How many a man has dated a new era in his life from the reading of a book.

Henry David Thoreau, Walden

 
 
 
 
 
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1282 / 9
Cập nhật: 2017-05-20 08:35:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Tướng Diện
gười xưa có câu: "Giàu ba mươi tuổi chớ mừng, khó ba mươi tuổi em đừng vội lo;" trong khi Khổng Tử thu thập: "Tam thập nhi lập." Ba mươi tuổi đã nhi lập mà cuộc đời còn bấp bênh chưa biết tương lai sẽ thế nào hỏi sao không e ngại. Qua kinh nghiệm sống, con người nhận thấy không phải cứ cố gắng mà đạt được điều mình muốn. Cuộc đời thăng trầm nhiều khi dồn con người vào cảnh bó tay bó chân không phương xoay xở khiến phải tin rằng còn một lẽ nào đó ảnh hưởng đến thực tại tạm gọi là vận số. Nói là vận số vì mình không hiểu được nguyên nhân tại sao. Có những người học hành không ra gì mà cuộc đời làm ăn giầu có; lại những người trông vẻ bên ngoài tầm thường giữ uy quyền muôn mặt... Lẽ thường tình: "Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa..." thế mà chỉ những người giầu không phải lo lắng bon chen với vật chất mới có thể ngủ muộn; hoặc câu khác: "Những người đói rách tả tơi, của Trời chớ phụ đừng ăn chơi quá nhiều," lại nghịch thường với thực tế. Chỉ những kẻ nhiều của ăn không hết mới phụ của chứ đói rách làm chi có của mà phụ. Câu "Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện" một phần nào đó khuyên mọi người nên tiết kiệm lúc có để lo cho lúc chẳng may, đừng vung tay quá trán, chứ nếu vừa buôn tàu bán bè vừa ăn dè hà tiện thì phải có hơn chứ không thể nào nói đến không bằng. Tuy nhiên, nếu cho rằng đời người đã được phận số định sẵn làm sao "Có chí thì nên," và phải chăng tin vào phận số chỉ làm hao mòn tinh thần tiến thủ?
Xét về phương diện tâm tính đôi khi có những câu thật khó mà hiểu. Chẳng hạn: "Những người lúa đụn tiền kho, ruột bằng sợi chỉ miệng to bằng trời." Nếu nghĩ ngược lại, những người nghèo nàn, lòng rộng rãi lấy gì mà cho, và có rộng rãi thì cũng chỉ giới hạn trong cảnh nghèo của mình. Hơn nữa, thực tế cho thấy, chỉ những người giầu có mới giúp được những người nghèo vì người đã nghèo thì chẳng có nên dù lòng muốn nhưng cái khó nó bó cái khôn, cái nghèo không cho phép bởi chính mình chưa lo nổi cho mình làm sao có thể giúp người. Lấy gì để minh chứng "Người xấu duyên lặn vào trong, bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài?" Và làm sao để thử nghiệm "Chớ thấy áo rách mà cười, những giống gà nòi lông nó lơ thơ?"
Tuy nhiên có những nhận xét về tướng diện con người nơi Tục Ngữ, Ca Dao dựa trên những gì nhìn thấy theo vẻ bên ngoài vì "Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay." Những nhận xét tướng diện dựa trên kinh nghiệm chỉ được phần nào áp dụng cho bản thân, và đồng thời được lồng trong khung cảnh kinh tế xã hội Việt qua nhiều thế hệ. Dĩ nhiên, mặc dầu nói tổng quan về tướng diện nhưng không được coi là những định luật bất di dịch mà bao gồm nhiều luật trừ; lý do dễ hiểu, tướng diện bị ảnh hưởng bởi cái nhìn bề ngoài trong khi con người còn có ẩn tướng mà đã là ẩn tướng ai có thể nhìn thấy ngoại trừ chính người mang nó nhận ra hay không. Hơn nữa sự ảnh hưởng nơi người cha cũng góp phần vào số người con theo tướng học vì cũng người đàn bà có số sinh con làm tướng nhưng gặp ông chồng sống thất đức, phá tướng, sẽ sinh con tướng cướp. Đàng nào cũng là tướng nhưng quí tướng và phá tướng chắc chắn không thể giống nhau.
