Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 17 - Những Phù Thuỷ
L
yra rên rỉ và run lên một cách vô thức, như thể cô vừa được vớt lên từ mặt nước lạnh giá đến nỗi trái tim cô gần như đóng băng. Pantalaimon nằm áp vào da thịt cô, phía trong lớp áo, nhưng vẫn để ý bà Coulter đang pha thứ nước gì đó, và theo sát con khỉ vàng với những móng vuốt cứng nhọn hối hả vuốt khắp người Lyra, lần xung quanh bụng cô chỗ đeo chiếc túi với các thứ bên trong.
“Ngồi lên nào, cưng, và uống thứ này đi.” Bà Coulter nói, cánh tay dịu dàng của bà luồn quanh lưng Lyra đỡ cô ngồi dậy.
Lyra nghiến răng lại nhưng lập tức thư giãn khi Pantalaimon dùng ý nghĩ nói với cô: chúng ta sẽ chỉ an toàn cho đến khi vẫn còn giả vờ. Cô mở mắt và nhận thấy nó vẫn còn ngấn nước, cô khóc thổn thức trước sự ngạc nhiên và xấu hổ của mình.
Bà Coulter xuýt xoa an ủi và đặt cốc nước vào tay con khỉ trong khi lau mắt cho Lyra bằng chiếc khăn tay sức nước hoa.
“Hãy khóc thoả thích, bé yêu,” giọng nói êm dịu cất lên, Lyra quyết tâm dừng lại ngay khi cô có thể. Cô cố cầm nước mắt và cắn chặt hai môi lại, cô ghìm nén tiếng thổn thức vẫn đang làm ngực cô phập phồng lên xuống.
Pantalaimon lại tiếp tục: hãy đánh lừa họ, hãy đánh lừa họ. Nó biến thành con chuột, bò khỏi tay Lyra để khẽ đánh hơi vào cốc đồ uống con khỉ đang bê. Nó không có độc: một cốc nước hãm hoa cúc La Mã, ngoài ra không có gì khác. Nó bò trở lại vai Lyra, thì thầm: “Uống đi.”
Cô ngồi dậy và cầm cốc đồ uống nóng bằng cả hai tay, vừa nhấp từng ngụm nhỏ vừa thổi cho nguội. Cô nhìn xuống. Cô cần phải giả bộ cứng rắn hơn bất cứ lúc nào trong đời mình.
“Lyra, cưng,” bà Coulter thì thầm, vuốt tóc cô, “ta nghĩ chúng ta đã mất cháu mãi mãi! Chuyện gì đã xảy ra vậy? Cháu bị lạc phải không? Có phải người nào đó đã đưa cháu ra khỏi căn phòng phải không?”
“Vâng,” Lyra thì thầm.
“Ai thế, cháu yêu?”
“Một người đàn ông và một người đàn bà.”
“Những vị khách trong bữa tiệc phải không?”
“Cháu nghĩ thế, họ nói bà cần thứ gì đó ở dưới nhà và cháu đi xuống dưới rồi họ chộp lấy cháu và đưa cháu vào một chiếc xe đỗ đâu đó. Nhưng khi họ dừng lại, cháu chạy nhanh ra ngoài và lẩn đi khiến họ không bắt được cháu. Nhưng cháu không biết mình đang ở đâu…”
Một cơn thổn thức nữa làm cô khẽ rùng mình, nhưng cơn thổn thức giờ đã nhẹ nhàng hơn, và cô có thể giả vờ, lần này cô khóc vì câu chuyện của mình.
“Rồi cháu chỉ lang thang cố tìm đường về, rồi những tên Gà trống tây đã bắt cháu… Rồi họ cho cháu vào một chiếc xe tải với những đứa trẻ khác và đưa đi đâu đó, một toà nhà lớn, cháu không biết nó ở đâu.”
Mỗi giây qua đi, với mỗi câu cô nói, cô cảm thấy chút sức mạnh đang trở lại. Giờ đây cô đang làm vài thứ khó khăn nhưng quen thuộc và không bao giờ có thể dự đoán trước, gọi là nói dối, cô lại cảm thấy tự chủ, cảm giác pha trộn giữa phức tạp và chế ngự mà Chân-kế mang lại cho cô. Cô phải thật thận trọng và không nói điều gì quá vô lý; cô phải mập mờ ở chỗ này và tạo ra những chi tiết có vẻ đáng tin cậy ở chỗ kia; trong chừng mực nào đó, cô phải là một nghệ sĩ.
“Họ giữ cháu trong toà nhà đó bao lâu?” Bà Coulter hỏi.
Chuyến đi của Lyra dọc những kênh đào và thời gian ở cùng những người Gypsy đã mất hàng tuần: cô phải tính toán thời gian đó. Cô bịa ra một chuyến đi biển đến Trollesund cùng bọn Gà trống tây, rồi một cuộc đào tẩu, thêm những chi tiết quan sát thấy trong thành phố, một khoảng thời gian hầu bàn chạy việc lặt vặt ở Quán rượu Einarsson, tiếp đến là khoảng thời gian ngắn làm việc cho một gia đình nông dân, rồi bị người Samoyed bắt và đưa đến Bolvangar.
“Và họ đã định… đã định cắt…”
“Suỵt, cưng, suỵt. Ta sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra”
“Nhưng tại sao họ lại định làm như vậy? Cháu chẳng bao giờ làm việc gì xấu cả! Tất cả bọn trẻ con đều sợ hãi trước những gì đang xảy ra ở đây, và không ai biết đó là chuyện gì… tại sao họ lại làm như vậy, bà Coulter? Tại sao họ lại độc ác như vậy?”
“Phải. Phải… Cháu sẽ được an toàn, cưng của ta. Họ sẽ không bao giờ làm như vậy với cháu. Giờ thì ta đã biết cháu đang ở đây, và cháu được an toàn, cháu sẽ không bao giờ còn gặp nguy hiểm nữa. Sẽ không có ai làm cháu đau được đâu.”
“Nhưng họ làm như thế với những đứa trẻ khác! Tại sao vậy?”
“À, cháu yêu…”
“Đó là Bụi, phải không?”
“Họ nói với cháu như vậy phải không? Có phải các bác sĩ nói thế không?”
“Bọn trẻ biết điều đó. Tất cả các đứa trẻ đều bàn tán về nó, nhưng không người lớn nào biết cả! Họ gần như đã làm thế với cháu—bà phải nói cho cháu biết! Bà không có quyền giữ bí mật về chuyện này nữa, không một phút nào nữa!”
“Lyra… Lyra, Lyra. Cháu yêu, có rất nhiều khái niệm khó hiểu, Bụi và các thứ khác nữa. Đó không phải là điều bọn trẻ cần lo lắng. Nhưng những bác sĩ làm điều này vì lợi ích của chính những đứa trẻ, cháu yêu của ta ạ. Bụi là thứ gì đó xấu xa, sai lầm, tội lỗi và nguy hại. Những người trưởng thành và nhân tính của họ bị nhiễm phải Bụi sâu đến mức đã là quá muộn đối với họ. Họ không thể được cứu giúp nữa… Nhưng chỉ cần một phẫu thuật nhanh chóng là chúng đã được an toàn khỏi nó. Bụi sẽ không bao giờ còn bám lên người chúng nữa. Chúng sẽ an toàn, hạnh phúc và…”
Lyra nghĩ đến Tony Makarios bé bỏng. Cô đột ngột nhoài người về phía trước và nôn oẹ. Bà Coulter lùi lại phía sau.
“Cháu ổn chứ, cưng? Hãy vào phòng tắm…”
Lyra cố nuốt vào và dụi mắt.
“Bà không cần thiết phải làm thế với chúng cháu,” cô nói. “Bà có thể thả chúng cháu ra. Cháu cá là Ngài Asriel sẽ không để cho bất cứ ai làm việc đó nếu biết chuyện gì đang xảy ra. Nếu ông ấy có Bụi, bà có Bụi và ông Hiệu trưởng Jordan cùng tất cả những người trưởng thành khác đều có Bụi, chắc chắn nó phải tốt. Khi ra khỏi đây cháu sẽ nói cho toàn bộ những đứa trẻ trên thế giới biết về nó. Hơn nữa, nếu việc làm này thực sự tốt đến thế, bà nên để họ thực hiện với cháu. Đáng lẽ bà phải vui mới phải.”
Bà Coulter lắc đầu và mỉm cười một nụ cười buồn bã và hiểu biết.
“Cưng ơi,” bà nói, “một số điều tốt vẫn làm chúng ta đau đớn, và nó đương nhiên sẽ làm những người khác lo ngại nếu cháu lo ngại… Nhưng điều này không có nghĩa con nhân tinh của cháu bị mang đi khỏi cháu. Nó vẫn ở đó. Tin ta đi, nhiều người trưởng thành ở đây đã làm phẫu thuật. Các y tá có vẻ vẫn khá là hạnh phúc, đúng vậy không?”
Lyra chớp mắt. Đột nhiên cô hiểu ra sự thờ ơ trống rỗng thường trực của chúng, cái cách những con nhân tinh bé nhỏ của họ đi thong dong như bị mộng du.
Cô không nói gì cả, suy nghĩ, và ngậm chặt miệng lại.
“Cưng ơi, chưa có ai từng mơ đến việc thực hiện một phẫu thuật trên người đứa trẻ mà không thử nghiệm trước. Hàng nghìn năm nay, chưa ai có thể mang nhân tinh của một đứa trẻ đi! Tất cả những điều xảy ra chỉ là một vết cắt nhỏ, và rồi tất cả mọi chuyện sẽ yên ổn. Vĩnh viễn! Cháu thấy đấy, con nhân tinh của cháu là một người bạn, một người bạn trung thành tuyệt vời khi cháu còn nhỏ, nhưng ở độ tuổi dậy thì, độ tuổi cháu sắp trải qua, cưng ạ, những con nhân tinh mang lại mọi ý nghĩ và cảm giác rắc rối, đó chính là cái giúp Bụi chen vào. Một phẫu thuật nhỏ nhanh chóng trước lúc đó, cháu sẽ không còn gặp rắc rối kiểu đó nữa. Con nhân tinh vẫn ở lại với cháu, chỉ… chỉ có điều là không có liên hệ. Giống như một… như một con vật yêu tuyệt vời, nếu cháu thích thế. Con vật yêu ngoan ngoãn nhất trên đời! Cháu không thích như vậy sao?”
Ôi, một kẻ nói dối độc ác nhất, ôi, điều dối trá đáng xấu hổ nhất mà bà ta từng nói! Và thậm chí dù Lyra không biết đó là những lời dối trá (về Tony Makarios, những con nhân tinh bị giam trong lồng) cô cũng vô cùng căm ghét những lời nói đó. Tâm hồn yêu thương của cô, người bạn trung thành thân thiết trong trái tim cô, bị tách ra và chỉ còn là một con vật đáng yêu quanh quẩn quanh chân? Lyra gần như muốn nổ tung vì căm ghét, Pantalaimon đang nằm trong tay cố biến thành con chồn pu-toa, con vật xấu xí và độc ác nhất trong các hình thù nó từng biến ra rồi gầm gừ.
Nhưng họ không nói gì cả, Lyra ôm chặt Pantalaimon và để bà Coulter vuốt tóc cô.
“Hãy uống nước hoa cúc La Mã của cháu đi.” Bà Coulter nhẹ nhàng nói, “Chúng ta sẽ bảo họ chuẩn bị giường ngủ cho cháu tại đây. Không cần thiết phải quay về ngủ chung với các bạn gái khác, khi mà giờ đây ta đã tìm lại được người trợ lý của mình. Cô bé yêu quý của ta! Người trợ lý tốt nhất trên đời. Cháu biết không cưng, chúng ta đã tìm cháu khắp cả London? Chúng ta yêu cầu cảnh sát tìm kiếm tất cả các thị trấn trong vùng. Ôi, ta đã nhớ cháu rất nhiều và ta không thể nói cho cháu hiểu ta hạnh phúc đến thế nào khi tìm lại được cháu đâu…”
Suốt quãng thời gian đó, con khỉ vàng cứ bồn chồn không yên. Lúc thì nó nằm trên bàn ve vẩy đuôi, lúc lại bám dính lấy bà Coulter và kêu khe khẽ vào tai bà, lúc lại chạy vòng quanh phòng với chiếc đuôi dựng ngược. Tất nhiên nó đã làm bại lộ sự sốt ruột của bà Coulter. Cuối cùng bà ta không thể giữ nó được trong lòng nữa.
“Lyra, cưng,” bà ta nói, “Ta nghĩ ông Hiệu trưởng Jordan đã đưa cháu thứ gì đó trước khi cháu đi, phải vậy không? Ông ấy đã đưa cháu chiếc Chân-kế. Rắc rối là ở chỗ, ông ta không có quyền đưa nó cho ai cả. Nó được giao lại cho ông ấy cất giữ. Nó thực sự quá quý giá để mang ra ngoài—cháu biết đấy, nó là một trong hai hay ba cái duy nhất trên thế giới! Ta nghĩ ông Hiệu trưởng đưa nó cho cháu với hi vọng nó sẽ rơi vào tay ngài Asriel. Ông ấy bảo cháu không được để ta biết, đúng không?”
Lyra mím chặt môi.
“Được, ta hiểu mà. Thôi, đừng lo, cưng, về chuyện cháu đã không nói với ta. Như thế là cháu đã không nuốt lời hứa với bất cứ người nào. Nhưng nghe này, cưng, nó thực sự cần được trông non cẩn thận, ta lo là nó quá quý hiếm và dễ vỡ tới mức chúng ta không thể để nó chịu rủi ro lâu hơn nữa.”
“Tại sao lại không nên để ngài Asriel có được nó?” Lyra nói, không động đậy.
“Vì điều ông ấy đang làm. Cháu biết ông ấy đã bị đưa đi đày, vì trong đầu óc ông ta có những tư tưởng nguy hiểm và tội lỗi. Ông ấy cần Chân-kế để hoàn thành kế hoạch của mình, nhưng tin ta đi, cưng, điều cuối cùng bất cứ ai có thể làm là để ông ấy có được nó. Ông Hiệu trưởng Jordan đã sai lầm một cách đáng buồn. Nhưng giờ thì cháu biết rồi đấy, sẽ tốt hơn nếu để ta giữ nó, phải không nào? Nó sẽ giúp cháu thoát khỏi những rắc rối khi mang nó đi khắp mọi nơi, và lúc nào cũng canh cánh lo cách trông giữ nó. Chắc nó phải là một gánh nặng lớn, không hiểu một thứ cổ lỗ ngớ ngẩn như thế lại có tác dụng với…”
Lyra tự hỏi không hiểu sao cô từng có lúc thấy người phụ nữ này là thú vị và thông minh.
“Vì thế nếu bây giờ cháu đang giữ nó, cháu yêu ạ, sẽ thực sự tốt hơn nếu cho cháu nếu để ta giữ nó. Nó ở trong chiếc túi quanh bụng cháu, phải không? Ừ, làm thế là thông minh đấy, khi giấu nó đi như thế…”
Bà ta luồn tay quanh váy Lyra và tháo chiếc túi vải dầu cứng đơ ra. Lyra vô cùng căng thẳng. Con khỉ vàng đang nằm ở cuối giường, run lên vì hồi hộp, hai bàn tay màu đen cho lên mồm. Bà Coulter rút chiếc bao lưng ra khỏi người Lyra và mở ra. Bà ta đang thở gấp. Bà ta mang cái gối bọc vải nhung và tháo ra, thấy chiếc hộp thiếc nhỏ Iorek Byrnison đã làm.
Pantalaimon biến lại thành con mèo, nó căng thẳng đến mức không thể nhảy lên được. Lyra đưa chân ra xa khỏi bà Coulter đặt chân xuống sàn nhà để có thể chạy đi khi có cơ hội.
“Cái gì thế này?” Bà Coulter hỏi, có vẻ rất thích thú. “Một chiếc hộp cũ trông buồn cười quá! Cháu cho nó vào trong này để giữ cho nó an toàn phải không, cưng? Cả những thứ rong rêu này nữa… cháu đã rất cẩn thận, đúng không? Một chiếc hộp nữa, bên trong cái hộp kia! Hàn kín lại nữa! Ai làm vậy, cưng?”
Bà ta quá sốt ruột muốn mở ra nên không đợi câu trả lời. Bà ta có một con dao trong túi xách tay có kèm theo rất nhiều công dụng khác, bà ta kéo ra một lưỡi dao và cắm nó vào nắp hộp.
Ngay lập tức tiếng vù vù tràn ngập căn phòng.
Lyra và Pantalaimon ôm nhau đứng yên. Bà Coulter, luống cuống, tò mò, kéo mạnh nắp hộp, con khỉ vàng cúi người gần hơn để nhìn.
Rồi trong khoảnh khắc bóng đen của sinh vật do thám lao ra khỏi chiếc hộp, đâm mạnh vào mặt con khỉ.
Họ hét lên, giật người về phía sau, và tất nhiên việc này cũng làm bà Coulter bị đau. Bà ta hét lên đau đớn, hoảng sợ cùng con khỉ, rồi con quỷ nhỏ lao vào bà ta, leo lên ngực, cổ họng rồi lên mặt.
Lyra không chần chừ một giây. Pantalaimon nhảy ra cửa chính, Lyra theo phía sau, cô mở tung cửa và chạy nhanh hơn bất cứ lúc nào trong đời trước đây.
“Chuông báo cháy!” Pantalaimon kêu rít lên và bay lượn trên đầu cô.
Cô nhìn thấy một cái nút ở góc đường tiếp theo, đập vỡ lớp kính bảo vệ bên ngoài bằng một nắm đấm. Cô tiếp tục chạy, hướng về phía các ký túc xá, phá tung một chuông báo khác và mọi người bắt đầu chạy ra các hành lang, nhìn trước nhìn sau tìm chỗ cháy.
Lúc này cô đã ở gần nhà bếp. Pantalaimon truyền vào đầu cô một ý nghĩ, và cô lao đi. Một lúc sau cô đã bật tất cả vòi gas và bật một que diêm ném vào chiếc đèn gần nhất. Rồi cô giật một túi bột mì trên giá và ném mạnh nó vào cạnh bàn làm chiếc túi vỡ toạc ra, lấp đầy không khí thứ bột trắng, vì cô nghe nói bột mì sẽ gây nổ khi để cạnh lửa.
Cô chạy ra ngoài thật nhanh về ký túc xá của mình. Các hành lang đã chật ních người: những đứa trẻ chạy ngược chạy xuôi, đầy phấn khích, vì từ “trốn thoát” đã được truyền đi. Đứa trẻ lớn tuổi nhất đang đến nhà kho nơi quần áo được cất giữ và đưa những đứa nhỏ hơn đi cùng. Người lớn đang cố gắng mọi cách điều khiển, không ai trong số họ hiểu chuyện gì đang xảy ra. Người ta la hét, xô đẩy, kêu gào, chen lấn khắp mọi nơi.
Lyra và Pantalaimon luồn qua đám người như những con cá, hướng về phía ký túc xá, và vừa lúc họ đến được đó, một tiếng nổ vang lên ở phía sau làm rung chuyển cả toà nhà.
Những cô gái khác đã chạy ra ngoài, căn phòng trống trơn. Lyra đẩy chiếc tủ két vào góc phòng, nhảy lên, lôi đống quần áo ra khỏi trần nhà, kiểm tra chiếc Chân-kế. Nó vẫn còn ở đó. Cô nhanh chóng khoác áo ấm lên người, đội mũ chùm lên đầu, rồi Pantalaimon, biến thành một con vẹt đậu trước cửa, gọi:
“Được rồi đấy!”
Cô chạy ra ngoài. Thật nhanh chóng có một đám trẻ đã tìm thấy áo ấm đang chạy qua hành lang ra cửa chính, cô hoà vào đó, mồ hôi túa ra, trái tim cô đập thình thịch, cô hiểu rằng mình phải trốn thoát hoặc là chết.
Đường đi đã tắc nghẽn. Ngọn lửa trong gian bếp lan ra nhanh chóng, khí gas hay bột mì, hay một thứ gì đó đã làm một mảng trần sụp xuống. Người ta đang trèo lên những thanh chống cong queo và xà nhà để ra được không gian lạnh cắt da cắt thịt. Mùi gas rất nặng. Có một tiếng nổ khác vang lên, to hơn và gần hơn tiếng nổ trước. Luồng hơi toả ra từ vụ nổ làm nhiều người ngã ra, tiếng kêu hãi hùng và đau đớn vang lên khắp mọi nơi.
Lyra cố gắng lao lên, Pantalaimon kêu: “Lối này! Lối này!” giữa những tiếng kêu gào và run rẩy của đám nhân tinh. Cô lao mình qua đám lộn xộn. Không khí cô đang hít thở như đông cứng lại, cô hi vọng những đứa trẻ khác có thể xoay sở để tìm được áo mặc ngoài trời của mình. Sẽ là đáng tiếc nếu chạy trốn khỏi trạm chỉ để chết vì lạnh giá.
Giờ thì lửa đã cháy rất to. Khi chạy ra ngoài dưới bầu trời đêm cô có thể nhìn thấy ngọn lửa đang liếm thành một lỗ lớn bên cạnh toà nhà. Một đám trẻ con và người lớn đang đứng ở lối vào chính, nhưng lúc này cả trẻ con và người lớn đều sợ hãi hơn rất nhiều.
“Roger! Roger!” Lyra gọi, Pantalaimon, với đôi mắt tinh tường như một con cú, hét lên báo nó đã tìm thấy cậu.
Một thoáng sau chúng đã tìm thấy nhau.
“Hãy nói tất cả các bạn ấy đi theo mình!” Lyra hét vào tai cậu.
“Các bạn ấy sẽ không nghe đâu, tất cả đều đang rất hốt hoảng…”
“Hãy nói với các bạn ấy họ đã làm gì với những đứa trẻ đã biến mất! Họ tách nhân tinh ra bằng một lưỡi dao lớn! Hãy nói điều cậu nhìn thấy chiều nay… tất cả các con nhân tinh đã được thả ra! Hãy nói cho họ biết điều gì sẽ xảy ra nếu không chạy ra khỏi đây!”
Roger há hốc mồm, hoảng sợ, nhưng rồi cậu thu hết can đảm và chạy đến nhóm những đứa trẻ đang bối rối gần nhất. Lyra cũng làm thế. Khi thông tin được truyền đi, một số đứa trẻ hét lên và ôm chặt lấy nhân tinh đầy sợ hãi.
“Đi cùng mình!” Lyra kêu to. “Có một đội giải cứu đang đến! Chúng ta cần phải ra khỏi khu nhà này! Nào, chạy đi!”
Bọn trẻ nghe lời cô, chạy theo sau, luồn qua hàng rào đại lộ có nhiều cột đèn, giầy ống của chúng kêu lộp cộp và rin rít trên nền đất tuyết lèn chặt.
Phía sau họ, người lớn đang la hét, có một tiếng nổ ầm ầm, tiếng đổ sụp và một phần toà nhà đổ xuống. Những tia lửa vụt lên trong không khí, những ngọn lửa bùng lên với những âm thanh như tiếng xé vải; nhưng từ trong đó vang lên một âm thanh khác, khủng khiếp đến chết người. Lyra chưa từng nghe thấy âm thanh đó bao giờ, nhưng cô lập tức hiểu ra: đó là tiếng hú của những con nhân tinh chó sói của đội bảo vệ người Tartar. Cô cảm thấy bủn rủn chân tay, nhiều đứa trẻ hoảng hốt vấp ngã rồi dừng lại, vì người Tartar bảo vệ đầu tiên với những bước chân sải dài thoăn thoắt đã xuất hiện, khẩu súng trường đã sẵn sàng, với cái bóng màu xám của con nhân tinh khoẻ mạnh chạy bên cạnh.
Rồi một người nữa, một người nữa. Họ đều mặc áo giáp có đệm bên trong, họ không có mắt, hay ít nhất người ta không thể thấy con mắt nào phía sau những chiếc mũ sắt của họ. Những con mắt duy nhất có thể nhìn thấy là những đầu nòng súng trường tròn đen ngòm và những đôi mắt màu vàng rực sáng trên những cái mõm đang chảy nước ròng ròng của bọn sói.
Lyra luống cuống. Cô chưa từng lường trước những con chó sói này đáng sợ đến mức nào, giờ thì cô đã biết được việc những người Bolvangar dễ dàng vi phạm điều cấm kỵ không chạm vào nhân tinh của người khác đến mức nào, người cô run lên khi nghĩ đến những chiếc răng nanh kia cắm vào da thịt cô…
Đội quân Tartar chạy đến tạo thành một hàng ngang chắn giữa lối ra chính và đại lộ nhiều cột đèn, những con nhân tinh ở bên cạnh trật tự và có kỷ luật như vốn có. Một phút sau có thêm hàng thứ hai, có thêm những người khác đang đến, và nhiều người khác phía sau họ. Lyra nghĩ với nỗi thất vọng tràn trề: bọn trẻ con không thể đánh lại những chiến binh. Đây không giống như trận chiến tại mấy Mỏ Đất sét ở Oxford, ném những cục bùn vào những lò đốt gạch của đám trẻ con.
Hay có lẽ là giống! Cô nhớ đến cảnh mình ném những nắm đất sét vào khuôn mặt to bè đang hướng về mình của cậu bé con nhà đốt lò gạch. Cậu ta phải dừng lại để dụi mắt, rồi những đứa trẻ thành phố nhào vào cậu ta.
Lúc đó cô đang đứng trên một đống bùn. Giờ đây cô đang đứng trên tuyết.
Giống như cô đã làm chiều hôm đó, nhưng giờ thì dứt khoác và mạnh mẽ hơn, cô chụm hai tay lại vốc một vốc tuyết to và ném vào mặt người chiến binh ở gần mình nhất.
“Ném vào mắt họ đi!” Cô gào lên, bốc một nắm tuyết nữa.
Những đứa trẻ khác làm theo, nhân tinh của ai đó có sáng kiến bay thật nhanh bên cạnh những quả cầu tuyết và thúc thẳng vào khe hở của đôi mắt—rồi tất cả các con nhân tinh cũng hùa vào, một lúc sau những người Tartar đã bắt đầu nhảy như choi choi bực tức chửi rủa và cố gạt mấy nắm tuyết bị nén lại khỏi khoảng trống hẹp phía trước mắt mình.
“Nhanh lên!” Lyra hét và lao mình vào cánh cổng dẫn ra đại lộ nhiều cột đèn.
Bọn trẻ nối thành dòng phía sau cô, tất cả mọi người, lẩn tránh những cái mõm đang đớp của lũ chó sói và chạy nhanh hết mức có thể xuống đại lộ dẫn ra vùng không gian tối đen mênh mang đang mời gọi phía trước.
Một tiếng hét chói tai phía sau vang lên khi một sĩ quan hô to ra lệnh, rồi sau đó một vệt sáng từ khẩu súng trường vang lên ngay lập tức, rồi một tiếng hét khác, rồi tất cả chìm vào im lặng nặng nề, chỉ có tiếng bước chân và hơi thở hổn hển của bọn trẻ chạy trốn.
Họ đang ngắm bắn. Họ sẽ không bắn trượt.
Nhưng trước khi họ kịp nồ súng. một tiếng nấc nghẹn ngào vang lên từ một trong những người Tartar, rồi một tiếng hét ngạc nhiên vang lên từ những người khác.
Lyra ngừng chân và quay lại nhìn người đàn ông nằm trên nền tuyết, một mũi tên có chùm lông màu xám cắm trên lưng. Anh ta đang quằn quại, co giật và ho ra máu, những người còn lại đang nhìn ngó xung quanh xem ai là người bắn tên, nhưng chẳng ai nhìn thấy xạ thủ cả.
Tiếp đến một mũi tên khác bắn xuống từ trên bầu trời, cắm vào đầu một người đàn ông. Anh ta ngã xuống ngay lập tức. Với một tiếng hét của người sĩ quan, tất cả đồng loạt nhìn lên trời.
“Các phủ thuỷ!” Pantalaimon nói.
Họ đây rồi: những bóng hình màu đen thanh nhã bay lượn trên cao, với những tiếng vun vút và tiếng rít của không khí khi lọt qua những cành thông mây họ cưỡi. Khi Lyra quan sát, một người lượn thấp xuống và bắn một mũi tên: lại một người đàn ông nữa ngã xuống.
Rồi tất cả đám người Tartar hướng súng trường lên và nổ súng vào bóng tối, không nhắm vào gì cả, vào những bóng người, vào những đám mây, và ngày càng nhiều những mũi tên đổ xuống đầu họ.
Nhưng người sĩ quan phụ trách nhận thấy hầu hết bọn trẻ đã thoát ra ngoài, lệnh cho một nhóm người đuổi theo. Vài đứa trẻ hét lên, và thêm nhiều tiếng thét nữa, chúng không tiến lên phía trước nữa và quay lại hoảng loạn và sợ hãi trước một bóng hình khổng lồ đang lao về phía chúng trong bóng tối của đại lộ nhiều cột đèn.
“Iorek Byrnison!” Lyra hét lên, ngực cô như nổ tung vì mừng rỡ.
Con gấu mặc áo giáp sắt đang làm nhiệm vụ dường như chẳng để ý đến gì khác ngoài việc giữ cho mình thăng bằng. Nó lướt qua Lyra nhanh như một chiếc bóng và lao vào những người Tartar, những chiến binh đang chạy tán loạn, những chiến binh đang chạy tán loạn, những con nhân tinh, súng trường và tất cả bọn họ. Rồi nó dừng lại, lắc lắc với sức mạnh dẻo dai và vung ra hai nắm đấm vào người lính canh gần nhất.
Một con nhân tinh chó sói lao vào nó: nó quật con chó sói vào không trung, con sói rít và hú lên trước khi biến mất. Chủ của nó chết ngay lập tức.
Người sĩ quan Tartar, đối mặt với hai sự tấn công, không hề nao núng. Một tiếng hét dài ra lệnh, toán người chia ra làm đôi. một chống chọi với các phù thuỷ, phần lớn hơn tấn công con gấu. Toán quân của ông ta dũng cảm đến kỳ lạ. Họ quỳ xuống theo từng nhóm bốn người và nổ súng như thể đang trong sân tập bắn, không lùi lấy một phân khi những nắm đấm mạnh mẽ của Iorek lao đến phía họ. Chỉ một khoảnh khắc sau họ đã chết.
Iorek tiếp tục tấn công, nó quay sang một phía, đập, gào thét, giẫm đạp trong khi những viên đạn vẫn lao vào nó như mộ đàn ruồi, không có một chút tác dụng nào. Lyra thúc bọn trẻ tiếp tục chạy vào vùng tối phía dưới những cột đèn, chúng cần phải chạy thoát, vì sự nguy hiểm đến từ những người Tartar, nhưng ghê gớm hơn nữa là sự nguy hiểm đến từ những người lớn ở Bolvangar.
Vì thế cô gọi, vẫy và đẩy bọn trẻ chạy tiếp. Khi những ngọn đèn phía sau họ đổ những bóng dài trên tuyết, Lyra thấy trái tim mình lao trong đêm tối thăm thẳm của Bắc cực và cái lạnh cắt da cắt thịt, lao vào nó để học cách yêu nó như Pantalaimon đang làm, một con thỏ rừng đang sung sướng vì tự do sải bước.
“Chúng mình đi đâu đây?” Ai đó hỏi.
“Ở ngoài này chẳng có gì ngoài tuyết!”
“Có một đội giải cứu đang đến đây,” Lyra nói với chúng. “Có khoảng năm mươi người Gypsy có con em bị mất tích, họ đều cử đại diện đến.”
“Mình không phải người Gypsy.” Một cậu bé nói.
“Không sao đâu. Họ cũng sẽ đưa cậu đi.”
“Đi đâu?” Ai đó nói với giọng cáu kỉnh.
“Về nhà.” Lyra trả lời. “Đó là lý do mình đến đây, để giải cứu các bạn, mình đưa những người Gypsy tới đây để đưa các bạn trở về nhà. Chúng mình chỉ việc đi thêm chút nữa rồi sẽ tìm thấy họ. Con gấu đi cùng với họ, vì thế họ không thể ở xa đây được.”
“Cậu có nhìn thấy con gấu đó không!” Một cậu bé lên tiếng. “Khi nó quật con nhân tinh xuống, người đàn ông chết ngay như thể có người moi trái tim của anh ta ra, đúng là như thế đấy!”
“Mình chưa hề biết là nhân tinh có thể bị giết,” đứa nào đó nói.
Tất cả bọn trẻ giờ đều nói chuyện, sự hào hứng và nhẹ nhõm khiến mọi người đều muốn nói chuyện. Nếu chúng vẫn tiếp tục đi, việc nói chuyện sẽ không gây trở ngại gì.
“Có đúng không?” Một cô bé nói, “Chuyện người ta làm ở đó ấy?”
“Ừ,” Lyra nói. “Mình không bao giờ nghĩ sẽ nhìn thấy người nào không có nhân tinh. Nhưng trên đường đến đây, mình đã tìm thấy một cậu bạn chỉ có một mình mà không có con nhân tinh nào bên cạnh. Cậu ấy cứ luôn miệng hỏi về nó, nó đang ở đâu, nó có tìm thấy cậu ấy không. Cậu ấy tên là Tony Makarios.”
“Mình biết cậu ấy!” Một đứa trẻ nói, những đứa khác hùa theo: “Đúng rồi, họ đưa cậu ấy đi khoảng một tuần…”
“Ừ, họ đã tách con nhân tinh của cậu ấy ra,” Lyra nói, cô hiểu nói như thế sẽ tác động đến bọn trẻ như thế nào. “Một khoảng thời gian ngắn sau khi chúng mình tìm được cậu ấy, cậu ấy đã chết. Còn tất cả những con nhân tinh họ tách ra khỏi chủ, họ giam trong những chiếc lồng trong một toà nhà hình vuông ở đó.”
“Đúng đấy,” Roger lên tiếng. “Lyra đã thả chúng ra trong buổi lập phòng chữa cháy.”
“Đúng rồi,” Billy Costa nói, “Lúc đầu mình không nhìn ra chúng là cái gì, nhưng mình đã thấy chúng bay đi cùng một con ngỗng.”
“Nhưng tai sao họ lại làm vậy?” một cậu bé thắc mắc. “Tai sao họ lại tách nhân tinh của con người ra? Như thế thật là đau đớn! Sao họ lại làm vậy?”
“Bụi,” ai đó nói với giọng ngờ vực.
Nhưng cậu bé cười một cách khinh thường. “Bụi!” Cậu nói. “Chẳng có thứ đó đâu! Họ chỉ bịa ra thôi! Mình không tin là có nó.”
“Đây này,” ai đó nói, “Hãy nhìn điều đang xảy ra với khí cầu zeppelin!”
Tất cả chúng đều quay lại. Dưới ánh sáng chói loà, nơi cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, thân hình rất dài của chiếc khí cầu không còn trôi nổi tự do tại chiếc cột trụ khí cầu nữa. Đầu nó đang chúi xuống phía dưới, và phía dưới nổi lên một khối cầu…
“Khinh khí cầu của Lee Scoresby!” Lyra reo lên, thích thú vỗ hai bàn tay đeo bao tay vào nhau.
Những đứa trẻ khác bắt đầu phân tâm. Lyra đẩy chúng đi tiếp, thắc mắc không hiểu làm thế nào ông ấy có thể lái chiếc khinh khí cầu của mình đi xa đến thế. Rõ ràng là ông ấy đã làm được, và đó là một ý kiến hay, khi bơm đầy khinh khí cầu bằng khí gas lấy từ trong lòng đất để trốn thoát.
“Nhanh lên nào, tiếp tục đi đi, nếu không các bạn sẽ bị chết cóng đấy.” Cô nói, vì vài đứa trẻ đang run lập cập và rên rỉ vì lạnh, những con nhân tinh của chúng cũng đang kêu lên khe khẽ.
Pantalaimon nhận thấy như thế không ổn, trong hình dạng con chồn gu-lô nó vỗ vào con nhân tinh sóc của cô bé đang nắm ngang qua vai chủ và khẽ rên rỉ.
“Chui vào áo khoác của cô ấy đi! Hãy làm cho cậu to lên và sưởi ấm cho cô ấy!” Pantalaimon gầm gừ, con nhân tinh của cô bé hoảng hốt bò vào chiếc áo choàng của cô chủ ngay lập tức.
Rắc rối là ở chỗ chiếc áo chần bông không thể ấm bằng chiếc áo lông thú, dù nó có được chần bông dày đến đâu. Một số đứa trẻ trông như những cây nấm di động, quần áo của chúng rất cồng kềnh, nhưng được may trong các nhà máy và phòng thí nghiệm, không phù hợp để mặc ở ngoài này. Quần áo lông thú của Lyra trông tơi tả và bốc mùi hôi, nhưng nó giữ ấm rất tốt.
“Nếu không nhanh chóng tìm thấy những người Gypsy thì các bạn ấy sẽ không cầm cự được đến cùng đâu.” Lyra thì thầm với Pantalaimon.
“Vậy cứ thúc họ đi tiếp đã,” nó thì thầm lại, “Nếu họ mà nằm xuống thì kết thúc luôn đấy. Cậu có biết Farder Coram nói…”
Farder Coram đã kể rất nhiều chuyện ly kỳ về các chuyền đi của ông ở phương Bắc, và cả bà Coulter nữa—cứ giả định rằng bà ấy nói đúng đi. Nhưng cả hai đều rất chắc chắn ở một điểm, đó là phải cố gắng tiếp tục đi.
“Chúng mình phải đi bao xa?” một cậu bé hỏi.
“Cậu ấy bắt bọn mình ra đây để giết bọn mình đấy.” Một cô bé nói.
“Thà ở ngoài này còn hơn ở trong đó,” ai đó nói.
“Mình thì không thích thế! Trong trạm sẽ ấm hơn. Có thức ăn, đồ uống nóng và tất cả các thứ khác.”
“Nhưng nó đang bị cháy!”
“Nhưng bọn mình sẽ làm gì ở ngoài này? Mình cá tất cả sẽ chết vì đói cho mà xem.”
Tâm trí Lyra đầy ắp những câu hỏi u ám bay vòng vòng như những phù thuỷ, nhanh chóng mặt và không thể chạm vào được, ở đâu đó, một nơi cô không thể đến được, có một chiến thắng và cô không hiểu nổi tại sao.
Nhưng nó mang đến cho cô một luồng sức mạnh, cô lôi một cô bạn khỏi đám tuyết, thúc vào lưng cậu bé đang uể oải và gọi to cho tất cả mọi người cùng nghe: “Đi tiếp đi nào! Hãy theo dấu chân của con gấu! Nó đến cùng những người Gypsy, vì thế các dấu chân sẽ dẫn chúng ta đến chỗ họ! Cứ tiếp tục bước đi!”
Những bông tuyết lớn bắt đầu rơi. Chúng sẽ rất nhanh chóng lấp đầy những dấu chân của Iorek Byrnison. Giờ bọn trẻ đã đi khuất khỏi ánh đèn Bolvangar, những ánh lửa chỉ còn là tia sáng lấp lánh lờ mờ, ánh sáng duy nhất đến từ mặt đất phản chiếu màu tuyết trắng mờ. Những đám mây nặng nề che phủ cả bầu trời, vì thế không có cả trăng lẫn Ánh Sáng Phương Bắc, nhưng nếu nhìn thật chăm chú, bọn trẻ vẫn tìm ra vết chân rất sâu Iorek Byrnison để lại trên nền tuyết. Lyra khuyến khích, hoan hô, đá *********, dìu, mắng mỏ, kéo, đẩy, nhấc lên nhẹ nhàng bất cứ lúc nào cần, và Pantalaimon (bằng cách luôn ở gần những con nhân tinh) nói cho cô biết cần làm gì trong từng trường hợp.
Mình sẽ đưa mọi người đến đó, cô liên tục tự nhủ. Mình đến đây để giúp họ và mình giúp họ bằng mọi giá.
Roger bám theo cô, Billy Costa đang dẫn đường, vì là người tinh mắt hơn cả. Tuyết nhanh chóng rơi rất dày, chúng bíu vào nhau để không bị lạc; Lyra nghĩ, có lẽ tất cả chúng ta nằm gần nhau và giữ ấm như thế… đào những cái lỗ trong tuyết…
Cô nghe thấy tiếng gì đó như tiếng gầm của động cơ, không phải tiếng bình bịch nặng nề của khí cầu zeppelin mà thanh hơn, giống tiếng vo ve của ong bắp cày. Nó chập chờn lúc có lúc không.
Rồi có tiếng hú… Những con chó? Những con chó kéo xe? Khoảng cách xa quá nên rất khó đoán chắc, bị bao phủ bởi hàng triệu bông tuyết, bay tứ tán bởi những cơn gió nhẹ. Đó có thể là những con chó kéo xe của những người Gypsy, cũng có thể là những linh hồn lang thang trên lãnh nguyên, hay thậm chí là những con nhân tinh đã được thả tự do khóc cho những đứa trẻ mất tích, chủ của chúng.
Cô đang nhìn thấy gì đó… Không có ánh sáng nào trong tuyết, phải vậy không nhỉ? Chắc chắn đó phải là những hồn ma… Trừ khi bọn trẻ đang đi vòng lại và quay về Bolvangar.
Nhưng đó là những tia sáng của đèn lồng vàng, không phải thứ ánh sáng trắng của đèn điện anbaric, chúng đang chuyển động, những tiếng hú gần hơn, trước khi cô chắc chắn có phải mình đang mơ hay không, Lyra đã lọt vào giữa những bóng dáng thân quen. Những người đàn ông mặc áo lông thú đang bế cô lên: vòng tay mạnh mẽ của John Faa nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất, Farder Coram đang cười sung sướng. Xa hơn cô có thể nhìn xuyên qua cơn bão tuyết, những người Gypsy đang nhấc bọn trẻ vào xe kéo, quấn quanh chúng áo choàng lông thú, cho chúng nhai thịt hải cẩu. Tony Costa cũng đang ở đó, ôm Billy, thụi nhẹ nó một cái rồi lại ôm chặt và lắc nó trong mừng rỡ. Và Roger…
“Roger sẽ đi cùng với chúng cháu,” cô nói với Farder Coram. “Lúc đầu chính cậu ấy là người cháu muốn cứu. Sau này bọn cháu sẽ cùng về Jordan. Âm thanh gì thế—”
Tiếng gầm đó lại vang lên, tiếng động cơ ấy, như sinh vật bay do thám liên loạn đó nhưng lớn gấp hàng nghìn lần.
Đột nhiên có một cú đấm làm cô ngã vật ra, Pantalaimon không thể bảo vệ cô, vì con khỉ vàng…
Bà Coulter…
Con khỉ vàng đang vật lộn, cắn xé và cào cấu Pantalaimon, còn Pantalaimon đang biến đổi thành rất nhiều hình dạng đến mức khó mà nhìn thấy nó và đánh trả: chích, đốt, quật, cào xé. Bà Coulter, khuôn mặt ẩn trong lớp lông thú, ánh mắt băng giá đầy vẻ căng thẳng, dang kéo Lyra ra phía sau một chiếc trượt tuyết gắn động cơ, Lyra vùng vẫy dữ dội không kém con nhân tinh của mình. Tuyết dày đến mức họ gần như bị cô lập một mình giữa trận bão tuyết, ánh đèn của chiếc xe trượt khi hiện ra cách vài phân giữa trận bão tuyết, ánh đèn của chiếc xe trượt khi hiện ra cách vài phân giữa những bông tuyết quay cuồng dày đặc.
“Cứu với!” Lyra kêu lên, với những người Gypsy đứng ngay ở đó trong màn tuyết dày đặc và chẳng nhìn thấy gì hết. “Cứu với! Farder Coram! Ngài Faa! Ôi chúa ơi, cứu cháu!”
Bà Coulter hét lên và ra lệnh bằng ngôn ngữ của dân Tartar miền bắc. Màn lốc tuyết mở ra, họ ở đó, một nhóm, trang bị súng trường, những con nhân tinh chó sói gầm gừ. Người trưởng nhóm thấy bà Coulter đang vật lộn, nhấc Lyra lên bằng một tay như thể cô là một con búp bê và đẩy cô vào trong xe kéo, trong tình trạng choáng váng mụ mẫm.
Một tiếng súng vang lên, rồi một tiếng khác, khi những người Gypsy nhận thấy điều gì đang xảy ra. Nhưng nổ súng vào những mục tiêu không nhìn thấy rất nguy hiểm khi chính bạn cũng không biết những người phe mình đang đứng ở đâu. Những người Tartar, giờ thành một nhóm đứng sát nhau quanh chiếc xe kéo đã dễ nhìn thấy hơn, nhưng những người Gypsy không dám nổ súng vì sợ làm bị thương Lyra.
Ôi, cô cảm thấy thật đau đớn! Thật mệt mỏi!
Vẫn trong tình trạng mụ mẫm, trong đầu ong ong, cô gượng dậy tìm kiếm Pantalaimon đang chiến đấu một mình với con khỉ, hai hàm răng chồn gu-lô đang nghiến chặt vào cánh tay màu vàng. Và ai nữa kia?
Không phải Roger đấy chứ?
Đúng là Roger, cậu đang lao vào bà Coulter đấm đá, thụi đầu vào đầu bà ta, và bị ngã dụi bởi một người Tartar đánh vào người cậu như người ta xua một con ruồi. Giờ thì tất cả trở thành ảo ảnh: trắng, đen, một vệt màu xanh bay vụt qua mắt, những cái bóng tả tơi, ánh đèn đang di chuyển…
Một ngọn lốc lớn gạt màn tuyết sang một bên, Iorek Byrnison đang bước tới, tiếng kim loại chạm vào kim loại leng keng. Một lát sau, hai bên hàm táp sang phải, sang trái, và một cú táp xé tung lồng ngực mặc áo giáp, những chiếc răng trắng, tấm kim loại đen, lớp lông ướt màu đỏ…
Rồi có gì đó đang kéo cô thật mạnh, lên trên, chộp lấy cả Roger, giật cậu khỏi bà Coulter và nắm thật chặt, nhân tinh của hai đứa trẻ biến thành một con chim kêu chiêm chiếp thích thú trong khi một con lớn hơn lượn xung quanh chúng, rồi Lyra thấy trong khoảng không bên cạnh mình là một phù thuỷ, một trong những bóng trang nhã màu đen tơi tả trên bầu trời cao, nhưng đủ gần để chạm tới. Có một cánh cung trên đôi tay trần của bà phù thuỷ, bà tung cánh tay trần xanh xao (trong không khí lạnh giá như thế này!) để giương cung và bắn một mũi tên vào chiếc áo giáp đan mắt lưới làm người Tartar bắn tung ra xa mấy mét…
Những mũi tên tiếp tục lao đi và đổi lại, con nhân tinh hình chó sói của người đàn ông biến mất trong khi đang nhảy lên thậm chí trước khi kịp chạm đất.
Bay lên! Giữa không gian, Lyra và Roger được giữ và bay lượn, rồi nhận thấy mình đang bám vào một cành thông mây bằng những ngón tay yếu ớt, trên đó một phù thuỷ trẻ đang ngồi nghiêm, duyên dáng và cân bằng, bà nghiêng về bên trái, có gì đó khổng lồ hiện ra lờ mờ rồi mặt đất hiện ra.
Chúng lộn nhào xuống nền tuyết bên cạnh chiếc giỏ trên khinh khí cầu của Lee Scoresby.
“Nhảy vào trong đi,” người đàn ông Texas gọi, “và giữ lấy bạn của cháu bằng mọi cách. Cháu có thấy con gấu đó không?”
Lyra nhìn thấy ba phù thuỷ đang giữ một sợi dây thừng cuốn quanh một mỏm đá, găm chặt chiếc túi đựng khí xuống đất.
“Vào đây!” Cô hét lên với Roger, và trèo qua bờ mép viền da cảu chiếc giỏ rồi lăn xuống một đống gì đó xốp như tuyết. Một lát sau Roger ngã lên trên cô, rồi một âm thanh nửa như tiếng gầm, nửa như tiếng tống vang lên làm cả mặt đất rung chuyển.
“Nhanh lên, Iorek! Lên trên này đi, anh bạn cũ!” Lee Scoresby gào lên, và ở một bên vang lên tiếng cây mây kêu cọt kẹt là tiếng gỗ uốn cong.
Rồi một luồng khí nhẹ hơn gạt làn sương và tuyết sang một bên trong khoảnh khắc, đột nhiên Lyra nhìn thấy tất cả mọi thứ đang xảy ra xung quanh cô. Cô nhìn thấy một nhóm người Gypsy đang chiến đấu với đạo quân tập hậu người Tartar và dồn chúng chạy về Bolvangar đang cháy rụi. Cô thấy những người Gypsy khác đang giúp từng đứa trẻ lên xe kéo an toàn, ủ chúng vào lớp chăn lông thú ấm áp; cô nhìn thấy Farder Coram đang lo lắng đốc thúc mọi việc, dựa người vào vây gậy chống, con nhân tinh màu mùa thu nằm trên tuyết, nhìn ngược nhìn xuôi.
“Farder Coram!” Lyra gọi to. “Cháu ở đây!” Ông già nghe tiếng và quay sang thích thú nhìn chiếc khinh khí cầu nối với sợi dây thừng và mấy phù thuỷ đang kéo xuống, Lyra đang vẫy rối rít trong chiếc giỏ.
“Lyra!” Ông gọi to. “Cháu an toàn chứ, cô bé? Cháu có an toàn không?”
“Cháu vẫn an toàn!” Cô hét lên trả lời. “Chào ông, Farder Coram! Chào ông! Ông đưa tất cả các bạn ấy về nhà nhé!”
“Chúng ta sẽ làm thế, chắc chắn như chuyện đang sống vậy! Cháu đi thuận buồm xuôi gió nhé, cô bé của ta—đi thuận buồm xuôi gió—đi thuận buồm xuôi gió, cháu cưng—”
Cùng lúc đó người lái khinh khí cầu hạ tay xuống ra hiệu những phù thuỷ thả sợi dây ra.
Chiếc khinh khí cầu nâng lên ngay lập tức và bay lên vùng không gian dày đặc tuyết vối tốc độ Lyra không thể tin nổi. Một lát sau, lặt đất đã biến mất trong sương mù, họ lên cao, ngày càng nhanh hơn, đến mức cô nghĩ không có tên lửa nào có thể rời khỏi mặt đất nhanh đến thế. Cô nằm xuống bên Roger trên sàn chiếc giỏ, bị éo chặt bởi tốc độ ngày càng tăng cao.
Lee Scoresby đang vui, đứng cười nói và ngân nga những tiếng kêu thích thú của người Texas; Iorek Byrnison đang lặng lẽ cởi bộ áo giáp sắt, khéo léo lồng móng vuốt vào tất cả các mối nối và tháo chúng ra chỉ bằng một lần rút trước khi gói các tấm kim loại lại thành một gói. Đâu đó bên ngoài, tiếng không khí phần phật, vun vút qua những cành thông mây và những tấm thảm bay cho biết các phù thuỷ vẫn bay theo họ lên cao.
Lyra dần lấy lại được hơi thở, cân bằng và nhịp tim. Cô đứng lên nhìn xung quanh.
Chiếc giỏ rộng hơn cô tưởng tượng rất nhiều. Xếp viền xung quanh là các thiết bị khoa học, có những đống đồ lông thú, không khí đóng chai và rất nhiều những thứ khác quá nhỏ bé và rối rắm để nhận ra trong làn sương mù dày đặc họ đang đi qua.
“Đây có phải là một đám mây không?” Cô hỏi.
“Chắc rồi. Hãy cuộn bạn của cháu lại trong những tấm lông thú trước khi cậu ấy đóng băng. Ở đây rất lạnh, nhưng sẽ còn lạnh hơn nữa đấy.”
“Làm thế nào bác tìm được chúng cháu?”
“Các phù thuỷ. Có một bà phù thuỷ muốn nói chuyện với cháu đấy. Khi chúng ta ra khỏi các đám mây, chúng ta sẽ lấy lại trang thái cân bằng, lúc đó có thể ngồi xuống và hàn huyên một chút.”
“Iorek,” Lyra nói, “Cảm ơn vì anh đã đến.”
Con gấu kêu khụt khịt, ngồi xuống và liếm những vết máu trên lông. Sức nặng của nó khiến chiếc giỏ nghiêng sang một bên, nhưng như thế cũng không sao. Roger trông rất cảnh giác, nhưng Iorek Byrnison chẳng quan tâm đến nó nhiều hơn một bông tuyết. Lyra tự hài lòng với việc bám vào thành giỏ ngay phía dưới mà mình khi đứng, và mở to mắt nhìn ra những đám mây bên ngoài đang bay cuồn cuộn.
Chỉ mấy giây sau, chiếc khinh khí cầu bay qua đám mây, nó vẫn bay lên cao với tốc độ chóng mặt, vút lên bầu trời.
Cảnh tượng mới tuyệt làm sao!
Ngay phía trên đầu họ là chiếc khinh khí cầu phình to thành một đường cong vĩ đại. Phía trên và trước mặt họ là hiện tượng cực quang đang chiếu sáng, rực rỡ và hùng vĩ hơn tất cả những lần cô được chiêm ngưỡng trước đó. Ánh sáng ở khắp mọi nơi, hay gần như, họ là một phần của nó. Những dải ánh sáng lớn rung rinh, đung đưa như những đôi cánh thiên thần đang vẫy, những vầng hào quang của tầng phát quang nhào xuống những vách đá vô hình rồi nằm trên những chiếc bể xoáy lốc hay treo lên như những thác nước khổng lồ.
Lyra nhìn mê mài, rồi cô trông xuống phía dưới, và thấy một cảnh tượng thậm chí còn tuyệt diệu hơn.
Ở phía xa, đến tận đường chân trời theo các hướng khác nhau, một đại dương cuồn cuộn những ngọn sóng không màu mở rộng không có điểm dừng. Những đỉnh nhọn mềm mại hay những khe nứt nhô lên hay nở ra khắp mọi nơi, nhưng trông nó hầu như giống một khối băng khổng lồ.
Bay qua đó đơn lẻ hay theo từng nhóm là những bóng đen nhỏ, những chiếc bóng tả tơi duyên dáng, những phù thuỷ đang cưỡi trên những cành thông mây của mình.
Họ bay rất nhanh, rất nhẹ nhàng không cần cố sức, lên cao và về phía chiếc khinh khí cầu, bay dọc hai bên dẫn đường. Một trong số đó, người đã bắn cung cứu Lyra khỏi tay bà Coulter, bay thẳng đến bên chiếc giỏ, và lần đầu tiên Lyra được nhìn bà ta được rõ.
Bà ấy còn trẻ, trẻ hơn bà Coulter, và rất đẹp, với đôi mắt màu xanh lá cây lấp lánh, áo choàng lạu đen như tất cả các phù thuỷ khác, nhưng không có thứ đồ lông thú, mũ trùm hay bao tay nào cả. Dường như bà ấy không hề cảm thấy chút lạnh. Quanh trán bà là một vành hoa nhỏ màu đỏ giản dị. Bà ngồi trên cành thông mây của mình như thể nó là một con ngựa, và đang ghìm cương ngựa trong khi Lyra ngây người nhìn.
“Lyra phải không?”
“Vâng! Còn bà là Serafina Pekkala?”
“Chính là tôi đây.”
Lyra có thể hiểu vì sao Farder Coram yêu bà, và tại sao điều đó lại làm trái tim ông ta tan nát, dù chỉ một lúc trước đây thôi cô không hề biết cả hai điều này. Ông đang già đi, ông chỉ lả một người đàn ông già yếu, còn bà sẽ trẻ mãi không già.
“Cháu có giữ chiếc máy đọc biểu tượng đúng không?” Bà phù thuỷ nói bằng chất giọng giống như tiếng hát thánh thót của hiện tượng cực quang khiến Lyra khó lòng nhận ra cảm giác về âm thanh ngọt ngào của nó.
“Vâng. Cháu để nó trong túi áo, nó vẫn an toàn.”
Tiếng đập cánh rất lớn cho thấy có ai đó đang bay tới, rồi nó lướt đến bên bà: con nhân tinh ngỗng xám. Nó nói nhanh rồi quay đi lượn vòng quanh chiếc khinh khí cầu vẫn tiếp tục lên cao.
“Những người Gypsy đã phá tan Bolvangar.” Serafina Pekkala nói. “Họ đã hạ được hai mươi hai lính canh và chín nhân viên, họ châm lửa đốt tất cả những phần còn chưa sụp đổ của toà nhà. Họ sẽ phá huỷ nó hoàn toàn.”
“Thế còn bà Coulter?”
“Không thấy tin tức gì của bà ta cả.”
Bà kêu to một tiếng, những phù thuỷ khác lượn vòng rồi bay đến chiếc khinh khí cầu.
“Ông Scoresby.” Serafina nói, “quăng dây thừng cho chúng tôi nếu ông muốn.”
“Thưa bà, tôi rất hân hạnh. Chúng tôi vẫn đang lên cao, tôi đoán chúng tôi sẽ lên cao thêm một chút nữa. Sẽ cần bao nhiêu người phía bà để kéo chúng tôi về phía bắc?”
“Chúng tôi rất khoẻ,” bà chỉ nói có vậy.
Lee Scoresby đang buộc một đoạn dây thừng to vào một chiếc vòng kim loại đang tập hợp tất cả những dây thừng bao quanh chiếc túi đựng khí, nhờ đó chiếc giỏ được treo lơ lửng. Khi nó đã được cố định lại an toàn, ông ném đầu dây còn lại ra, ngay lập tức sáu phù thuỷ bay đến, bắt lấy, và bắt đầu kéo, thúc những cành thông mây bay về phía Sao Bắc cực.
Khi chiếc khinh khí cầu bắt đầu bay theo hướng đó, Pantalaimon đến đậu trên thành giỏ trong hình dạng một con nhạn biển. Nhân tinh của Lyra ra ngoài nhìn ngó xung quanh, nhưng bò vào ngay, vì Roger đang nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, giống Iorek Byrnison. Chỉ có Lee Scoresby là còn thức, lặng lẽ nhai một điếu xì gà dài và nhìn ngắm các thiết bị đo đặc của mình.
“Vậy là, Lyra,” Serafina Pekkala nói, “cháu có biết tại sao cháu phải đến chỗ ngài Asriel không?”
Lyra ngạc nhiên: “Để đưa ông ấy Chân-kế, tất nhiên là vậy rồi!” cô nói.
Cô chưa bao giờ nghĩ đến câu trả lời, nó đã quá hiển nhiên. Bà đã gợi cho cô động lực đầu tiên, điều cô gần như đã quên bẵng từ lâu.
“Hoặc là... để giúp ông ấy trốn thoát. Thế đấy ạ. Chúng cháu sẽ giúp ông ấy thoát ra.”
Nhưng nói xong, cô thấy nghe có vẻ buồn cười. Trốn thoát khỏi Svalbard? Điều đó là không thể!
“Dù sao, cũng phải thử chứ.” Cô nói thêm với vẻ cứng cỏi. “Tại sao bà hỏi vậy?”
“Ta nghĩ có những điều ta cần nói với cháu.” Serafina Pekkala nói.
“Về Bụi phải không ạ?”
Đó là điều đầu tiên Lyra muốn biết.
“Đúng vậy, cùng với những điều khác nữa. Nhưng giờ cháu mệt rồi, và đó sẽ là một cuộc chiến đấu lâu dài. Chúng ta sẽ nói chuyện khi nào cháu ngủ dậy.”
Lyra ngáp dài một cái khiến xương quai hàm kêu răng rắc và phổi bị ép lại kéo dài đến một phút hoặc cảm tưởng là lâu đến thế, cô không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ. Serafina Pekkala đưa một tay qua gờ chiếc giỏ và chạm vào mắt cô. Khi Lyra nằm xuống sàn, Pantalaimon bay xuống, biến thành chồn ecmin, bò vào chỗ ngủ quen thuộc bên cổ cô.
Bà phù thuỷ cho cành thông mây bay nhanh bên chiếc giỏ trong khi nó bay về phía bắc đến Svalbard