnh viễn bị đánh dấu là tiền bị cướp.”
“Tôi biết ống màu hoạt động thế nào,” Ivarsson nói. “Điều tôi muốn biết hơn là…”
“Đừng sốt ruột, ông sếp. Điều thú vị ở công nghệ này là nó cực kỳ đơn giản. Đơn giản đến mức tôi có thể tự mình làm một cái ống màu, đặt vào bất cứ chỗ nào tôi muốn và làm nó phát nổ ở một khoảng cách nhất định với thiết bị thu nhận tín hiệu. Toàn bộ dụng cụ có thể để gọn trong một hộp cơm trưa.”
Weber đã ngừng ghi.
“Nhưng yếu tố cơ bản của ống phẩm màu không nằm ở công nghệ, sếp Ivarsson ạ. Yếu tố cơ bản của nó là để buộc tội.” Mặt Raskol sáng bừng lên với một nụ cười hết cỡ. “Thứ màu đó cũng sẽ dính lên quần áo và da của tên cướp. Và bám dai đến mức một khi nó đã dính vào tay rồi thì sẽ không bao giờ rửa sạch được. Pontius Pilate và Judas, phải không nào? Máu vấy trên tay hắn. Đồng tiền vấy máu. Nỗi thống khổ của người phân xử. Sự trừng phạt dành cho kẻ chỉ điểm.”
Raskol đánh rơi ruột bút xuống sàn đằng sau chiếc bàn và trong lúc hắn cúi xuống nhặt nó lên, Ivarsson ra hiệu cho Weber rằng ông ta muốn mượn cuốn sổ.
“Tôi muốn anh viết ra tên của người trong những tấm ảnh này,” Ivarsson nói và đặt cuốn sổ lên bàn. “Như tôi đã nói, chúng tôi không tới đây để chơi.”
“Không phải để chơi, không,” Raskol nói, chậm rãi xoáy cái bút lại như cũ. “Tôi đã hứa là tôi sẽ cho ông biết tên của gã đã lấy số tiền đó, phải không nào?”
“Đúng, thỏa thuận là như vậy,” Ivarsson đáp. Ông ta nhoài về phía Raskol trong lúc hắn viết ra giấy.
“Người Xoraxan chúng tôi biết thỏa thuận nghĩa là thế nào mà,” Hắn nói. “Tôi không chỉ viết tên hắn, mà còn cả ả điếm mà hắn thường chơi và kẻ mà hắn đã tìm đến để thuê phang gãy chân cái thằng vừa làm tan nát trái tim của con gái hắn nữa. Cho ông biết thêm là cái gã được thuê đã từ chối.”
“À, tuyệt lắm.” Ivarsson quay phắt sang Weber, toét miệng cười khoái trá.
“Đây,” Raskol đưa cuốn sổ và cái bút cho Ivarsson, và ông ta vồ lấy đọc.
Nụ cười hoan hỉ vụt tắt. “Nhưng…” ông ta lắp bắp. “Helge Klementsen. Trưởng chi nhánh.” Ivarsson như chợt hiểu ra. “Ông ta có dính líu à?”
“Dính líu sâu,” Raskol đáp. “Ông ta đã lấy tiền ra, phải không?”
“Và cho vào cái túi của tên cướp,” Weber làu bàu cạnh cửa.
Mặt Ivarsson từ từ chuyển từ thắc mắc sang giận dữ. “Chuyện nhảm nhí gì thế này? Anh đã hứa sẽ giúp chúng tôi cơ mà.”
Raskol ngắm nghía cái móng tay dài, nhọn hoắt trên ngón út của bàn tay phải. Rồi hắn nghiêm nghị gật đầu, ngả qua bàn và vẫy Ivarsson lại gần. “Ông nói đúng,” hắn thì thào. “Mách ông điều này. Hãy xem cuộc đời này là để làm gì. Ngồi xuống và quan sát con ông. Không dễ phát hiện ra những gì mình đã để mất đâu, nhưng vẫn có thể làm được.” Hắn vỗ lưng vị sếp Đơn vị Chống cướp và ra hiệu về phía bàn cờ. “Đến lượt ông đấy, sếp.”
Ivarsson giận xì khói khi ông ta và Weber đi dọc hầm Culvert, một đường hầm ngầm dài ba trăm mét nối liền nhà tù Botsen tới Sở Cảnh sát.
“Tôi đã tin tưởng một tên thuộc cái giống người đã phát minh ra sự dối trá!” Ivarsson rít lên. “Tôi đã tin một tên Di gan khốn kiếp!”