Coi tướng diện không phải là coi số hay coi bói. Coi bói toán, vận số tùy thuộc vào những điều người ta không thể kiểm chứng và số mạng con người nào ai giống ai nên làm sao đúng theo như những quy luật cứng ngắc bất di dịch của lá số, của lời giải đoán... Thế nên chẳng lạ gì: "Tử vi xem số cho người, số mình thì để cho ruồi nó bâu." Tướng diện qua kinh nghiệm thấy sao nói lên vậy: "Nhân hiền tại mạo, trắng gạo ngon cơm" chứ không phải rập theo những kinh nghiệm vô căn cứ không hiểu lý do tại sao; chẳng hạn: "Hà tiện mới có, bẩn như chó mới giầu." Đã giầu có tại sao lại bẩn như chó... Có lẽ người giàu hiểu rõ hơn về phương diện nào câu tục ngữ này muốn ám chỉ. Tướng diện được diễn tả qua Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói lên phần nào cá tính, tâm tính con người được thể hiện qua diện mạo bên ngoài và kinh nghiệm truyền lại bằng những câu nói ngắn gọn hoặc thêm phần sắp xếp cho có vần điệu. Phần diện mạo dựa trên cách đi đứng, ăn nói tóc tai: "Cái răng cái tóc là góc con người," hoặc dáng dấp, hình thái kèm theo lối so sánh: "Cây khô không lộc, người độc không con." Tuy nhiên, sự suy diễn, giải nghĩa tướng diện nơi Tục Ngữ,Ca Dao thật ra không theo nghĩa đen mà thường tùy thuộc vào lối ám chỉ, nghĩa bóng.
Coi tướng diện không phải là tin nhảm, dị đoan "Thừa tiền thì đem mà cho, đừng đi coi bói thêm lo vào mình." Thực ra cũng có những kinh nghiệm không hiểu tại sao, có lẽ vô tình trùng hợp chẳng hạn "Thứ nhất đom đóm vô nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba bông đèn;" hoặc "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang." Đôi khi có những điều dị đoan đến độ phi lý: "Đi ra gặp đàn bà thà trở vô nhà mà ngủ," hay "Vợ chồng một tuổi, nằm duỗi mà ăn." Lý do coi tướng diện vì ít nhất một phần nào tư cách con người được thể hiện qua phong thái, hình dáng là những nét bề ngoài mọi người có thể nhìn thấy bởi ai chẳng muốn: "Chọn mặt gửi lời, chọn người gửi của" mặc dầu có những trường hợp "Xem tướng ngó dạng anh hào, suy ra nết ở khác nào tiểu nhi." Thực tâm nhận xét, coi tướng diện cho người khác, ai cũng đều gặp kinh nghiệm 90 phần trăm sai lầm, còn lại những trường hợp vô tình may mắn bởi có những ẩn tướng hoặc nét phá hay hộ cách khó có thể tổng hợp cho đúng. Coi tướng diện mục đích nghiệm nơi chính bản thân để biết mình hơn.
Trước hết, hình thái phong cách nói lên một phần nào tâm tính con người do đó tướng diện bị lệ thuộc vào tâm đức cá nhân. Tướng số có câu: "Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt." Dĩ nhiên, ai cũng đều nhận ra những người ngay thẳng, chính trực không thể có cặp mắt láo liên hoặc lời ăn tiếng nói đặt điều xằng bậy. Tâm đức tạo nên phong thái bên ngoài cũng như giá trị con người; đó có thể là lý do tại sao "Cái đức nó bức cái tướng." Cái đức nói theo kiểu bình dân ở đây cũng mang nghĩa thay đổi tướng diện, phong thái một người. Cũng qua kinh nghiệm tướng số, "Đức năng thắng số" đã trở thành châm ngôn cho người người cải thiện lối sống ngày một tốt lành hơn. Tướng diện phát từ tâm hồn con người và coi tướng diện để tự sửa đổi chính mình; nói theo Khổng Tử đó là tu thân. Muốn tu thân cần hiểu chính mình. Coi tướng diện để tự tìm hiểu chính mình, tìm ra phần nào tâm tính không nên nơi mình chưa để ý mà sửa đổi.
