Good friends, good books and a sleepy conscience: this is the ideal life.

Mark Twain

 
 
 
 
 
Tác giả: Patrick White
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18
ước vào tuổi này của cuộc đời, đôi lúc Stan Parker băn khoăn chuyện gì rồi sẽ đến. Mọi người kính trọng ông. Ông không thể tách rời cái quận này, ông đã thành một địa danh. Đàn bò của ông nhỏ nhưng chất lượng rất tốt so với đàn bò cùng quy mô, không giàu có và không nhiều tham vọng, nhưng đáng tin cậy, các can sữa luôn đưa đến nhà máy làm bơ đúng hạn không bao giờ trễ. Ông cũng đi lễ nhà thờ, hát thánh ca và đọc kinh ca ngợi Chúa Trời hiện hữu. Người ta đã bảo với Stan Parker từ lâu rồi rằng ông là một tín đồ, dĩ nhiên ông tin. Ông hát những lời tụng ca đầy kiên trì, bằng chất giọng ta mong chờ ở ông, hát đúng theo nhạc không hề thêm bớt. Ông đứng ở một chỗ hát, lúc này sau gáy ông đã nhăn nheo và trong thớ thịt đường gân nổi rất rõ. Nhưng ông vẫn là một người đàn ông to lớn, lưng thẳng.
Thế thì có cái gì không ổn? Dĩ nhiên chẳng có gì giải thích nổi theo phương pháp logic; chỉ một chiếc lá rơi vào lúc hoàng hôn cũng sẽ vô cớ khuấy động cái lý lẽ đó. Stan Parker đi lang thang khắp cái nơi anh đã sống, nơi ông đã héo hon tàn tạ. Đây là cuộc sống của tôi, hẳn ông sẽ nói vậy, nếu ông diễn đạt bản thân được cách nào khác hơn hành động của cơ thể. Nhưng khi mùa hòa màu trơ rạ và cỏ khô đến thì những mối nghi ngại lại chất chồng. Có những ngóc ngách trên đất đai mà ông không thể đến thăm được, như thể ngại phải khám phá những điều mà mình không muốn thấy. Ở đó mọi thứ đều ổn cả, ông tự thuyết phục rằng chẳng có gì đổi thay khi tư tưởng đã xác định.
Một lần nhìn đám ruộng cao lương vàng óng sắp đến ngày thu hoạch, ông bỗng nhớ đến cùng dải đất ấy ngày mới khai hoang, lúc ông còn là một thanh niên trai tráng trên đó, những mẩu gỗ vụn từ những thân cây anh vừa mới ngả, và một vài cây con óng ánh đang chờ nhát rìu bổ xuống. Thế là ông quên khuấy việc gặt hái và bước đi, trầm ngâm suy nghĩ.
Có những lúc ông gắng sức quá mức so với tuổi tác của mình như để đền bù cho những điểm yếu đang giày vò. Ông cũng cầu nguyện, đọc những lời kinh đã thuộc, tránh ngẫu hứng nhất thời, vì ông không còn tin vào bản thân trong chuyện này nữa. Ông cố gắng làm cho những lời kinh nghiêm khắc và khô cứng kia phù hợp với tâm trạng khắc khoải của mình. Ông cầu nguyện trong hy vọng, đôi khi cả trong tuyệt vọng, luôn vụng về và băn khoăn chẳng hay vợ mình có biết không.
Có lẽ mình nên nói với vợ đôi chút về chuyện này, ông nhủ thầm, nhưng nói làm sao đây, nói cái gì, và thế là ông chẳng nói được gì cả. Ông nhận thấy đã lâu rồi hai người chưa nói chuyện với nhau. Trừ khi nhờ vả hay thuật lại các sự vụ, họ không thực sự hòa nhập tâm hồn với nhau. Vợ ông kín như bưng, ông đã thấy. Ông nhìn vợ mình, mỗi khi bà đi lại trong nhà hay ngồi mơ màng, đôi mí mắt cụp xuống.
Nếu cuộc sống và tình yêu của hai người không được xây dựng vững chắc bằng thói quen, thì hẳn chuyện này cũng đã gây cho ông nhiều phiền toái. Thực tế ông chẳng bị phiền bực gì. Ông chấp nhận khuôn mặt của vợ như một bằng chứng nữa về cái thời mơ mộng trăn trở mà cuối cùng họ đã bước vào, và qua đó họ trôi dạt không ngừng về bất cứ nơi nào đang chờ đón họ sau này.
Một buổi tối, người đàn bà trong khi tìm kiếm một vật gì đó, lôi trong tủ ra bao nhiêu thứ linh tinh, những đồ trang trí cũ đã bỏ đi, biết chắc là chẳng bao giờ mấy thứ đó có thể ghép lại với nhau được nữa: một nùi ren đã ngả vàng, những tập catalogue cũ của mấy cửa hiệu lớn, những chiếc răng trẻ con đựng trong một cái chai, nhiều thứ vô giá trị hoặc chỉ dùng nhất thời mà do tính cố chấp và keo kiệt bà đã bí mật nâng tầm thành vô hạn và giá trị, bà quỳ xuống, mân mê tài sản của mình, lòng chua chát và ngao ngán, tình cờ bà thấy một cuốn sổ tay con con.