Tiếng vọng dội lại từ các bức tường gạch. Weber hối hả bước đi; Ông ta muốn ra khỏi cái đường hầm lạnh lẽo, ẩm ướt này. Hầm Culvert được dùng để đưa tù nhân đến Sở Cảnh sát thẩm vấn rồi lại đưa trở lại nhà tù, và người ta đồn đại khá nhiều về những chuyện xảy ra ở đây.
Ivarsson khép chiếc áo khoác chặt hơn quanh người và bước ra. “Hứa với tôi một điều, Weber: anh sẽ không hở ra một lời với bất cứ ai. Được chứ?” Ông ta quay về phía Weber, lông mày nhướn lên: “Thế nào?”
Câu trả lời cho đề nghị của Ivarsson là một tiếng “được” dè dặt bởi họ vừa tới chỗ tường sơn màu cam trong đường hầm và Weber nghe thấy một tiếng “bụp” nhỏ. Ivarsson hét lên một tiếng kinh hãi và khuỵu xuống một vũng nước, tay ôm ngực.
Weber quay trước quay sau nhìn suốt dọc đường hầm. Không một bóng người. Rồi ông quay sang vị sếp lúc này đang trợn tròn mắt nhìn bàn tay vấy đỏ của mình.
“Tôi chảy máu rồi!” Ông ta rên rỉ. “Tôi sắp chết rồi.”
Weber có thể thấy mắt Ivarsson càng lúc càng mở to thêm trên mặt.
“Gì vậy?” Ivarsson hỏi, giọng run lên vì sợ trong khi thấy Weber há hốc miệng nhìn ông ta.
“Ông phải tới tiệm giặt khô rồi,” Weber nói.
Ivarsson liếc nhìn xuống dưới. Mực đỏ bắn tung tóe khắp cả phần thân trước của chiếc áo sơ mi và loang lổ trên cái áo khoác màu xanh non chuối.
“Mực đỏ!” Weber đáp.
Ivarsson lôi phần còn lại của cái bút bi có logo ngân hàng Den Norske ra. Vụ nổ nhỏ đó đã khiến nó vỡ đôi ở giữa. Ông ta vẫn quỳ tại chỗ, mắt nhắm nghiền cho đến khi hơi thở bình thường trở lại. Rồi ông ta dán mắt vào Weber.
“Ông có biết tội lỗi lớn nhất của Hitler là gì không?” Ông ta hỏi, đưa bàn tay sạch ra. Weber nắm lấy và kéo Ivarsson đứng dậy. Ivarsson liếc nhìn lại quãng đường hầm mà họ vừa đi qua. “Là không trốc tận gốc đám Di gan.”
○○○
“Đừng có hở ra lời nào với bất cứ ai đấy nhé,” Weber nhại lại Ivarsson và cười khùng khục. “Ivarsson đã đi thẳng ra ga ra và lái xe về nhà. Thứ mực đó sẽ còn dính vào da ông ta ít nhất là ba ngày nữa.”
Harry lắc đầu không tin nổi. “Thế các ông đã làm gì với tên Raskol đó?”
Weber nhún vai. “Ivarsson bảo rằng ông ta sẽ tống hắn vào phòng biệt giam.
“Nhưng tôi đoán là như vậy cũng chẳng ích gì đâu. Gã đó… khác người lắm.”
“Nhắc đến chuyện khác người, anh và Beate tiến hành đến đâu rồi? Hai người đã tìm được gì ngoài dấu vân tay đó chưa?”
Harry lắc đầu.
“Cô gái đó đặc biệt đấy,” Weber nói. “Tôi có thể nhận thấy cô ta giống cha mình. Cô ta có thể là một cảnh sát giỏi.”
“Đúng thế. Ông có quen cha cô ấy không?”
Weber gật đầu. “Một người tử tế. Trung thành. Tiếc là mọi chuyện lại kết thúc như vậy.”
“Kỳ lạ là một cảnh sát dày dạn kinh nghiệm lại mắc phải sai lầm như vậy.”
“Tôi không nghĩ đó là một sai lầm,” Weber nói, tráng cốc cà phê trong bồn rửa.
“Vậy ư?”
Weber lẩm bẩm gì đó.
“Ông nói gì vậy, Weber?”
“Không có gì,” Weber làu bàu. “Hẳn là ông ta phải có lý do nào đó. Tôi chỉ nói vậy thôi.”