Thành ngữ có câu: "Người ba đấng, của ba loài;" cuộc đời có kẻ thế này, người thế khác cũng như đồ vật, có món tốt, món xấu chứ không phải tất cả mọi người đều có tâm tính giống nhau, hoặc mọi vật đều như nhau. Những người khôn thì chóng già vì tâm tính hay suy nghĩ và dĩ nhiên, "Người có tiếng phi mạnh thì bạo." Những người có tăm tiếng phần nhiều là người có tài; tuy nhiên, cũng có trường hợp gian ngoa độc ác dám dùng mưu chước hại người khác để bước lên đài danh vọng. Nhìn vào tướng diện, nét dễ nhận ra, "Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ lộ." Không hiểu tại sao người xưa lại nói câu này. Nếu xét theo tướng học về lé: "Lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính," cũng chưa chắc những người hai con mắt không ngay ngắn như nhau luôn luôn là bất chính; mà có chăng, người lé, khi thương thì thương nhất mực và khi đã ghét cũng thế... Hơn nữa, đâu có ai hai con mắt bằng nhau mà thế nào cũng có chút khác biệt. Nếu nói rằng người lùn hay có tính kiêu căng bởi tâm tính thường hay đối nghịch với hình dáng bên ngoài nên lùn được xếp hạng thứ nhì thì càng trái ngược; đâu thiếu chi người lùn nhã nhặn, khoan hòa. Có điều, theo kinh nghiệm cho thấy một số người không được cao cho lắm rất khôn ngoan lại lắm mưu chước thế nên lùn được xếp vào một trong bốn loại dẫn đầu của tướng diện chăng. Có lẽ răng hô được xếp hàng thứ ba cần phải kèm theo điều kiện môi cong bởi theo sách tướng: "Xỉ lộ thần hân tu phòng dã tử;" răng lộ môi cong đề phòng chết đường. Theo Tướng Mệnh Khảo Luận do Vũ Tài Lục biên soạn, một trong tướng lục ác là "thần bất hô xỉ." Môi không che được răng là người bất hòa. Răng hô phải đầm xuống đều thì chất phác; răng đâm ngang hay ngưỡng lên, cực đểu giả (Ngân Hà Thư Xã; Sài Gòn, 1972; tr. 235). Có nơi ghi lại: "Nhất lé nhì lùn, tam hô tứ sún." Có thể sún được xếp hàng thứ tư do ảnh hưởng bởi sự không để ý chăm sóc cơ thể, gặp gì ăn nấy, có thể nói tham ăn nên răng bị hại. Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán vô căn cứ; biết bao người sún nên làm răng giả nào ai mà biết. Chẳng lẽ tướng diện bị lệ thuộc nét sửa đổi, và nếu như thế, đâu còn gì là tướng diện, mà tâm sinh do sửa hình dáng. Ngoài ra, nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún chưa chắc đã khó thương mà có phần dễ thương tùy thuộc tâm tính từng người.
Kiếm người làm, nhất là trong giới nông nghiệp, "Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua." Người chân khô không bị bịnh tê thấp, ảnh hưởng do sự thay đổi thời tiết không tác dụng nên sức khỏe đều đặn, dù nắng mưa, sương gió không cản trở công việc làm của họ nên mướn được người khô chân giúp, công việc mình không bị đình trệ. Những người có đường gân máu nổi lên ở mặt chịu đựng cực khổ dẻo dai. Dùng người khô chân gân mặt để làm việc cho mình thì thật đáng đồng tiền bát gạo, chỉ có lợi chứ không sợ bị thua lỗ.
Xét chung, sách tướng có câu: "Ăn nhanh đi chậm là tướng quí nhân." Ăn nhanh nhưng gọn gàng, cử điệu, thái độ chững chạc, không ngồm ngoàm, nhỏ nhặt như chuột; dáng đi khoan thai, đĩnh đạc, lưng thẳng, gót chân đặt xuống đất... mang phần quí tướng. Tuy nhiên, không phải quí tướng là bất cứ chi cũng quí bởi còn bị ảnh hưởng do các tướng khác nhất là tâm đức. Một điều thường làm cho người có tướng quí lận đận là đã quí e khó phú. Tục ngữ có câu: "Phi thương bất phú," mà buôn bán ảnh hưởng tâm tính khiến con người khó chân thành, ngay thẳng làm mất phần quí. Đó cũng có thể là lý do tại sao "Mặt vuông chữ điền đồng tiền chẳng có" bởi người mặt vuông chữ điền, hơi nặng hàm (như gương mặt các mệnh phụ) biểu hiệu tâm hồn đoan chính, không tham lam, tự tin, không bon chen nên thường nghèo. Ngược lại với dáng đi thanh thản của ăn nhanh đi chậm là tướng vội vàng hấp tấp đi chúi người về phía trước. Những người lam lũ cực khổ thường có dáng đi này: "Cái đầu đi trước, gặp nhiều bước khó khăn." Người khó tính, mặt hay cau có; khi giận thì làm gì cũng hỏng, không mong chi kết quả; do đó: "Mặt khó đăm đăm, tát nước đầm không cạn."
