Love is as much of an object as an obsession, everybody wants it, everybody seeks it, but few ever achieve it, those who do will cherish it, be lost in it, and among all, never… never forget it.

Curtis Judalet

 
 
 
 
 
Tác giả: Jules Verne
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 53
Cập nhật: 2021-05-22 19:07:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17 - Chuẩn Bị Cho Mùa Đông Tới - Đề Nghị Của Briant - Briant, Jacques Và Moko Khởi Hành - Đi Thuyền Qua Hồ Gia Đình - Sông Đông - Một Cảng Nhỏ Ở Cửa Sông - Biển Ở Phía Đông - Jacques Và Briant - Trở Về Động Người Pháp
ám ngày sau là sang năm 1861. Ở phần đất này của Nam bán cầu, năm mới ở vào chính giữa mùa hè.
Thế là các nạn nhân trẻ tuổi của tàu Sloughi đã bị ném lên đảo này gần mười tháng, cách xa New Zealand một nghìn tám trăm dặm. Phải công nhận là hoàn cảnh của họ đã dần dần được cải thiện trong thời gian này. Thậm chí, dường như từ nay họ đã được đảm bảo, có thể đáp ứng mọi nhu cầu của đời sống vật chất. Nhưng đó vẫn là cảnh bơ vơ trên mảnh đất xa lạ! Họ chỉ còn trông chờ được vào sự giúp đỡ bên ngoài. Nhưng liệu cuối cùng thì sự giúp đỡ ấy có tới không? Liệu trại di thực có còn phải chịu đựng một mùa đông Nam cực khắc nghiệt thứ hai nữa không? Thật ra cho tới lúc này chưa xảy ra bệnh tật. Lớn cũng như bé đều khỏe mạnh trong chừng mực có thể. Đó là nhờ Gordon đã thận trọng, rất kiên quyết trong việc bảo vệ sức khỏe, dù cho đôi khi bị chỉ trích vì quá khắt khe, nên đã tránh được mọi chuyện dại dột quá đà. Dẫu sao cũng nên lưu ý là lứa tuổi các em, nhất là các em bé nhất cần được đối xử âu yếm. Tóm lại, nếu hiện tại là chấp nhận được thì tương lai vẫn đáng ngại. Briant không ngừng nghĩ cách rời khỏi đảo Chairman bằng mọi giá. Nhưng trong tay chỉ có chiếc xuồng mỏng manh, sao có thể liều lĩnh làm một chuyến vượt biển, có thể là dài nếu đảo này không thuộc một quần đảo nào trên Thái Bình Dương hoặc cách lục địa gần nhất hàng trăm dặm? Dẫu có vài ba người gan dạ nhất, tận tâm đi về hướng đông tìm đất thì liệu có cơ may thành công hay không? Còn như đóng một con tàu khá lớn có thể đi trên Thái Bình Dương thì sao? Không được, vì quá khả năng các cậu. Briant chẳng nghĩ ra cách gì để cứu cả bọn.
Vậy là phải chờ đợi, chờ đợi nữa và chỉ còn một điều phải làm là lao động để cho cuộc sống ở động Người Pháp dễ chịu hơn mà thôi. Việc cấp bách trong mùa hè này là phải chuẩn bị cho mùa rét sắp tới. Kinh nghiệm đã cho biết mùa đông ở vĩ độ cao khắc nghiệt đến mức nào. Trong mấy tuần, thậm chí mấy tháng liền, thời tiết xấu buộc mọi người phải tự giam mình trong động, nên khôn ngoan là phải có dự trữ để chống lại hai kẻ thù đáng sợ nhất là cái đói và cái rét.