Trong khi bà giở xem từng trang một, hay chỉ lật thôi, người đàn ông - chồng bà đứng nhìn chờ đợi một hành động hoặc một biểu hiện tình cảm nào đó, làm sáng tỏ tình huống hiện tại và nhiều tình huống khác, ông ngồi dịch lại hỏi đầy hy vọng:
- Amy, em có cái gì thế kia?
- À, - bà khịt khịt, hoặc càu nhàu. Tối hôm ấy bà mang dép lê và tóc để xõa, - đấy là quyển sổ con mà bà Erbey cho em, hình như thế, vợ vị cha xứ ở Yuruga ấy mà. Em muốn đưa Ray để viết nhật ký. Em cho đó là một ý kiến hay. Thế nhưng Ray không thú lắm.
Bà nói thêm:
- Có lẽ đó là ý nghĩ vớ vẩn. Mong bọn con trai ghi lại những việc chúng làm. Em không nghĩ tụi con trai muốn nhìn lại. Chúng cứ thế mà làm.
- Đưa cho anh, - chồng bà tiến lại gần nói, - anh có thể sử dụng nó vào việc gì đó, ghi chú hay lập danh sách.
Bà vui lòng đưa cho chồng quyển sổ vớ vẩn, đặt nó vào tay ông, mà không ngẩng lên khỏi sự mê mải của mình.
Người chồng trở lại chiếc ghế của mình ở rìa phòng, ngắm nhìn quyển sổ trống, cố nghĩ xem sẽ viết những gì trong ấy. Bản thân những trang giấy trắng thật đơn giản và hoàn thiện. Nhưng hẳn phải có vài lời giản đơn, trong tầm tay của ông, mà có thể làm sáng tỏ thêm. Ông muốn chép một ít thơ hay vài lời kinh vào cuốn sổ trống, ông đã suy nghĩ hồi lâu về ý định đó, nhớ lại những vở kịch Shakespeare mà hồi còn bé ông nằm sấp đọc, song bất kì từ nào nảy ra đều là những lời khô cứng của thứ văn chương đã lãng quên một nửa, mà chẳng liên quan gì đến ông.
Thế là quyển sổ vẫn trống nguyên. Ông lại tiếp tục cày bừa, chặt gỗ, vắt sữa, gặt hái, trút sạch xô và đổ đầy. Tất cả những việc làm đó bản thân đều tốt, song chẳng việc nào có thể lý giải cuộc sống mơ mộng của ông, như vài từ ngữ tựa sấm sét đánh bật ra khỏi bộ óc ông. Thế nhưng đôi khi ông hoảng hốt trước sự ngớ ngẩn của mình, nhìn vợ dò xem bà có nghi vấn điều gì không.
Bà không hề.
- Anh Stan này, - bà nói, - liệu trời có mưa không? Có mây đằng nam đấy.
Bà liếm môi và ngửng lên một cách ân hận khỏi suy nghĩ của mình, vì bà biết chồng đang nhìn mình.
Đó là những năm trời nắng hạn, họ thường trao đổi với nhau như vậy rồi rời hơi nóng dưới mái nhà ra ngoài trời mông mênh oi bức hơn. Để ngắm nhìn. Họ nhấm ướt làn da khô của đôi môi và tiên liệu: đôi khi đầy hy vọng để khích lệ nhau. Họ đứng lặng, và lũ bò gầy guộc theo dõi họ như thể mong đợi ở họ một sự tiết lộ na ná điều con người mong đợi ở bầu trời.
Rồi dần dần mọi người quen với cơn hạn hán vàng. Họ theo dõi nó và bớt theo dõi lẫn nhau. Thậm chí, đôi khi họ phát hiện những giây phút đẹp đẽ vô tư.
Stan Parker bắt được một con chuồn chuồn, dài bằng ngón tay. Ông mang đến cho vợ xem con vật đang run rẩy trên chiếc lá dâu vàng.
- Ô kìa, con chuồn chuồn đẹp quá, anh Stan nhỉ? - Bà nói.
Bà có vẻ hài lòng nhưng bình thản, chiều theo ý ông như thể ông còn là một đứa trẻ. Lúc ấy chị đang nhồi bột.
- Đặt nó trên bậu cửa ấy, - bà nói. - Có lẽ nó sẽ bay đi.
Sau khi phóng thích con chuồn khỏi đôi bàn tay đã bị tróc da đôi chỗ và đang đóng vẩy, ông đi ra ngoài. Sau đó, nhớ lại sự việc này như một câu chuyện chưa hoàn chỉnh.
Nếu quả là họ phụ thuộc vào đôi cánh mỏng manh này để cùng vươn lên thì lúc ấy bà không thể truyền sức mạnh cho chúng. Đằng nào rồi mình cũng sẽ nói chuyện với anh ấy, bà cảm thấy như vậy. Làm như bà không thể nói lên được lời thề thốt cuối cùng về tình yêu và sự phục tùng. Khi đó bà không làm thế được, bởi bà chưa sẵn sàng. Trong lúc đó, bà tiếp tục nhào bột, chỉ có thể nhào bột thôi, hoặc xé những tờ lịch, hoặc ngắm nhìn qua cửa sổ cảnh lá khô trên những cành cây héo.
Mùa thu năm đó không vàng hơn mùa hè vừa qua; bà đã cứu được một, hai bụi cây nhờ một vài giọt nước dành dụm từ bồn rửa. Bụi từ Durilgai thổi xuống đường cái thành những cái lưỡi đói khát hoặc xoáy lốc, như đùa giỡn, cho đến khi chúng đạt sức mạnh điên cuồng dữ dội. Giai đoạn đầu của hạn hán, trong khi sự kháng cự còn gắn liền với lòng tự trọng, các cửa sổ của ngôi nhà đều đóng im ỉm. Những ngày tháng trôi qua, càng hiển nhiên là không có bức rào nào thực sự ngăn cách những gì đang xảy ra, nên bụi trên đường lắng đọng, những ngọn lá dễ gẫy và những búi cỏ trắng xuất hiện tinh tế trên thảm, các cửa sổ lại bắt đầu mở. Thỉnh thoảng những cánh màn ve vẩy một cách tuyệt vọng trong gió lộng. Bụi đã bay vào các ngăn kéo, bắt đầu lấp kín chiếc giày nhỏ bằng sứ mà người đàn bà đặt trên mặt lò sưởi, nơi thường cắm hoa violet hoặc những chùm hoa nho nhỏ, dĩ nhiên nay trống không.
Đây có thực sự là nhà mình không? Bà nghĩ thầm, tay cầm chiếc can trống rỗng dừng lại, qua những cây trúc đào đầy bụi, chị ngắm nhìn những bức màn phe phẩy bên tường nhà.
Thỉnh thoảng chồng bà, vốn có những lo toan riêng của mình, tự nhủ sẽ nhắc vợ đang xao nhãng cửa nhà, và phải làm gì đó đi thôi, nhưng ông lại trì hoãn, bởi đó là điều ta thường khất lần khất hồi, vì tế nhị hoặc vì thương hại.
Lúc này ông đi vắng, tới buổi bán máy móc nông cụ diễn ra tại Wullunya. Người vợ còn nhớ cái hôn của ông khi bà đứng đó trong mảnh vườn khô cằn. Sự âu yếm hiền hòa theo thói quen của ông khiến bà bực dọc mỗi lần nhớ lại. Thế rồi bà bắt đầu khóc thút thít, chẳng rõ vì duyên cớ gì, ngoại trừ cái chạm vào làn da ngày càng khô khốc, ram ráp do bụi khi bà liên tục phải chạm, đập vào cánh tay mình. Chiếc can tuột khỏi tay bà, rơi xuống đất rắn với tiếng khô không khốc.
Cuối cùng bà xẵng giọng nói:
- Thật buồn cười.
Bà cố trấn tĩnh lại, tiếp tục bước thẳng qua mấy bụi cây trong vườn. Chẳng ai nom thấy bà.
Lát sau, khi đã uống chút trà và cảm thấy khỏe khoắn hơn, bà lại đi ra ngoài và ngồi ở hàng hiên. Chiều thu ăm ắp sáng trong nhưng tất nhiên là khô, chim hót thánh thót. Gió trở lạnh khiến bà run run. Gió từ phía Durilgai thổi về, làm những cành khô và những ống bơ buộc lỏng kêu lách cách.
Tuy chẳng quan tâm, bà cũng nhận thấy một chiếc ô tô từ Durilgai đến, chiếc ô tô nhỏ, màu xanh, còn khá mới, có lẽ từ thành phố về, vạch dài bụi mịt mù. Bà ngồi ở hàng hiên nhìn ra, bởi vì người nào mà chẳng nhìn. Ngày còn con gái, thời xe ngựa, hẳn bà đã bước xuống tận cổng để xem, nhưng bây giờ thì không.
Chiếc ô tô tiếp tục lao đến gần, và bà vẫn nhìn. Một người đàn ông bước ra, đi lại con đường mòn, sau khi loay hoay với chiếc then cài cổng. Bà vẫn ngồi quan sát, vẻ thờ ơ hoặc mỉa mai, bà có thể và lẽ ra phải bảo cho anh ta biết cái khác biệt của then cửa, song cùng với vẻ mỉa mai ấy, bà để mặc anh mang hai chiếc hòm nặng đi về phía con đường mòn khiến nét mặt anh căng thẳng, kéo trễ cổ áo xuống, lộ rõ cần cổ dài.
Người đàn ông nom như một khách buôn. Anh hỏi bà có thích một số vải vóc anh ta mang theo không. Có cả bít tất, đồ lót và cúc áo trang trí nữa.
Nhưng bà chỉ mỉm cười đầy ngờ vực, lắc đầu. Mặt bà vô cảm và lặng lẽ vì vừa mới thoa phấn lên mặt một cách vụng về và lơ đãng, lúc ở trong nhà, điều này càng làm tăng thêm vẻ lạnh lùng xa vắng và tạo cho bà có dáng nét của những pho tượng nhỏ ở nơi công cộng, vô cảm đến chết người. Bà cũng to lớn, đang ngồi ghé một bên trên chiếc ghế cứng.
Người đàn ông đang nói dở bỗng ngậm miệng lại, quỳ xuống.
- Xin chị làm ơn làm phúc. - Anh ta nói. - Chí ít thì chị hãy nhìn qua một tí. Có mất gì đâu.
Tuy hơi thất vọng anh ta vẫn không bỏ xuống cái áo giáp đồng đang khoác lên.
Người đàn bà da trắng, to béo nhẹ nhàng cười người đàn ông trâng tráo kia khi bà ngồi nhìn đôi bàn tay của anh ta. Anh bắt đầu lôi từng súc vải từ trong một hòm ra. Anh nói:
- Chỗ này để chị xem thử thôi. Tôi còn ở ngoài xe kia nữa. Hàng Pháp. Thứ hàng này rất hay. Mặc rất nhã. Các bà quý phái thường thích hàng nhã. Phải nói với chị là cực kì khác biệt. Loại này tốt đấy. Mặc nổi lắm. Rực rỡ mà không chói lóa. Hay cái này. Phải mặc được hàng năm trời. Nhưng vì chị không khoái, thì cũng đành vậy. Màu xanh lục thì sao? Các quý bà cũng hay mê tín lắm. Tôi có thể chỉ cho chị cái thắt lưng hợp với nó. Rất phải chăng và nhã. Khác hẳn nhé. Một bộ cúc nữa này. Sơn móng tay. Màu hồng nhé? Các cô gái trẻ đều mê mệt. Dĩ nhiên chẳng phải là không sẵn. Thích hồng, xin có ngay. Nhưng chị cứ thong thả. Xem cái đã. Xem thoải mái, tôi luôn nói thế. Ta có cả ngày cơ mà.
Rồi sau khi đã chất thành đống hàng dưới chân bà, như những con rắn lổn nhổn, chui ra chui vào cái hòm, trên vỉa hè, anh ta quay lại và bắt đầu ngắm ba con gà mái từ phía hông nhà đi tới, chúng vừa đi vừa mổ trên những con đường nhỏ, không đếm xỉa gì đến anh ta, mắt chăm chú, bước quanh bụi hương thảo. Anh đành châm một điếu thuốc lấy trong chiếc hộp bé chạm trổ, cách đây mấy năm một lũ bạn đã tặng. Anh nhìn những quả bí kết thành hàng dài trên nóc một lán trại. Anh rít một hơi thuốc. Mọi việc đều diễn ra trong vườn. Và lúc đó anh không thể tin được tất cả những gì có thể nhìn thấy trên những mảnh đất chung quanh bị lớp cỏ héo khô che lấp. Anh không biết tên các loại cây nên không có cái cảm khoái gì. Anh chỉ có thể hút điếu thuốc đắng và nhạt nhẽo.
Nhưng người đàn bà, ngồi giữa những cống phẩm đủ sắc màu, cứ nhấc lên đặt xuống như để tìm cảm hứng, cuối cùng, bà nói:
- Xin lỗi, tôi có cả rồi. Không có thứ gì tôi thích cả!
- Vài người thật may mắn lắm, - anh ta nói, không hề tức giận nhưng gần như thế.
Anh ta gấp lại, miết cho phẳng, cho vào hòm và chuẩn bị sập khóa. Tất cả đã được cất đi. Trong khi đó, bà quan sát đôi bàn tay của anh có vết ố trên vài ngón. Anh thuộc loại người có da và tóc hung hung đỏ. Nom thật gớm ghiếc, bà nghĩ thầm. Người đã bắt đầu phát phì. Nếu không bôi sáp thì tóc anh có lẽ đã dựng đứng. Song bà vẫn tiếp tục theo dõi những động tác ảo thuật anh đang biểu diễn. Bà như bị mê hoặc bởi điếu thuốc trơn nhẵn đang nhả khói.
Đoạn anh ta đẩy mấy chiếc hòm về phía sau, như thể bỗng dưng khinh miệt cuộc sống ma mãnh, tinh vi của mình. Anh nói:
- Hừm, ở đây khô thế.
Chiếc mũ lật về phía sau, cái đầu anh nom trần trụi và tang thương.
- Trong những năm sống ở đây chúng tôi hầu như đã trải qua mọi thứ, - bà vừa nói vừa nhìn quanh xem xét. - Lụt lội, hỏa hoạn, hạn hán. Nhưng chúng tôi không hề chết đói.
- Chị nói như thế là thế nào? - Anh ta hỏi bâng quơ.
Nhìn anh chàng đứng chống tay lên hông và đứng kiểu đó, người to béo, chắc nịch, bà không thể tin tưởng ông ta được. Nhớ lại chồng mình - trên thực tế bà chẳng bao giờ thoát được ông lâu - bà nói:
- Chồng tôi tin ở Chúa. ít ra tôi cũng nghĩ như thế. Chúng tôi chẳng bao giờ nói đến chuyện ấy.
- À. - Anh ta nói.
Người đàn bà đứng phía trên anh ta, nơi hàng hiên nhô lên và nhìn xuống, bà trầm ngâm suy nghĩ, nên anh ta cho rằng bà đang nhìn sâu vào mình. Anh cũng chẳng cần. Cơ hàm anh máy động. Bà ta là một phụ nữ đang về già, phức tạp nhưng vô hại.
- Chị có theo đạo không? - Anh hỏi.
- Tôi không biết, - bà nói. - Tôi không biết mình phải tin cái gì nữa. vẫn chưa.
- Tôi không bận tâm đến chuyện đó lắm, - anh nói.
Anh nhổ nước bọt vào bụi cây, song ngay tức khắc băn khoăn không biết mình có nên làm thế không. Nhưng bà không hề để lộ cảm nghĩ của mình. Bà là một người phụ nữ trầm tĩnh. Chẳng có dấu hiệu của chê trách, chỉ có tiếng côn trùng bâu quanh cái tổ đen sì bên dưới cái mái nhà.
Bà cũng nghe thấy. Đó là âm thanh rộn ràng.
- Chẳng biết chị có cốc nước nào không? - Cuối cùng người đàn ông nói, tai anh ù lên. - Tôi khô không khốc đây.
- Có, - bà nói, nhướng mắt dứt ra khỏi giây phút suy tư và nhoẻn miệng cười.
Hơi ngớ ngẩn, anh nhủ thầm, nhưng ưa nhìn, hoặc đã có một thời như thế.
Anh ta đi theo bà vào trong nhà, bà dẫn lối trong sự thân tình của tiếng đồng hồ và thinh lặng. Đôi giày bóng loáng của anh giẫm mạnh lên lớp lót sàn, nơi bụi tích lại. Đế giày cao su kêu xào xạo. Khắp nơi, ánh sáng lờ mờ của ngôi nhà không người ở như mở ra đón anh, phả vào anh mùi hương thoang thoảng của sự sống và đồ đạc. Anh bỗng dưng cảm thấy chưa bao giờ mình đi sâu vào một căn nhà nào, ít nhất là cái kiểu hộp nông choèn của mình mà ít khi anh bước vào, rồi bật máy thu thanh.
Khi dẫn anh vào nhà, bà như cảm thấy anh như người lạ trong bộ cánh sang trọng. Trong ánh sáng lờ mờ ngoài hành lang anh ta nom khá to lớn, mang giày cao su kêu lép nhép, béo, ho khàn đặc, húng hắng, thầm thì những lời nhàm chán mà những người mau chuyện thường phải thốt ra. Bà vừa phấn khích vừa bối rối khi phải đưa anh ta vào những nơi kín đáo trong nhà. Nhưng trong suốt thời gian đó bà vẫn nhớ rằng mình rất khó chịu về anh ta, nhất là màu da và mớ tóc hung hung đỏ. Cả những ngón tay cáu ghét với những vết ố màu nâu.
Hai người đã vào đến bếp, một căn bếp cổ, tương đối rộng. Những đồ đạc bình thường nhưng sống động kia chạm vào thật dễ chịu. Thế là anh nghiễm nhiên tì đốt ngón tay lên mặt chiếc bàn to và cũ, đợi bà nhanh chóng mang cho cốc nước từ trong một cái túi vải bạt.
- A, - anh ta nói, hất đầu về phía sau và vặn vẹo cái cổ, chuẩn bị pha trò. - Sóng này đủ đánh chìm tàu!
Anh ta ám chỉ cốc nước sóng sánh.
Bởi vì ở đấy cái gì cũng lạ. Ta đang tiến đến cái gì đây, anh cảm thức khi nhìn đôi mắt trong suốt của người đàn bà. Da thịt mịn màng của bà run rẩy và co lại như thứ nước nhợt nhạt kia.
Anh uống cạn chỗ nước còn lại trong cốc, nó rất mát. Một bầu không khí ngây thơ bao phủ khắp căn bếp.
- Tôi muốn có một dòng suối, như những người ở dưới đường kia, - Amy Parker nói, dứt ra khỏi cơn mê li bà vừa trải qua, dường như đã bao nhiêu năm nay, và lời của bà cứ tuôn nhanh và lấp lánh như nước chảy. - Anh hãy tưởng tượng nó thoát ra khỏi lòng đất. Anh có thể hứng nó, trong vắt, không một lá cỏ dại, hay gì cả. Nên tìm một dòng suối trước khi làm nhà. Nước trong bể chứa chẳng được như vậy đâu.
Nói xong bà nín thở bước tới cầm lấy cái cốc. Lòng can đảm tăng lên cùng lời nói, vượt qua sự lúng túng của cử chỉ.
- Vâng, - anh ta ngập ngừng. - Chẳng gì bằng nước suối mát lạnh.
Anh ta nhận thấy bà cao gần bằng mình.
Bà nhận thấy những lỗ chân lông trên làn da đỏ của anh, điều làm bà day dứt.
Rồi hai người ôm ghì lấy nhau. Hai hàm răng va vào nhau. Hai vòng tay quấn chặt.
A, a, người đàn bà Amy Parker thở mạnh, vì bà vừa nhớ ra một cái tên mà bà không tài nào dứt khỏi được. Có lẽ bà có thể đã kìm giữ mình, nhưng chỉ trong giây lát, trước khi lao sâu hơn vào sự hủy hoại.
- Chúng ta làm sao thế này? - Người đàn ông đang thở dốc hổn hển nói, nhưng không muốn nghe câu trả lời.
Vùi trong da thịt của người đàn bà, anh đã trở về với thời trai trẻ, thời kỳ tuổi thơ mộng đã biến đi và cuối cùng lại trở về.
Amy Parker cầm tay người đàn ông. Những ngón tay của họ đối với nhau lạ lẫm làm sao. Giờ đây khi khát vọng không còn nữa, họ đứng run rẩy bên nhau trong những khoảng trống giá lạnh. Nhưng sau khi lột áo quần khỏi thân thể trần trụi, lửa bùng lên trong họ và trong ngọn lửa rực đó họ có thể cháy rụi, nhưng mặc kệ hậu quả thế nào.
Họ ngả vào chiếc giường gọn gàng nơi Amy Parker đã ngủ gần trọn đời mình. Bà chập chờn nhìn thấy tất cả những vật sở hữu mà mình đã mất đi trong cơn hiểm họa. Bà nhắm mắt lại. Người đàn ông rút ra khỏi những dải ruy băng da thịt dịu khuây của bà. Nhưng khi chị nắm chiếc sọ của anh, cố gắng đi vào, bà không thể, mồm thâm tím lại khi va phải hai cái hốc. Đó là cái đầu của chồng bà. Rồi chị khóc và đặt môi lên cái mồm. Như thể mình đang nhổ toẹt vào mặt chồng, hay tệ hơn nữa, vào Thượng đế huyền bí của chồng mà bà chỉ thoáng nhìn thấy chứ không đi sâu vào được. Vì thế bà đang vật lộn với sự kinh tởm, và đang khóc cho sự hủy diệt của chính mình trước khi bà bị tàn phá, vì bà phải tàn phá. Những đợt sóng khoái lạc triền miên đang đưa thân thể giam hãm của chị đến tận điểm kia.
- Này, hãy cẩn thận, - hơi thở nóng của anh thì thào vào tai nóng bỏng của bà.
Gạt sang một bên nỗi ngạc nhiên và lo sợ, anh nhanh chóng đạt tới đỉnh cao vừa phải trong khả năng của mình, của nhục dục nhàm sáo và khát khao, của lời lẽ nhạt nhẽo và thân thể nồng ấm. Giờ đây anh cố làm dịu cơn người phụ nữ với đam mê trào dâng quá những giới hạn anh biết.
- Hãy bình tĩnh lại nào, - anh cười phá lên, đặt bàn tay to lớn nặng nề lên người bà. - Tôi không chạy trốn và bỏ em đâu.
Nếu anh ta không bằng bà về mức độ đam mê, thì anh vẫn hơn bà về sự thỏa mãn nhanh chóng cơn khát vọng. Vì thế anh ta gắng gượng cười được, vẫn châm một điếu thuốc khác, và quan sát tâm hồn đang day dứt đầy bí ẩn trong thân thể bà.
Cuối cùng bà bình tĩnh lại. Bà ngây thơ trong sự bình tĩnh kia. Anh ta sờ lên cặp đùi kỳ ảo của bà, nhớ lại mình đang đứng trên bờ trắng của một con sông lớn nhưng hầu như khô cạn, và đang bắt lươn, hồi còn là một cậu nhóc. Ánh sáng ngây thơ từ bên dưới bức rèm rọi chiếu khuôn mặt đầy đặn của anh, và những con lươn đang vùng vẫy khi bị lôi lên khỏi bùn, bản thân anh cũng mềm mại, vàng óng. Sáng hôm ấy hình như là buổi sáng toàn vẹn duy nhất trong đời anh. Hai bờ sông như chạm trổ. Tất cả mọi thứ, cả những trải nghiệm đều tuột khỏi tay anh trong hỗn độn.
- Cái gì thế? - Bà mở mắt hỏi.
- Chẳng có gì cả, - anh trả lời. - Tôi đang suy nghĩ.
Anh bắt đầu nghĩ đến người vợ của mình, một con người gầy gò. Chị ta mắc bệnh ho vì nghiện thuốc. Chị đan áo chui đầu, hết chiếc này đến chiếc khác, đây như một thói xấu của chị: duy trì sự liên tục của sợi len đặc biệt là về đêm.
Nhưng anh ngừng lại tại đây.
Anh vừa nhớ ra điều gì. Anh ngả người về phía trước, xem xét làn da của chị, qua làn khói thuốc.
- Người ta gọi anh là Leo, - anh nói.
- Leo, - chị nhắc lại giọng buồn tẻ.
Bà không chấp nhận, cũng không bác bỏ. Trong trạng thái lơ mơ đó ngay cả đến tên mình bà cũng chẳng nhớ.
Bà cọ má vào khăn trải giường, vẫn còn mùi vải mới giặt, không hề bị ám khói thuốc lá. Nhục dục không để lại dấu vết ngay. Thay vào đó vô số hình ảnh nho nhỏ của khoái cảm và âu yếm bập bùng trong bà. Một vài trong số đó chẳng rõ ràng nhưng bà đã có thể lý giải được, như lý giải biểu cảm trên gương mặt người chồng bà trưởng trạm bưu điện, hay những bức họa ông để lại như một lời biện hộ cho cuộc đời mình. Bà cũng được gần gũi với những tâm hồn khác, như ông O’Dowd, người láng giềng: bà đã ngồi với y trên hiên nhà, qua lại những lời thô tục, lấp chỗ trống giữa đôi bên bằng những sự tục tĩu và những cơn say, cho đến khi bà cũng có thể yêu con người đó, đi sâu vào tội lỗi. Đôi khi, những giấc mơ của con cái bà trên những chiếc giường khác trong nhà, những giấc mơ không bao giờ thực sự tản mát, quyện vào ảo mộng khiến bà nghĩ rằng đến lúc nào đó mình cũng sẽ hiểu được ngay cả con cái của mình.
Bà lại mở mắt và nom thấy anh chàng tên là Leo đang chiếm căn phòng, đang mặc quần áo hết sức tài tình. Bà nhìn rõ qua kẽ mắt dây đeo quần của anh ta buông xuống ra sao.
- Mở cửa sổ ra, Leo, - bà nói - Trong này ngột ngạt lắm.
Anh ta chỉ mong được làm có thế, vội vàng giúp đỡ. Anh còn phải đi xa, thậm chí đi xa hơn nữa để đuổi kịp mình, sau khi đã đi chệch hướng.
- Em có định dậy không? - Anh ra lệnh đúng hơn là hỏi nhưng không đủ sức mạnh; anh kéo cái nút ca-vát chặt quá, đến nỗi mặt đỏ ửng lên và bà nhìn thấy những tia máu trong mắt anh ta như xung huyết.
- Dậy ngay đây, - bà chỉ nói thế.
- Được, - anh ta nói. - Tôi phải đi đây.
Giờ đây không phải là lúc để hai con người vừa nhìn nhau thắm thiết như thế hôn nhau. Vì vậy họ chỉ chạm vào nhau theo cách đó, bà nghe thấy tiếng anh ta bước nhanh qua căn nhà và không nghĩ về anh nhiều hơn nữa trong lúc bấy giờ, như thế anh ta không còn quan trọng đối với bà nữa. Bà nằm yên mỉm cười mơ màng. Nếu như bị hủy hoại thì bà vẫn chưa mất linh hồn.
Rồi trong khi gió thổi tung tấm rèm lên và thả nó rơi xuống, con mèo vào phòng, một con mèo tam thể đực, bà nuôi lòng thương mến từ bé và giữ lại, đôi lúc hối tiếc khi hai má nó xệ ra. Con mèo lúc này luồn qua khe cửa sổ, nhảy xuống trên đôi bàn chân nhung, đến cọ mình vào người bà.
- Tom, xuống đi, - bà thì thầm, không tỏ ra phản đối nữa.
Cảm thấy bộ lông khi con mèo đáng tha thứ cọ cọ và âu yếm khi bà nằm vô lực. Con mèo to nịnh bợ, áp lớp nhung mát vào da thịt nóng ấm của bà. Rồi bà cảm thấy cái đuôi nó kéo lê giữa đôi vú mình. Nó làm bà nổi da gà. Bà ghê tởm vô cùng.
- A, a… - Bà thét lên. - Đồ súc sinh!
Bà giật lùi, tung con mèo đập mạnh vào chiếc bàn trang điểm. Con vật kêu oai oái, rồi lại bật dậy, để lại mình bà với sự im lặng và khuôn mặt của chính mình.
Hình như mọi chuyện đã vỡ vụn từ sáng sớm. Chỉ tại cái cốc đáng nguyền rủa kia, và tóc bà xổ tung ra, buông xuống lòa xòa, thành những lọn, những mớ hoa râm. Bà đang suy sụp. Và bây giờ bà bắt đầu run bắn cả người.
- Rét quá, - bà run lên, đưa hai cánh tay che vai và ngực, như thể làm thế bà có thể khỏi run.
Bà bắt đầu mò mẫm tìm quần áo.
- Muộn rồi, - bà lại run. - Đã đến giờ vắt sữa, mà ta chỉ có một mình.
Bà đi xuyên qua căn nhà như một luồng gió quay lại hoạt động, giật tung những cánh cửa phía sau khi bà đi qua, nhặt nhạnh thứ này thứ nọ, xô nước, miếng giẻ sạch dùng để lau núm vú bò. Tạm thời việc hoạt động trung thực và kiên định này cuốn hút bà, vì thế bà không tài nào nhận ra chỗ đứng của mình, mãi đến khi bà đến gần mấy cái lán và trước giờ vẫn không thể ngờ rằng chúng vuông vức, đáng ngại, bằng gỗ trắng bệch. Những con bò chậm chạp đứng nhìn bà, và sau đó, trên những cái giá đỡ đầu, chúng quay đầu lại trước sự khác biệt nào đó trong bàn tay bà, hoặc sự bực bội, hoặc sự vội vã, và nhai lại thức ăn trên những cái lưỡi màu xanh.
Khi Stan Parker trở về, ông thấy vợ như đang nhức đầu. Tóc bà rẽ ngôi rất cẩn thận, xương trên mặt bà nom rất rõ. Đôi khi sau cơn đau đầu, hoặc có điều gì suy nghĩ thầm kín, da thịt trên khuôn mặt bà trở nên xám xịt, như lúc này. Nom nó bềnh bệch hơn. Ông lập tức quay nhìn chỗ khác, và bắt đầu kể cho bà nghe về công việc mua bán ở Wullunya, về những người anh đã gặp, về bệnh tật, chết chóc và cưới xin. Bà cúi đầu và tiếp nhận những tin tức trên với tấm lòng tri ân, thậm chí một sự khiêm nhường.
Bà muốn làm một cái gì đó cho ông.
- Miếng này ngon này, anh Stan, - bà nói. - Có phết mỡ anh vẫn thích đấy.
Bà thái, chặt thì đúng hơn, vì chị vốn rất vụng về trong việc biến một tảng thịt bò nướng thành một miếng đỏ có một cạnh mỡ vàng. Mặc dù đã no và sắp đẩy chiếc đĩa ra, ông vẫn phải nhận lấy miếng thịt, vì nghĩ rằng như thế bà sẽ vui lòng.