Khi trong lòng có chuyện âu lo tất nhiên người ta hay thở dài; những người hay thở dài thường có nội tâm âu sầu thiếu đường giải thoát: "Những người chép miệng thở dài, chỉ là sầu khổ bằng ai bao giờ." Trái ngược với chép miệng thở dài là vui tươi cởi mở: "Hay cười như thể đười ươi, làm ai cũng tưởng là người vô lo." Tuy nhiên, người thâm trầm chín chắn, dẫu trong cảnh âu lo vẫn không lộ nét ưu tư sầu khổ. Sự khác biệt giữa nét vui tươi, không ưu phiền lo lắng được thể hiện bởi nét cười là nét vô duyên: "Vô duyên chưa nói đã cười." Vô duyên ở đây bao gồm nhiều khía cạnh qua cái cười: cười cầu tài, nịnh hót, lẳng lơ, khinh thị...
Tướng diện bao gồm toàn bộ con người từ hình dáng, cách đi đứng, sự cân đối, ưu điểm hoặc khuyết được thể hiện qua diện mạo bên ngoài. Theo Việt Nam Tự Điển, "Mía đõn đầu là mía sâu, người đõn đầu là người ngốc." Kinh nghiệm cho biết, người nào có cái đầu ngắn mà bằng phẳng ở trên là người không khôn; cũng như cây mía nào mà lá ngọn còi là cây mía sâu nõn (tr. 256, phần Thành Ngữ, Quyển Hạ.) Lối nói bình dân có dùng tiếng "mặt thịt;" mặt thịt dĩ nhiên là nhiều thịt hoặc nhìn thấy như nhiều thịt hơn xương. Mặt thịt còn được gọi là mặt nạc; mặt thịt mà dài được gọi là mặt mo vì thịt vun lên giống như chiếc mo cau khô úp vào, "Những người phính phính mặt mo, chân đi chữ bát có cho chẳng màng." Mặt thịt, mặt nạc, mặt mo biểu hiệu thiếu khôn ngoan, ngu đần. Mặt thịt kèm theo môi dầy lại càng tệ; "Những người mặt nạc môi dày, mịt mù trời đất biết ngày nào khôn." Theo Vũ Tài Lục, "môi thật dầy không có khía môi; môi luôn luôn động là mã khẩu, chỉ sự bần tiện."
Đàn bà tóc nhiều và dài thì tốt, thuộc tướng sang. Như thế, tướng sang của một người tự bẩm sinh chứ không phải cứ học tập kiểu cách phải thế này phải thế kia mà có thể sang được. Người đã không có tướng sang thì có "học làm sang" cũng không che dấu nổi nét tầm thường của mình. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân cho câu "Trưởng giả học làm sang." Trái lại, người đã được sinh ra với cốt cách sang trọng, dù có bị sinh trưởng từ gia đình thuộc lớp nghèo hèn, bình dân, tự bản chất đã mang vẻ tướng của mình. Tuy nhiên, xét theo tướng diện, nếu đàn bà tóc rậm, óng mượt, dài, thuộc cốt sách sang trọng thì đàn ông với cái đầu rậm tóc chẳng lợi lộc gì: "Đàn bà tóc rậm thì sang, đàn ông rậm tóc chỉ mang nặng đầu." Đàn ông, trên đầu không nên nhiều tóc thì dưới cằm lại cần râu. Đàn ông không râu thuộc loại tối kỵ; người không râu mà lại mặt trắng (bạch diện) Vũ Tài Lục gọi là mặt đít ếch. Sách tướng nói: "Bạch diện vô tu chung thân phá bại." Mặt trắng không râu về già tán gia bại sản. Đàn ông không râu cũng như đàn bà không vú: "Đàn ông không râu mất nghì, đàn bà không vú lấy gì nuôi con." Tuy nhiên, nếu đàn ông mà râu rậm hơn lông mày lại đi kèm với cặp mắt sâu sẽ là người nham hiểm đáng sợ, thuộc tướng diện "Rậm râu sâu mắt." Theo Vũ Tài Lục, râu rậm hay thưa phải tùy thuộc lông mày mới đúng cách.
Phần trên cằm là miệng; ngoài miệng có môi. Đôi môi một người nói lên nhiều cá tính theo con mắt tướng diện. Môi cần che kín răng bởi "Môi hở răng lạnh." Môi là cửa ngõ của miệng lưỡi nên tướng miệng đi kèm với môi. Ca Dao nói lên: "Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dầy môi ăn vụng..." và đồng thời "Môi thâm hiểm độc trong lòng." Dẫu tướng miệng tùy thuộc rất nhiều vào môi nhưng vẫn có những kiểu cách riêng. Thành ngữ dùng câu: "Miệng ngậm hạt thị" chỉ người ăn nói không ra lời, lúng búng trong miệng. Lời nói con người được thoát ra từ cửa miệng nên miệng còn được hiểu theo nghĩa bóng chỉ tâm tính; chẳng hạn: "Miệng hùm gan sứa." Sứa nào có gan, mà hùm ai không sợ. Người lớn lối thường hay nhát gan. Đặc tính này thường ở nơi người hay làm oai bắt nạt hoặc thích kiếm chuyện gây khó dễ cho người khác. Một đặc tính của miệng thuộc tướng tốt nơi đàn ông thì lại không tốt nơi đàn bà: "Đàn ông rộng miệng thì tài, đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng." Chẳng những thế, miệng rộng nơi đàn bà còn mang thiệt hại nơi gia đình: "Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà." Có lẽ đàn bà miệng rộng thường là người tiêu xài không tính toán nên gây ra lắm cảnh thiếu hụt. Miệng không phải chỉ được dùng để nói mà còn để ăn; thế nên, "Miệng gàu dai (dây) nhai hết sự nghiệp," và người có "Miệng ống nhổ ăn đổ hết cửa nhà."
Trên miệng là nhân trung và mũi. Người có nhân trung dài sống lâu: "Nhân trung dài sống dai như ông bành tổ." Nói về sống như thế nào lại tùy thuộc về cái mũi bởi "Những người lỗ mũi hếch lên, của xe chất đống một bên cũng nghèo." Hơn nữa, chẳng may ai có "Nốt ruồi trên mũi hay tủi tấm thân." Bộ phận ảnh hưởng đến mũi nặng nề nhất là cặp mắt và đồng thời cũng là bộ vị quan trọng nhất của nhân thân. Những người thành công đều có cặp mắt tốt kèm theo mũi ngay ngắn trường nhuận. Nhìn vào màu sắc của mắt, người xưa nói: "Người khôn con mắt đen sì, kẻ dại con mắt nửa chì nửa than." Mắt còn nói lên cá tính hoặc sự khắc thuận của một người thế nào: "Những người con mắt ốc nhồi, trai thời đánh vợ gái thời sát phu." Mắt trắng dã đi kèm với môi thâm chứng tỏ con người bạc bẽo, hiểm độc... thuộc tướng xấu: "Môi thâm mắt trắng."
Xét riêng về tướng đàn ông, thành ngữ có câu khá thâm thúy: "Xấu mặt dễ sai, đẹp trai khó khiến." Điều này không lạ gì bởi cái đẹp bề ngoài đối với con mắt bình thường khác hẳn nét đẹp của tướng diện. Dĩ nhiên, những người đàn ông mặt hoa da phấn thường hay có số đào hoa. Người mang số đào hoa dễ coi thường những người phụ nữ theo đuổi nên sinh ra bất cần, khó khiến... Chắc chắn một điều, người có số đào hoa chưa chắc đã mặt hoa da phấn nhưng bình thường, nữ giới cũng như nam giới, ai không mang sẵn cá tính bẩm sinh yêu nghệ thuật, ai không dễ xiêu lòng với nét đẹp hợp nhãn... Đàn ông có một điều tối kỵ đó là lông mọc nơi thân mình: "Mèo vằn chó vá đừng nuôi, râu ria lông ngực là tôi phản thần." Người râu ria rậm rạp kèm theo lông ngực thuộc loại hay thay lòng đổi dạ. Lông bụng tự mình nó đã chứng tỏ con người giảo hoạt, nhỏ mọn, không chí lớn: "Quân tử lông chân, tiểu nhân lông bụng," hoặc "Cá khôn cá lội ra khơi, những người lông bụng chớ chơi mà lầm." Dẫu ca dao có câu: "Người quân tử đắc ý rung đùi, kẻ tiểu nhân đắc ý gẩy đàn môi," nhưng tướng rung đùi lại là tướng xấu: "Đàn ông ngồi hay nhịp cẳng là sẵn tính phá sản."
Dân gian nhận xét: "Xem trong bếp biết nết đàn bà;" điều này chẳng lạ gì vì đối với xã hội Việt Nam, đàn bà là nội tướng chuyên lo việc chăm sóc con cái, cơm nước trong gia đình. Dĩ nhiên, "Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm." Nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, bếp núc gọn gàng... phải là kết quả do sự làm việc của người nội trợ. Nếu nhà cửa bếp núc ngập ngụa, con cái lấm lem nhăng nhăng nhố nhố chắc hẳn người mẹ cần phải đặt lại vấn đề.
Nguyễn Du than trong Đoạn Trường Tân Thanh: "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" ám chỉ những người có tài thường hay bị gian truân lận đận... Đối với khách hồng nhan cũng thế: "Hồng nhan đa truân;" những người đàn bà đẹp theo lối nhìn bình thường của nhân gian thường gặp lắm cảnh trớ trêu. Phụ nữ dưới con mắt tướng diện, câu tục ngữ: "Con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền" thường đánh lừa khối người bồng bột không để ý về nét ngoắt ngoéo chơi chữ của người xưa. Trước hết, không ai dùng tiếng mua vợ hoặc mua vợ cho con mà cưới vợ hay dựng vợ gả chồng cho con cái. Ngược lại, người ta chỉ dùng tiếng mua hầu thiếp; đôi khi lịch sự văn vẻ hơn thì mới nói "cưới nàng hầu" trong thời kỳ xã hội Việt Nam còn chấp nhận "Trai năm thê bảy thiếp..." Hơn nữa, Ca Dao có câu lục bát nói về con mắt lá khoai loại có hình dạng dài gần giống lá răm: "Những người con mắt lá khoai, liếc chồng, chồng chết, liếc trai, trai mù." Phụ nữ đoan chính không thể bị ghép chữ "liếc trai" mà những hạng "liếc trai, trai mù" thì thuộc loại đa dâm. Thế nên những người "Con mắt lá răm, lông mày lá liễu" là người đa dâm, không thể là vợ một ai mà chỉ đáng nàng hầu nếu không nói đa số là kỹ nữ. Câu tục ngữ dùng chữ ngược nghĩa "Đáng trăm quan tiền." Tướng đa dâm nơi nữ giới còn bao gồm: trường túc, trường mi, xích diện và làn thu thủy. Người đàn bà phần chân dài hơn thân mình, lông mày dài và thẳng, mặt lúc nào cũng hồng đôi má và kèm theo cặp mắt ướt như luôn luôn đọng nước... tướng kỹ nữ hồng trần. Xét về hình dạng, lông mày phái nữ nên hơi cong theo vòng mí mắt; những chị em trang điểm vô tình không để ý thường hay phạm phải điều kỵ này nơi tướng diện.
Không hiểu tại sao Ca Dao có câu: "Những người béo trục béo tròn, ăn vụng bằng chớp đánh con cả ngày." Lý do thật khó hiểu bởi đâu thiếu gì những bà vợ có da có thịt một chút chăm sóc chồng con cẩn thận... lại thuộc người vượng phu ích tử. Đâu phải cứ béo là hay ăn vụng mà người đã không được ốm cho lắm dẫu có cố gắng ăn ít vẫn cứ chịu khó lên cân... Thế rồi tại sao "đánh con cả ngày" càng thấy không hợp lý hợp tình chút nào. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, những người mập thường là những người có tính vui vẻ; thật ra, nếu người mập không vui vẻ cởi mở mà khăn kháu, khó tính, dễ bị bịnh áp huyết cao chết bất ngờ. Có thể rằng câu ca dao này bị giới hạn bởi kinh nghiệm riêng tư nào chăng. Ngược lại với hình tướng béo trục béo tròn là tướng thắt đáy lưng ong, eo con kiến: "Những người đáy thắt lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con." Tướng nhiều con của người đàn bà là "Lưng chữ ngũ, vú chữ tâm." Người có lưng hơi cong về phía trước, cặp vú ngang hơi thòng xuống sẽ có nhiều con cái. Ngày xưa, trong thời kỳ ấu thơ con cái được nuôi bằng sữa mẹ khác hẳn với ngày nay nên thường có quan niệm: "Cả vú bụ con." Có lẽ cả vú nhiều sữa cho con bú nên con bụ bẫm chăng!