Để chống lại cái rét trong động Người Pháp thì chỉ cần chất đốt, và mùa thu tuy ngắn ngủi nhưng trước khi kết thúc Gordon đã dự trữ đủ củi để các lò sưởi cháy suốt ngày đêm. Nhưng còn súc vật ở trại chăn nuôi thì sao? Đưa chúng vào nhà kho là điều không thể vì vừa phiền phức, vừa mất vệ sinh. Vậy là phải thiết kế cho chuồng một cái lò sưởi để giữ nhiệt độ ở mức các con vật nuôi có thể chịu đựng được. Việc này được giao cho Baxter, Service và Moko thực hiện trong tháng 1 của năm mới. Còn vấn đề không kém phần quan trọng là cái ăn trong suốt mùa đông thì do Doniphan và nhóm săn thú đảm nhiệm. Việc thăm các hố, bẫy, dò được thực hiện hằng ngày. Những thú săn được mà chưa ăn ngay thì Moko cẩn thận sấy hoặc ướp muối để dành trong kho bếp. Như vậy dù mùa đông khắc nghiệt đến đâu, việc cấp dưỡng vẫn được đảm bảo.
Tuy nhiên vẫn cần có một cuộc thám hiểm, không phải để khảo sát mọi miền chưa biết của đảo Chairman, mà chỉ phần phía đông hồ Gia Đình. Phía đó là rừng, là đầm lầy hay đụn cát? Có nguồn lợi gì để sử dụng? Một hôm Briant bàn chuyện này với Gordon, nhưng dưới một góc độ khác:
- Qua những gì ta biết thì bản đồ của François Baudoin là khá chính xác. Bây giờ ta phải tìm hiểu vùng phía đông. Chúng ta có những kính viễn vọng tốt mà ông ấy không có. Biết đâu ta chẳng thấy những dải đất mà ông không phát hiện được. Rất có thể đảo Chairman không cô độc ở vùng biển này như đã vẽ trên bản đồ.
- Cậu vẫn theo đuổi ý tưởng của mình và muốn ra đi lắm phải không? - Gordon hỏi.
- Đúng thế, Gordon ạ! Và mình tin thâm tâm cậu cũng vậy. Mọi cố gắng của chúng ta chẳng phải để hồi hương càng sớm càng tốt hay sao?
- Thôi được, - Gordon đáp - vì cậu vẫn giữ ý kiến ấy, chúng ta sẽ làm một cuộc khảo sát.
- Mọi người tham gia à? - Briant hỏi.
- Không, chỉ sáu hay bảy người thôi.
- Vẫn nhiều quá, Gordon ạ! Nhiều người thế thì chỉ đi quanh được phía bắc hoặc phía nam hồ thôi, lại có thể mất nhiều thời gian và quá vất vả nữa.
- Vậy ý cậu thế nào?
- Mình đề nghị dùng xuồng, từ động Người Pháp vượt qua hồ sang bờ bên kia và chỉ hai, ba người thôi.
- Ai lái xuồng?
- Moko, - Briant đáp, - chú ta biết điều khiển thuyền, mình cũng biết chút ít. Xuôi gió thì dùng buồm, ngược gió thì hai tay chèo sẽ dễ dàng vượt qua năm hay sáu dặm từ đây đến con sông đã vẽ trên bản đồ rồi xuôi dòng chảy qua khu rừng phía đông ra tới biển.
- Được, tán thành ý kiến của cậu. - Gordon đáp. - Vậy ai đi với Moko?
- Mình, Gordon ạ. Mình không tham gia chuyến thám hiểm phía bắc hồ. Nay đến lượt mình phải làm gì có ích, nên mình đòi hỏi…
- Có ích! - Gordon kêu lên - Cậu chẳng đã làm hàng nghìn việc có ích cho cả bọn ta hay sao? Briant thân mến, chẳng phải cậu đã tận tụy nhất đó ư? Mọi người phải cảm ơn cậu!
- Thôi, thôi, Gordon! Mọi người đều phải làm bổn phận của mình cả. Cậu nhất trí chứ?
- Nhất trí, Briant! Thế cậu lấy ai cùng đi? Mình không đề xuất Doniphan vì biết các cậu không hợp nhau.