○○○
“Bolde.com là một máy chủ,” Halvorsen nói. “Tôi chỉ có thể nói là nó không được đăng ký ở bất cứ đâu hết. Có thể là ở trong một cái hầm ở Kiev chẳng hạn và có những khách hàng nặc danh gửi cho nhau những đoạn phim khiêu dâm đặc biệt. Mà tôi thì biết gì? Chúng ta chỉ là người trần mắt thịt sẽ không thể tìm ra những người không muốn bị phát hiện trong khu rừng ấy. Anh sẽ phải tìm một chú chó nghiệp vụ, một chuyên gia thực thụ.”
Có tiếng gõ cửa nhẹ đến mức Harry không nghe thấy, nhưng Halvorsen gọi to: “Mời vào.”
Cánh cửa được mở ra rón rén.
“Chào cô,” Halvorsen nói, mỉm cười. “Beate phải không?”
Cô gật đầu và vội vã nhìn sang Harry. “Tôi đang tìm anh. Số điện thoại di động của anh ở trong danh sách…”
“Anh ấy bị mất điện thoại rồi,” Halvorsen nói và đứng dậy. “Cô ngồi đi, còn tôi sẽ pha một tách cà phê đen thương hiệu Halvorsen.”
Beate lưỡng lự. “Cảm ơn anh, nhưng tôi có thứ muốn cho anh xem ở Nhà Đau đớn. Harry. Anh có thời gian không?”
“Cả tỷ năm luôn,” Harry đáp, ngả người ra trên ghế. “Weber chỉ mang tới toàn tin xấu. Không có dấu vân tay trùng khớp và Raskol chơi Ivarsson một vố ngoạn mục hôm nay.”
“Đó mà là tin xấu ư?” Beate buột ra. Cô hoảng hốt bưng miệng.
Harry và Halvorsen bật cười.
“Rất vui được gặp lại cô, Beate,” Halvorsen nói trước khi cô cùng Harry rời khỏi văn phòng. Anh ta không nhận được lời đáp lại, chỉ có cái nhìn săm soi của Harry, rồi bị bỏ lại tẽn tò giữa phòng.
○○○
Harry nhận thấy trên chiếc ghế xô pha hai chỗ hiệu IKEA trong Nhà đau đớn, có một cái chăn nhàu. “Cô ngủ lại đây đêm qua à?”
“Tôi chỉ chợp mắt một chút thôi,” Cô đáp và bật cái đầu video. “Nhìn Kẻ Hành quyết và Stine trong hình ảnh này nhé.”
Cô chỉ vào màn hình nơi cô đã cho dừng hình ảnh tên cướp với Stine đang ghé lại gần. Harry có thể cảm thấy tóc gáy anh dựng đứng lên.
“Có gì đó trong hình ảnh này, phải không?” Cô nói.
Harry chăm chú nhìn tên cướp. Rồi nhìn Stine. Và anh nhận ra chính chỗ này đã khiến anh phải xem đi xem lại cuốn băng nhiều lần, cứ kiếm tìm điều gì đó vốn hiện diện nhưng cứ lẩn trốn anh.
“Là gì?” anh hỏi. “Điều cô nhìn ra mà tôi thì không là gì?”
“Cố xem nào.”
“Tôi đã cố rồi.”
“Khắc sâu hình ảnh đó vào võng mạc của anh rồi nhắm mắt lại và cảm nhận xem.”
“Quả tình là…”
“Nào, Harry.” Cô mỉm cười. “Điều tra là thế mà, phải không nào.”
Anh nhìn cô thoáng vẻ ngạc nhiên. Rồi anh nhún vai và làm theo lời cô.
“Anh nhìn thấy gì, Harry?”
“Phía bên trong mí mắt tôi.”
“Tập trung vào. Nói cho tôi biết cái gì khiến anh khó chịu.”
“Có gì đó ở anh ta và cô ta. Có gì đó… trong dáng đứng của họ.”
“Tốt. Dáng đứng của họ làm sao?”
“Họ đứng… Tôi không biết nữa. Họ đứng trông cứ bất thường thế nào ấy.”
“Bất thường như thế nào?”
Harry có cảm giác chìm lún y như lúc ở nhà Vigdis Albu. Anh thấy Stine Grette ngồi ngả về trước. Như thể để đón lấy lời tên cướp. Hắn đang nhìn vào mặt người mà hắn sắp giết từ hai cái lỗ trên chiếc mũ len trùm đầu. Hắn đang nghĩ gì? Còn cô ta đang nghĩ gì? Trong khoảnh khắc ngưng đọng đó, có phải cô ta đang cố gắng phát hiện ra hắn là ai không, cái gã đàn ông dưới chiếc mũ trùm đầu đó?