Sách tướng chia ra: nhất thanh, nhị sắc, tam hình. Chuông trống, dụng cụ âm nhạc làm bằng đồ tốt thì âm thanh tốt. Con người cũng thế, "Tiếng cả nhà thanh;" người có tiếng nói âm hưởng lan rộng và ngân là quí tướng. Âm thanh tiếng nói theo tướng diện khác với lời nói, "Vàng thì thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời." Lời nói phát tự tâm; tiếng nói thuộc về âm thanh, được xếp vào hàng diện mạo. Theo tướng học, tâm đoan chính, âm thanh tiếng nói biểu hiệu chất hào sảng: "Người thanh tiếng nói cũng thanh, chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu." Tiếng nói có âm thanh trầm ấm, âm điệu đĩnh đạc, hơi dài là tốt, là thanh. "Trái ngược với thanh là tục: líu lo, láu táu, thều thào, lí nhí, nói ngắn là xấu, là tục." (Tướng Mệnh Khảo Luận, tr. 55). Nếu "Lầm bầm như chó ăn vụng bột," vừa nói nhỏ, vừa cúi đầu là kẻ gian hoạt, âm hiểm.
Âm thanh tiếng nói hoặc kiểu cách nói của phụ nữ biểu hiệu một vài đặc tính của tướng diện. Điểm tối kỵ của phụ nữ về âm thanh giọng nói là lanh lảnh ré lên như tiếng kèn đồng hoặc tiếng lụa xé, đôi khi được gọi sắc như chẻ tre hoặc sắc như dao chém nước: "Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng, một tướng sát chồng hai tướng hại con." Theo Vũ Tài Lục, "Đàn bà chỉ cần một tiếng nói sang cũng đủ làm mệnh phụ phu nhân; chỉ cần một tiếng nói giọng đàn ông cũng đủ làm thịt vài ông chồng." Sách tướng có câu: "Nữ hữu nam thanh tất hình phu khắc tử; nam hữu nữ thanh tất tiện bần." (Tướng Mệnh Khảo Luận, trang 58). Coi tướng âm thanh lại cần phải liên kết với thái độ của người nói chuyện. Nếu cười nói tự nhiên là người có tướng về âm thanh tốt. Nói chưa ra lời mà đã cười mang tướng xấu: "Vô duyên chưa nói đã cười, có duyên gọi chín mười lời không thưa." Ca Dao là thế nhưng gọi chín mười lời không thưa chưa chắc đã có duyên... Tuy nhiên, chắc chắn rằng chưa nói đã cười lại kèm thêm "đi như chạy" sẽ là người vô duyên: "Những người chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên." Ăn nói nơi người đàn bà còn lệ thuộc vào tướng môi: "Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dề môi ăn vụng."
Trong thơ văn, thi sĩ hay dùng tiếng "gót son" để chỉ dáng mảnh mai tơ liễu của tướng đàn bà, tướng quí. Người xưa kinh nghiệm, những người đàn bà có gót chân đỏ sẽ được nhờ cậy nơi con cái sau này: "Những người gót đỏ như son, tướng xuất như vậy có con mà nhờ." Qua cơ cấu gia đình Việt, danh phận người đàn bà lệ thuộc vào danh phận chồng. Ngược lại, theo tướng học, người vợ và người chồng ảnh hưởng lẫn nhau về phận số. Tướng đàn bà cổ cao, ba ngấn sẽ có chồng danh tiếng: "Hỡi cô má đỏ hồng hồng, cổ cao ba ngấn lấy chồng cao sang." Một đặc tính thường có nơi đàn bà đó là ghen. Lẽ thường, "Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái không hay ghen chồng." Ghen không phải chỉ nơi đàn bà mà đàn ông nhiều khi còn quá quắt nhưng không có câu tục ngữ hay ca dao nào nói về đàn ông ghen. Điều này có thể bị quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp..." khỏa lấp chăng. Đàn bà có tóc trán quăn là người ghen ghê gớm; ông chồng nào có vợ mang tướng này phải nên coi chừng, nếu không muốn nói là lang bang sẽ có ngày mang họa, "Đàn bà tóc trán quăn quăn, như vậy mới biết người ghen quá chừng."
Vô ăn vô lo, sống không cần biết đến ngày mai sẽ ra sao là tướng lẹm cằm. Theo tướng diện, người lẹm cằm mang tướng xấu. Cằm được gọi là "địa các" hay cung "bắc nhạc" chủ về hậu vận. Thế nên, "Thà rằng chịu lạnh nằm không, còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô." Tướng đàn bà bất lợi cho đàn ông là tướng lưỡng quyền cao: "Đàn bà lưỡng quyền cao chỉ mưu mô hiếp chồng." Ngược lại, trên mặt có nốt ruồi nơi rãnh nước mắt sẽ khổ đau về đường chồng con: "Nốt ruồi dưới mắt sẽ nhắc khóc chồng."
Trong tiết mục "Hỏi Ông Hư Tử" nơi cuốn "Tướng Mệnh Khảo Luận," Vũ Tài Lục có chép: "Tướng có biến không? Tướng thường biến theo tâm. Theo lời Quỷ cốc Tử nói: 'Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt. Hữu tâm hữu tướng, tướng bất tùy sinh; vô tâm vô tướng, tướng bất tùy diệt." Trong cuộc sống, ai không nhận thấy "Thánh nhân đãi kẻ khù khờ;" vì khù khờ nên không biết hại ai, không mưu đồ gian ác do đó có tâm đức tốt, hướng thiện tất nhiên tướng tùy tâm sinh và số theo đức; trong khi những người ma lanh quỉ quyệt, "Ăn cây táo, rào cây sung," hoặc "Đòn càn hai mũi, đâm bị thóc thọc bị gạo" dù cho có cố tình huênh hoang cũng bị trần ai khốn khổ dầy vò. Nguyễn Du cũng nói lên: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài." (Đoạn Trường Tân Thanh). Người xưa có câu: "Ở hiền gặp lành." Ở hiền tất nhiên tạo tâm đức. Xét như vậy, phận số con người không phải đã được an bài từ trước mặc dầu ai cũng tin rằng "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Dẫu cha mẹ hiền lành, con cái hưởng phần phúc đức, nhưng nếu con cái không biết lo sống đức độ mà đam mê chạy theo những ham muốn xấu, tất nhiên tự mình phá đổ phần phúc đức, tự mình gieo tai họa cho mình bởi tướng tùy tâm diệt và số tòng tâm. Nghĩ như thế, thưởng phạt một phần nào cũng có ngay trong cuộc sống, và do chính mình tạo ra; thuyết nhà Phật gọi là "nhân quả."
Lẽ đương nhiên, không ai kết án con người mà chỉ kết án hành động của con người. Hành động có nhiều cách, nhiều lối từ lời nói đến mưu mô hoặc thực hành sự việc... Một lời nói thất đức, hại đến danh dự hay dèm pha xúi bẩy tạo cho người khác đi vào ngã chẳng nên có khi gây tổn hại gấp trăm ngàn lần những lỗi lầm vô ý. Ngược lại cũng một lời nói giúp cho người khác thăng tiến, sống tốt lành hơn, tạo nơi mình dầy đường tâm đức. Bình tâm nhận xét, tướng diện học có mục đích giúp mình tự nhận thấy những gì thiếu sót lo sao sống tốt lành hơn để tạo thêm tâm đức.
Như vậy, dẫu một người có tướng diện không hay, chẳng nên ca thán hoặc nghĩ mình bị mang số hẩm hiu; trái lại, nên nhớ câu "Đức năng thắng số." Chỉ có một con đường duy nhất để cải số là sống đức độ. Con người được sinh ra với tướng không tự mình lựa chọn nhưng cải tướng, chuyển số lại bởi tự chính mình. Nhận ra như thế, chẳng lạ gì, những ai "Gieo gió sẽ gặt bão" và đồng thời người nào "Trồng cây dâu ăn trái dâu." Đó cũng là lý do người xưa có nói "Người trồng cây cảnh người chơi, ta trồng cây đức để đời về sau." Người nhận ra tướng diện mình để tu thân chắc chắn không ai có thể "coi bói" hoặc "Trông mặt mà bắt hình dong" được nữa bởi đã tự cải số nên sinh ra "Tướng diện bất như tướng tâm."
Tuy nhiên, không phải vô lý mà có câu "Trông mặt bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon." Khi một người trong lòng vui tất nhiên mặt sẽ hiện lên nét vui tươi, cởi mở, hoặc trong lòng buồn, nét mặt trở thành lo âu sầu khổ. Cái lý của tướng diện cũng tương tợ như tâm lý để lộ qua hình hài, thái độ. Xét như vậy, nếu do tướng diện mà biết được tâm thì chắc chắn tâm ảnh hưởng tướng diện. Thế nên, muốn đổi tướng trước hết cần chuyển tâm; điều này chẳng có gì nghịch lý mà lại thuận theo nghĩa tương đồng vậy.
Hương Hoa Dân Việt Hương Hoa Dân Việt - Lã Mộng Thường Hương Hoa Dân Việt