- Ồ, mình vẫn sẵn sàng tiếp nhận cậu ấy! Tâm địa Doniphan không xấu, cậu ấy dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo, chỉ phải cái tính đố kị, chứ không thì là một bạn tốt. Dần dần cậu ấy sẽ thay đổi thôi. Rồi cậu ấy sẽ hiểu mình không phải là kẻ muốn chơi trội, muốn vượt lên trên mọi người đâu. Mình chắc chắn là hai đứa chúng mình sẽ trở thành đôi bạn tốt nhất trên đời. Tuy nhiên mình đã nghĩ đến một bạn đồng hành khác.
- Ai thế?
- Jacques, em mình. - Briant trả lời - Càng ngày mình càng lo ngại về tâm trạng của nó. Hiển nhiên là nó ân hận về một lỗi gì nghiêm trọng mà nó không muốn nói ra. Có thể trong chuyến đi này, chỉ có nó với mình…
- Có lí, Briant ạ! Cậu cứ đưa Jacques đi cùng và nên chuẩn bị ngay đi.
- Cũng chẳng lâu la gì đâu, - Briant đáp, - mình tính chỉ đi vài ba ngày.
Gordon thông báo về chuyến đi ngay hôm đó. Doniphan rất bực bội vì không được tham gia và phàn nàn với Gordon. Cậu này giải thích là với điều kiện thực hiện cuộc khảo sát chỉ cần ba người thôi và vì ý tưởng đó của Briant nên việc thực hiện thuộc về cậu ấy…
- Cuối cùng cái gì cũng chỉ dành cho hắn thôi, phải không Gordon?
- Cậu thật bất công, Doniphan ạ! Bất công với Briant, bất công cả với mình.
Doniphan thôi không nài nữa, ra nhập bọn với Wilcox, Cross, Webb, những bạn thân của cậu, để trút nỗi bất mãn của mình.
Khi biết sẽ tạm thời đổi nhiệm vụ bếp trưởng sang nhiệm vụ lái xuồng, Moko hài lòng ra mặt. Sự thích thú còn tăng gấp đôi vì đi với Briant. Service, người đương nhiên thay thế Moko trước bếp lò, cũng khoái chí không kém vì được làm món ăn theo ý thích riêng, không cần sự giúp đỡ của bất kì người nào. Còn Jacques, chú có vẻ cũng vừa ý vì được đi cùng anh và tạm xa động Người Pháp mấy hôm.
Xuồng được chuẩn bị sẵn sàng ngay. Moko buộc lá buồm nhỏ rồi quấn vào cột buồm. Hai súng trường, ba súng ngắn đạn dược đầy đủ, ba chăn du lịch, thức ăn, thức uống, áo mưa, hai mái chèo và một đôi dự bị là tất cả vật dụng cần thiết cho một chuyến thám hiểm ngắn ngày, cùng với một tấm bản đồ của François Baudoin để điền dần những tên sẽ đặt cho những phát hiện mới.
8 giờ sáng ngày 4 tháng 2, sau khi tạm biệt các bạn, Briant, Moko và Jacques xuống xuồng, từ bờ đê lạch Zealand. Thời tiết tốt, gió tây nam thổi nhẹ. Buồm căng lên. Moko ngồi đuôi xuồng cầm lái để Briant giữ dây lèo. Gió thổi nhẹ từng cơn, mặt hồ chỉ gợn lăn tăn, nhưng tác động rõ rệt đến xuồng. Ra xa bờ một chút, xuồng càng lướt nhanh. Nửa giờ sau, Gordon và các bạn khác ở bờ lạch bên Bãi Tập dõi theo chỉ thấy một chấm đen, chẳng bao lâu cũng mất hút.
Moko ở cuối xuồng, Briant ở giữa, Jacques ngồi đầu xuồng, dưới chân cột buồm. Những đỉnh cao của đồi Auckland vẫn còn trong tầm mắt suốt một giờ đầu, rồi thấp dần xuống chân trời. Bờ hồ bên kia hẳn chẳng xa mấy nữa mà vẫn chưa phát hiện được dấu hiệu gì. Khốn thay, như thường xảy ra khi trời nóng lên, gió yếu dần và đến trưa chỉ còn mấy cơn thoảng qua thất thường.
- Không may rồi, - Briant nói - gió chẳng chịu thổi nữa.
- Cậu Briant ạ! Nó mà thổi ngược lại thì còn không may hơn nữa! - Moko trả lời.
- Mày nói cứ như triết gia ấy, Moko!
- Cháu chẳng hiểu cậu nói thế nghĩa là thế nào - Chú thủy thủ học việc trả lời, - nhưng cháu có thói quen là dù điều gì xảy ra cháu cũng chẳng bực tức.
- À, thế thì đích thị là triết gia đấy.
- Thôi thì triết gia cũng được, cậu Briant ạ! Ta phải chèo thôi. Mong sao tới được bờ bên kia trước khi trời tối. Còn nếu không thì đành chịu vậy thôi.
- Được, tao một mái chèo, mày một mái chèo, còn Jacques cầm lái.
- Vâng, nếu cậu Jacques cầm lái vững thì ta đi đúng hướng thôi.
- Mày bảo tao cách lái thế nào, Moko ạ, - Jacques nói - tao sẽ cố làm theo thật đúng.
Vì gió đã lặng hẳn, buồm rũ xuống, Moko quấn lại. Cả ba ăn vội mấy miếng rồi Moko lên mũi đổi chỗ cho Jacques xuống cuối xuồng, Briant vẫn ngồi giữa. Xuồng lại lao đi hơi chếch về hướng đông theo la bàn, lúc này đang ở trên mặt nước mênh mông như giữa biển khơi. Đường chân trời là giới hạn giữa mặt nước và bầu trời. Jacques nhìn về hướng đông đã phát hiện bờ hồ đối diện với động Người Pháp.
Đến 3 giờ qua kính viễn vọng, Moko khẳng định đã thấy dấu hiệu của đất. Không lâu sau đó, Briant xác nhận Moko không lầm. Tới 4 giờ đã thấy những ngọn cây trên một bờ khá thấp - điều đó giải thích tại sao khi ở trên đỉnh Lầm Biển, Briant không nhìn thấy bờ này. Thế là đảo Chairman chẳng có đỉnh cao nào khác những đỉnh của dãy đồi Auckland trồi lên giữa vũng Sloughi và hồ Gia Đình.
Còn khoảng hai dặm rưỡi đến ba dặm là tới bờ. Briant và Moko ra sức chèo. Cũng hơi mệt bởi vì trời nóng. Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương. Nước hồ trong vắt, chốc chốc lại nhìn thấy đáy hồ sâu tới mười hai đến mười lăm bộ tua tủa dày những đám cỏ thủy sinh với những đàn cá đang tung tăng bơi lội.
Cuối cùng khoảng 6 giờ chiều thì xuồng tới bờ, ở đó có những cây sồi xanh, cây thủy tùng cành sum sê. Chỗ này bờ cao, khó lên, nên các cậu đi men ngược lên phía bắc gần nửa dặm.
- Kia là con sông đã vẽ trong bản đồ. - Briant vừa nói vừa chỉ vào một chỗ bờ mở ra thành cửa thoát nước của hồ.
Chú thủy thủ tập sự trả lời:
- Thế thì cháu nghĩ ta nên đặt cho nó một cái tên.
- Rất đúng, Moko ạ! Hãy gọi nó là sông Đông vì nó chảy về phía đông mà.
- Chính xác! - Moko nói - Bây giờ ta chỉ việc xuôi theo dòng sông Đông là ra tới biển.
- Mai ta sẽ làm thế. Còn bây giờ tốt hơn cả là ta nghỉ đêm tại đây, rồi sớm mai ta sẽ xuôi theo dòng nước để quan sát vùng này qua hai bờ sông.
- Ta lên bờ chứ? - Jacques hỏi.
- Hẳn rồi, ta sẽ nghỉ dưới tán cây. - Briant trả lời.
Cả ba lên bờ cuối một cái vụng nhỏ. Sau khi neo chắc xuồng vào một gốc cây, họ mang súng đạn và lương thực lên, đốt một đống lửa bên một cây sồi xanh, lấy bánh quy và thịt nguội ra ăn tối rồi trải chăn trên mặt đất. Chỉ cần có thế là các thiếu niên này đã có thể đánh một giấc ngủ ngon. Để đối phó với mọi biến cố, họ đã có súng nạp đạn sẵn. Lúc chập tối còn nghe thấy tiếng hú, nhưng suốt đêm lại bình yên vô sự. Briant thức giấc đầu tiên, đến 6 giờ sáng thì lên tiếng:
- Nào, lên đường!
Vài phút sau, cả ba ai đã vào chỗ nấy trên xuồng, để xuồng xuôi theo dòng chảy khá xiết vì nước triều đã xuống được nửa giờ rồi, không phải chèo. Briant và Jacques ngồi ở đầu xuồng, còn Moko dùng một mái chèo để lái xuồng theo cách chèo ngoáy. Chú nói:
- Nếu con sông này dài năm, sáu dặm thì có thể chỉ một con nước ròng là ta ra tới biển vì dòng chảy xiết hơn lạch Zealand.
- Mong là thế! - Briant trả lời - Lúc quay về có khi cần đến hai, ba lần con nước lên…
- Có thể thế thật, nếu cậu muốn thì ra tới biển ta sẽ trở lại ngay.
- Ừ, ta sẽ trở về sau khi quan sát xem có đất nào ở vùng biển phía đông hay không.
Trong khi đó, chiếc xuồng vẫn xuôi dòng, với tốc độ theo ước tính của Moko là khoảng một dặm trong một giờ. Thêm nữa, sông Đông gần như chảy thẳng hướng đông - đông bắc theo la bàn, lòng sông hẹp hơn lạch Zealand, chiều ngang chỉ khoảng ba mươi bộ nên chảy xiết hơn. Điều Briant lo ngại là sẽ có xoáy, có ghềnh, xuồng không xuôi thẳng ra biển được. Dù sao có trở ngại gì thì vẫn còn thời gian để xoay xở. Bây giờ đang ở trong đại ngàn, giữa một vùng dày đặc cây cối. Cây cối ở đây cũng từa tựa như trong rừng Hố Bẫy, có điều sồi xanh, sồi bần*, tùng và lãnh sam chiếm ưu thế hơn so với các loại cây khác. Mặc dầu không hiểu biết về thực vật học như Gordon, nhưng trong các loại cây cối ở đây, Briant cũng nhận ra một loài cây cậu từng thấy nhiều ở New Zealand, tán lá như một chiếc dù, cao tới sáu mươi bộ, quả treo đầu cành hình nón, dài ba, bốn pouce, đầu quả nhọn, vỏ như vảy xếp, bóng loáng. Cậu reo lên:
Sồi bần (chêne-liège): một giống sồi vỏ dày, nhẹ và không thấm nước gọi là li-e (liège), dùng làm nút chai, phao…
- Kia chắc là cây thông lọng.
- Cậu Briant! - Moko nói - Nếu cậu không lầm thì ta dừng lại cũng bõ công đấy.
Ngoáy chèo một cái, chiếc xuồng đã quay mũi vào bờ trái. Briant và Jacques nhảy lên, mấy phút sau mang xuống khá nhiều quả. Mỗi quả có một nhân hình bầu dục, bọc trong màng mỏng và thon như hạt dẻ. Một phát hiện quý cho những tay tham ăn ở trại di thực và như sau này Gordon cho biết, quả thông lọng chứa một loại dầu thượng hạng.
Còn phải xem rừng này có sẵn thú săn như các khu rừng phía tây không. Hẳn là có vì Briant đã nhìn thấy một đàn nandu và vicuña hoảng sợ chạy giữa những bụi rậm, cả một đôi guanaco vút qua rất nhanh. Về khoản chim chóc, nếu Doniphan mà ở đây thì thế nào cậu ta cũng nổ mấy phát súng ngon lành. Còn Briant không muốn lãng phí thuốc đạn, thức ăn trên xuồng đủ rồi.
Khoảng 11 giờ thì rừng bớt rậm rạp hẳn. Ở vài khoảnh rừng thưa, mặt đất thoáng hơn, cùng lúc gió đượm mùi mằn mặn, báo hiệu đã ra tới gần biển. Ít phút sau, phía ngoài một khóm sồi xanh tuyệt đẹp, một vạch biêng biếc hiện ra ở chân trời. Dòng nước vẫn đẩy xuồng đi tuy có chậm hơn. Lòng sông bây giờ đã rộng ra tới bốn, năm mươi bộ, sắp chịu tác động của sóng biển rồi. Tới mấy tảng đá dựng đứng trên bờ, Moko cho xuồng ghé sang trái rồi mang neo móc cắm chặt xuống cát. Hai anh em Briant cũng lần lượt lên bờ.
Quang cảnh nơi đây khác hẳn bờ đảo phía tây. Có cả một vũng biển sâu ngang tầm với vũng Sloughi, nhưng thay vì bãi cát rộng, có dải đá ngầm giăng hàng chắn phía ngoài, phía trong có vách đá cao, thì ở đây lại có những khối đá hỗn độn mà Briant cho rằng có thể tìm ở mỗi khối tới vài mươi hang động, điều này ngay sau đó đã được kiểm chứng là đúng.
Rõ ràng bờ biển này là nơi cư trú rất tốt. Nếu du thuyền mắc cạn ở nơi đây rồi thoát ra được thì có thể vào trú ở cửa sông như một bến cảng tự nhiên, cả lúc nước ròng cũng đủ độ sâu.
Thoạt tiên, Briant nhìn ra khơi, tận chân trời của cái vũng biển lớn này. Nó mở ra theo hình cánh quạt rộng khoảng mười lăm dặm giữa hai mũi cát, có gọi là vịnh cũng xứng đáng. Vũng lúc này hoang vắng, và hẳn thường vẫn thế. Không có bóng dáng tàu thuyền nào, kể cả ở đường chu vi rất rõ nét trên nền trời, một dải đất, một hòn đảo cũng không có. Moko vẫn quen nhận ra những điểm cao ở rất xa, dễ lầm với những đám hơi nước ngoài biển khơi, thế mà chú ta nhìn qua kính viễn vọng cũng không phát hiện được gì. Dường như ở phía đông, đảo Chairman cũng cô quạnh như ở phía tây, thế là đã rõ vì sao trên bản đồ của nạn nhân người Pháp không vẽ một dải đất nào ở phía này.
Sẽ là phóng đại nếu bảo Briant rất chán ngán. Không! Cậu đã lường trước điều này, vì thế cậu chỉ đơn giản đặt tên nơi đây là vũng Ảo Tưởng. Cậu nói:
- Thôi, nơi này chưa phải là đường trở về quê hương chúng ta.
- Cậu Briant, - Moko đáp - người ta vẫn cứ về được, chẳng bằng đường này thì bằng đường khác. Trong khi chờ đợi, ta ăn sáng cái đã.
- Được, nhưng phải nhanh lên. - Briant nói - Liệu chừng đến mấy giờ thì ta ngược sông Đông được?
- Nếu muốn lợi dụng thủy triều thì phải xuống xuồng ngay.
- Không được, Moko ạ. Ta cần quan sát chân trời trong điều kiện thuận lợi hơn, trên đỉnh khối đá cao nhất ở đây.
- Thế thì ta phải đợi con nước sau, sớm ra cũng phải tới 10 giờ đêm.
- Mày có dám lái xuồng ban đêm không? - Briant hỏi.
- Cháu lái được, có nguy hiểm gì đâu. - Moko trả lời - Bây giờ đang giữa tuần trăng tròn, hơn nữa dòng sông này thẳng, chỉ cần lái chèo ngoáy khi con triều lên, rồi khi triều xuống thì ta chèo tay hoặc nước xiết quá thì ta dừng lại chờ đến sáng.
- Tốt lắm, ta cứ làm thế. Còn đợi những mười hai giờ, ta nên tận dụng để khảo sát nơi này kĩ hơn.
Sau bữa ăn sáng cho tới trước bữa ăn chiều các cậu tìm hiểu phần bờ biển có rừng cây che phủ ra sát các khối đá. Thú săn cũng sẵn như vùng kế cận và Briant tự cho phép bắn mấy con tinamou để ăn bữa chiều.
Đặc điểm của bờ biển này là các khối đá granite đồ sộ chồng hỗn độn với nhau - một quảng trường Karnak* nhưng không phải do bàn tay con người sắp đặt. Trong những khối đá ấy có những hang sâu dễ dàng bố trí thành chỗ ở được. Không thiếu nơi có thể làm sảnh, làm kho cho trại di thực nhỏ bé. Chỉ trong vòng nửa dặm, Briant đã tìm thấy cả một tá hang động rất tiện lợi.
Karnak: một ngôi làng thuộc thành Thèbes của Ai Cập cổ đại, nơi có những di tích tôn giáo nổi tiếng.
Vì thế cậu tự hỏi vì sao nạn nhân người Pháp không chọn chỗ ở này. Những nét vẽ chính xác trên bản đồ chứng tỏ chắc chắn ông đã từng tới đây. Sở dĩ không thấy dấu vết gì lưu lại nơi này hẳn là vì ông ta đã tìm ra động Người Pháp trước, thấy có thể tránh được bão tố từ biển thổi vào nên đã định cư ở đó, rồi sau mới khảo sát bờ biển phía đông này. Tự giải thích như thế, Briant cho là có thể chấp nhận được.
Vào khoảng 2 giờ chiều, khi mặt trời đã qua thiên đỉnh cũng là lúc thuận lợi nhất để quan sát biển khơi. Cả ba người cố trèo lên một khối đá hình thù như một con gấu kếch sù, cao khoảng một trăm bộ so với cảng nhỏ và leo lên tới đỉnh cũng khá khó khăn. Từ đó quay về phía sau, tầm nhìn bao quát cả một vùng rừng bao la trải mãi về phía tây, nơi có hồ Gia Đình bị màn cây xanh che khuất. Nhìn sang phía nam thấy nhấp nhô những đụn cát màu vàng nhạt, cách quãng lại có những rừng lãnh sam xanh đen, giống như những miền khô cằn ở Bắc bán cầu. Đầu vòng cung về bên phải phía bắc là một mũi đất thấp, làm ranh giới cho một bình nguyên cát mênh mông xa tắp. Tóm lại, đảo Chairman chỉ có phần ở giữa là thực màu mỡ do được tưới bằng nước ngọt của hồ Gia Đình qua các dòng chảy ở hai bờ.
Briant nhìn về phía đông, chân trời hiện ra thật rõ nét. Mọi đất đai, nếu có, trong bán kính bảy, tám dặm ắt phải lọt vào vật kính của dụng cụ nhìn xa này. Nhưng chẳng có gì… chỉ có mặt biển bao la tận cùng là đường chân trời không đứt đoạn!… Sau một giờ liền quan sát về phía này, cả ba sắp sửa quay xuống thì Moko kéo Briant lại.
- Đằng kia có cái gì ấy! - Chú vừa nói vừa chỉ về phía đông bắc.
Briant chĩa ống kính về hướng đó. Đúng là cao hơn chân trời một chút có một vệt trăng trắng lấp lánh, mắt nhìn có thể cho là đám mây, nhưng lúc này trời tuyệt đối trong trẻo. Hơn nữa, quan sát lâu qua ống kính, Briant thấy vệt ấy không di chuyển và hình dáng cũng không thay đổi. Cậu nói:
- Mình không hiểu đó là cái gì. Phải chăng là núi? Nhưng núi thì bề ngoài không thể như thế.
Mấy lúc sau, mặt trời xế thấp nữa về phía tây, vệt trắng biến mất. Liệu đó có phải là một chỗ đất cao hay màu trắng ấy chỉ là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời? Giả thiết sau được Moko và Jacques chấp nhận còn Briant vẫn chưa hết nghi vấn.
Khảo sát xong, ba người trở lại cảng nhỏ, nơi chiếc xuồng đang neo đậu. Jacques nhặt củi khô dưới các gốc cây, nhóm lửa, còn Moko thì chuẩn bị quay tinamou. Khoảng 7 giờ, sau bữa ăn ngon miệng, Briant và Jacques đi dạo trên bãi biển đợi thủy triều xuống, còn Moko thì lên bờ sông bên trái nhặt thêm quả thông lọng. Khi chú quay lại cửa sông thì trời bắt đầu tối. Ở ngoài khơi, mặt biển còn phản chiếu những tia sáng mặt trời cuối cùng, nhưng trong bờ thì đã nhá nhem tối. Chú về tới chỗ xuồng đậu thì anh em Briant vẫn chưa quay lại. Họ không đi dạo xa, chẳng có gì đáng ngại. Nhưng chú rất ngạc nhiên khi nghe thấy những tiếng nức nở và những tiếng quát to, đúng là giọng của Briant, chú không thể lầm được. Có phải anh em họ gặp chuyện nguy hiểm gì chăng? Không lưỡng lự, Moko phóng về phía bãi cát sau khi vòng qua khối đá cuối cùng che khuất cảng. Đột nhiên, chú trông thấy một cảnh buộc chú phải dừng lại. Jacques đang quỳ gối trước Briant… hình như cậu ta đang van nài, xin tha thứ. Những tiếng nức nở lọt vào tai Moko chính là từ đó phát ra. Chú định ý tứ rút lui… nhưng đã quá muộn… chú đã nghe hết và hiểu hết! Bây giờ chú đã biết lỗi mà Jacques vừa thú nhận với anh mình. Briant quát:
- Đồ khốn!… Sao? Chính mi… mi đã làm điều đó!… Mi là nguyên nhân…
- Xin lỗi… anh… xin lỗi…
- Và vì thế mà mi xa lánh các bạn!… Vì thế mà mi sợ họ… À! Mong sao họ không bao giờ biết chuyện này! Không!… Không nói gì hết… không một lời nào… với bất cứ ai!
Moko sẵn sàng trả giá cao để không biết bí mật này. Nhưng giả vờ là không biết thì chú không đành lòng với Briant. Lúc sau, khi chỉ có mình với Briant bên chiếc xuồng, chú nói:
- Cậu Briant, cháu đã nghe hết…
- Sao? Mày đã biết là Jacques…?
- Vâng, cậu Briant… phải tha thứ cho cậu ấy…
- Liệu những người khác có tha thứ không?
- Có thể, - Moko trả lời - dù sao họ không biết thì hay hơn. Cậu hãy tin rằng cháu sẽ kín tiếng.
- Ôi, Moko đáng quý! - Briant nói nhỏ và nắm chặt tay chú thủy thủ tập sự.
Suốt hai giờ từ đó đến lúc bước xuống xuồng, Briant không nói với Jacques một lời nào. Còn cậu bé thì ngồi dưới chân một khối đá, ủ rũ hơn sau khi đã thú lỗi với anh trai.
Đến 10 giờ đêm, nước bắt đầu lên. Briant, Jacques và Moko, ai về vị trí nấy trên xuồng. Neo vừa nhổ, nước đã nhanh chóng đẩy thuyền đi. Sau khi mặt trời lặn một chút thì trăng lên, đủ sáng để lái xuồng trên dòng sông Đông. Đến 12 giờ 30, nước triều bắt đầu xuống, buộc phải chèo tay, cả tiếng đồng hồ không đi nổi một dặm. Briant cho dừng lại đợi con nước sáng. Tới 6 giờ họ lại lên đường và đến 9 giờ họ đã ở trên mặt hồ Gia Đình. Moko căng buồm lên hứng gió thổi ngang, hướng về động Người Pháp. Đến 6 giờ chiều thì hoàn tất cuộc vượt hồ. Garnett đang câu cá ở bờ hồ thông báo với các bạn đã thấy xuồng về. Trong suốt hành trình, hai anh em Briant không ai nói với ai một lời. Một lúc sau, xuồng đã cập vào bờ đê và Gordon mừng rỡ đón các bạn trở về.
Hai Năm Trên Hoang Đảo Hai Năm Trên Hoang Đảo - Jules Verne Hai Năm Trên Hoang Đảo