“Bất thường thế nào?” Beate hỏi lại.
“Họ… họ…”
Bàn tay cầm súng, ngón đã đặt trên cò. Mọi người xung quanh đều hóa đá cả. Stine đang há miệng. Hắn có thể nhìn thấy mắt cô ta qua ống ngắm. Nòng súng đẩy nhẹ vào răng cô ta.
“Bất thường như thế nào?”
“Họ… họ đứng quá gần.”
“Tuyệt vời, Harry!”
Anh mở mắt ra. Những đốm nhỏ như amip cứ hoa lên trước mắt anh và lượn lờ trước trường nhìn của anh.
“Tuyệt vời?” anh lúng búng. “Ý cô là sao?”
“Anh đã gọi trúng cái điều mà chúng ta vẫn thấy từ trước tới giờ. Anh nói hoàn toàn chính xác! Harry ạ. Họ đứng quá gần nhau.”
“Đúng thế, tôi đã nghe thấy mình nói vậy, nhưng ‘quá gần’ so với cái gì?”
“So với khoảng cách mà hai người chưa từng gặp mặt nên đứng.”
“Sao?”
“Anh đã nghe nói tới Edward Hall chưa?”
“Chưa hẳn.”
“Một nhà nhân chủng học. Ông ta là người đầu tiên giải thích mối liên hệ giữa khoảng cách giữa con người với nhau và quan hệ giữa họ. Nó được chứng minh khá thuyết phục.”
“Giải thích đi.”
“Khoảng cách xã hội giữa những người không hề quen biết là từ một tới ba mét rưỡi. Đó là khoảng cách mà anh sẽ giữ nếu như hoàn cảnh cho phép, nhưng nhìn vào những người xếp hàng trên xe buýt và vào toa lét mà xem. Ở Tokyo, người ta đứng gần nhau hơn mà vẫn cảm thấy thoải mái, nhưng mức độ dao động giữa các nền văn hóa thật ra là khá nhỏ.”
“Hắn không thể thì thầm vào tai cô ta từ cách xa cả mét được, phải không?”
“Không, nhưng hắn có thể dễ dàng làm được điều đó trong cái được gọi là không gian cá nhân, vào khoảng từ một mét tới bốn mươi lăm phân. Đó là khoảng cách mà người ta thường hay giữ với người lạ và những ai được gọi là người quen. Nhưng anh thấy đấy, Kẻ Hành quyết và Stine Grette đã phá vỡ ranh giới này. Tôi đã đo khoảng cách này. Là hai mươi phân. Điều đó có nghĩa là họ đã đứng vào khoảng cách thân mật. Khi anh đứng quá gần người khác thì anh sẽ không thể duy trì sự chú ý đến khuôn mặt hoặc tránh được mùi cơ thể và thân nhiệt của họ. Đó là khoảng cách dành cho người tình hoặc người thân trong gia đình.”
“Ừm,” Harry đáp. “Tôi ấn tượng với hiểu biết của cô đấy, nhưng hai người này đang tham gia vào một màn kịch gay cấn.”
“Đúng nhưng chính thế mới thú vị!” Beate kêu lên, bám vào tay vịn của chiếc ghế để khỏi nhảy cẫng lên. “Nếu không nhất thiết phải làm vậy thì người ta sẽ không vượt qua ranh giới mà Edward Hall đã nói tới. Mà Kẻ Hành quyết và Stine Grette thì không nhất thiết phải làm vậy.”
Harry xoa cằm. “OK, cứ tiếp tục đi theo hướng đó đi.”
“Tôi nghĩ là Kẻ Hành quyết quen Stine Grette,” Beate nói. “Rất rõ.”
“Tốt, tốt.” Harry đưa tay lên bưng mặt và nói vọng qua các kẽ ngón tay. “Vậy là Stine quen biết một tên cướp ngân hàng chuyên nghiệp, kẻ đã thực hiện một phi vụ hoàn hảo rồi bắn chết cô ấy. Cô biết lập luận đó sẽ đưa chúng ta tới đâu, phải không.”
Beate gật đầu. “Tôi sẽ xem chúng ta tìm được gì về Stine Grette ngay lập tức.”
“Tuyệt. Và sau đó hãy nói chuyện với ai đó thường xuyên ở trong khoảng cách thân mật của cô ta.”
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù