Số lần đọc/download: 1723 / 10
Cập nhật: 2017-07-24 16:07:30 +0700
Chương XII
B
ốn chú cháu quay lại rồi rẽ vào khu rừng trúc. Một con suối nhỏ, nước rất trong, chảy lững lờ, làm những sợi rêu xanh bám vào những tảng đá xám hai bên bờ, nhảy múa nhịp nhàng. Ở giữa dòng, một bầy cá nhỏ chỉ bằng ngón tay út, ve vẩy vây và đuôi, miệng khẽ há ra, lặng lẽ bơi đứng. Gần như không có một tiếng động nào, báo hiệu sự có mặt của con suối, ở quãng rừng, có lẽ là đầu nguồn này. Bên kia suối, đã thấy những chiếc măng trúc non bị nhím ăn dở, chân chúng in lỗ chỗ như vết chân chuột. Những cây trúc vàng óng, vút cao, đã bắt đầu trổ hoa. Hoa trúc cứng và vàng, không có hương vị gì, vậy mà đâu đó, vẫn thoảng một mùi thơm nhẹ nhõm, xa ngái... Hương của rừng trúc tỏa ra, khi những chiếc lá dài và sắc của nó, chạm vào mùa thu...
Men theo bờ suối, lại vào cánh rừng thưa, ở độ cao khoảng hơn hai trăm mét. Trên cành cây, một cặp vợ chồng sóc, màu nâu xám, đang nhí nhoáy bới tìm, chợt thấy người, chúng vội lẩn vào phía sau thân cây, đánh rơi xuống trước mặt Nhụ những chiếc nấm mà chúng đang phơi dở. Những chú chim liếu điếu không biết nấp kín ở chỗ nào trong các vòm lá, bỗng kêu lên đồng loạt, giòn giã và rối rít.
- Nghỉ một chút, chú à. - Đức nói và nó vẫy tay cho con Róc, lúc ấy, đang nghiêng một bên chân đái vào búi cỏ để đánh dấu đường.
- Cháu cũng thấy mỏi giò lắm. Bơi trên biển hàng cây số, cháu không thấy mệt như phải leo rừng. - Ngạnh cởi cái áo may ô màu cháo lòng ra, rải xuống đất và nó nằm lên, mắt nheo nheo vì bất chợt gặp phải những tia sáng rọi xuống sau một vòm lá.
Chú Thuận ngồi xuống bên cạnh Nhụ, ngắt hai chiếc lá, đưa lên môi. Giai điệu quen thuộc của một khúc quân hành thời Trường Sơn đánh Mỹ, chợt vang lên réo rắt. Con Róc chạy lăng xăng, hết dũi đám lá mục này, lại hít gốc cây kia, dáng bận rộn tíu tít.
Nó vất vả lắm mới leo lên được một tảng đá, nghiêng ngó một hồi, rồi dỏng hai tai lên, cái mũ ông Công lại rơi xuống.
- Cróc! Cróc! Cróc!...
Đức ra nhặt cái mũ cho nó và chợt kêu lên:
- Ối!
Nhụ chạy đến thì thấy ngay trước mặt, vắt ngang lối đi, một con trăn đất đang nuốt một con chồn, sung sướng đến đờ đẫn cả mặt mũi.
Lên đến Miếu Ông Voi thì đã vàng mặt trời. Bốn chú cháu đứng trước một tảng đá xanh, rộng và nhẵn đến mức rêu không sao mọc được nữa. In lên bầu trời âm âm, vần vụ những đám mây màu lông chuột, là một cành đa khô khẳng, lởm chởm ngang dọc, như bộ sừng khổng lồ của con hươu thời cổ đại.
Dấu tích thời chiến trận còn để lại trên mặt đất những vũng tròn và nông, đổ gẫy những cành đa lớn, hàng người ôm, nứt toác vết bom chẻ.
- Miếu Ông Voi chỉ có thế này thôi ạ? - Nhụ hỏi chú Thuận.
- Chỉ có thế. Trước kia, cây đa cao lớn và xanh tươi lắm, vô hình trung đã là ngọn đèn biển cho những chiếc thuyền táo tợn nào đó của người dân chài dám coi khinh sóng dữ.
- Chú đã trông thấy cây đa ấy chứ!
- Cũng nghe các lão ngư nói thế. Chú đến đây, cây đa đã chết rồi.
- Thế còn miếu?
- Ấy là nói quá đi cho nó linh thiêng. Chứ ai lên đây thờ cúng mà có miếu.
- Vậy thì phải gọi là Miếu Cây Đa. Làm gì có Ông Voi. - Đức nói.
- Ông Voi là con cá Voi. Có thể nhìn từ một nơi nào đó, núi này giống như con cá Voi. Dân đi biển chỉ thờ một loại cá là cá Voi và gọi cá là Ông. Cá Voi rất to, thường cứu người dân chài khi bị hoạn nạn trên biển.
- Trời ơi! Thế sao Ông Voi lại không cứu mẹ và em cháu... - Ngạnh bỗng thốt lên, giọng chua xót và hờn dỗi.
Chú Thuận ớ ra một lúc, chưa biết trả lời thế nào. Sau này Ngạnh mới biết rằng, chính ông Voi cũng không cứu nổi chú Thuận trong một đêm giông...
Nhụ đứng ngây ra nhìn chú và trong khoảnh khắc ấy, một cảm giác vừa mới mẻ vừa xưa cũ, bỗng ập đầy tâm trí Nhụ. Ấy là cái cảm giác về sự thần bí trong rủi may của nghề biển, mà ông Nhụ đã truyền lại cho Nhụ vào những ngày lễ tết.