- Em chẳng ăn gì cả, - ông nói.
- Không, - bà nói, môi trễ xuống, làm như ông vừa nhắc đến một thứ gì khiến bà buồn nôn. - Gió suốt ngày hôm nay. Em chẳng thiết ăn gì cả.
Và bà đứng lên đi làm việc này việc nọ.
Ông nói:
- Gió mãi thế này thì đến giọt nước cuối cùng cũng khô luôn.
Thế là bà nhìn ra đám cỏ vàng đang ngả rạp trong ánh nắng xế chiều màu vàng thau; xa xa một số người chào hàng xuất hiện.
Bà nói với giọng to hơn bình thường:
- Chiều nay có một người đến đây. Mang lên rất nhiều hàng.
- Hàng gì thế? - Ông hỏi, bởi cuộc sống của họ được tạo bằng câu hỏi và trả lời.
- Vải may quần áo, à, và nhiều thứ trang trí đẹp lắm.
- Em mua những gì?
- Em phải mua gì nào?
- Anh không biết, - ông nói - Ờ, mua đăng-ten!
Ông cười phá lên vì cái từ ấy, cái từ mà mãi đến lúc ấy ông mới thốt ra.
- Vào cái tuổi em bây giờ á? - Bà cũng cười vang.
Bà đưa tay lên cổ hình như để cho tiếng cười thoát ra mạnh mẽ.
Tuy nhiên ông rất hài lòng. Ông cầm lên tờ báo ngày hôm qua, để có việc làm hơn là để tìm hiểu thêm chút ít tin tức mà mình đã biết, bởi vì ông cũng chẳng còn hy vọng biết thêm nữa, trừ khi đó một sức mạnh khai minh thần bí nào đó. Thế là ông đọc liền một mạch tất cả các tin tức về việc làm của các chính khách, các binh sĩ, các nhà bác học, trong khi dành lại cho mình một chuyện quan trọng hơn sẽ xảy ra, khi đó vợ ông ngồi và khâu.
Một lát sau ông nói:
- Anh gặp một anh chàng tên là Organ ở Wullunya. Anh ta là cháu cái bà mà bọn anh cứu sống trong trận lụt. Anh còn nhớ bà ta. Người nho nhỏ với một cái máy khâu bà ta phải bỏ lại. Ông của cậu này bị chết đuối trong trận lụt. Người ta tìm thấy ông cụ mắc trên một cành cây.
- Được rồi, thế thì sao? - Vợ ông nói giọng hơi gắt. - Trong quận này thì người nào mà chẳng trải qua lụt lội. Vài người có họ hàng, bà con chết đuối. Thế anh chàng kia có nói chuyện gì lý thú không?
- Chẳng có gì đặc biệt, - Stan Parker nói.
Vợ ông nheo mắt xâu kim. Bà đã có thể nổi cáu ghê gớm lúc bấy giờ dưới ánh điện sáng chói lan tỏa khắp phòng.
- Anh ta làm sao? - Bà thì thầm khàn khàn.
- Anh đã nom thấy ông cậu ta rồi, Amy ạ - Stan Parker nói - Một ông già có chòm râu, treo lủng lẳng trên cây, đầu dốc ngược. Và bọn anh chèo thuyền qua. Chẳng còn ai khác nom thấy. Ông cụ gần như chắc chắn đã chết. Anh muốn nghĩ rằng đó là một con cừu đực. Có lẽ lúc đó anh đã tự thuyết phục mình, trong khi vẫn còn thì giờ để nói ra. Nhưng bọn anh vẫn chèo tiếp. Sau đó thì đã quá muộn.
- Nếu đó là một xác chết thì sao? - Amy Parker nói.
Nếu là như vậy, người thanh niên vẫn tiếp tục chèo thuyền năm xưa cũng nghĩ thế.
- Có thể những người khác cũng đã nom thấy, - vợ anh nói tiếp một cách tế nhị, vì bà đã luồn được kim, - và rồi cũng chẳng nói cho ai biết cả, bởi vì chẳng vui thú gì dừng thuyền lại để kéo xác một ông già lên.
Song tội lỗi vẫn còn, bởi thế, ông thấy mình hèn mọn.
- Toàn những chuyện vớ vẩn, - người vợ nói.
Bà cũng có cái xác của riêng mình mà không thể chia sẻ. Bà đứng trong đơn độc vô hạn, trên bờ sông mênh mang nước lũ, những chàng thanh niên khỏe mạnh bơi thuyền đầy oanh liệt qua dòng nước đục ngầu sủi bọt, bơi về phía bà, trên thuyền có cả chồng bà, người cuối cùng bà nhận ra nhưng không tài nào trao đổi được.
Amy Parker cất kim khâu vì hai tay bà run bần bật. Giờ đây bà không cảm thức được đã bao giờ bà kiểm soát rõ ràng được hành động của mình chưa. Ở bất kỳ thời điểm nào của đời mình, trận cuồng phong cũng có thể thổi bay bà bằng sức mạnh dị thường đi khắp các phương, mà đột nhiên chẳng khó khăn gì.
Vừa lúc đó gió thổi thốc từng cơn dữ dội, đập vào thanh sắt mà đóng chặt vào căn nhà gỗ. Cành của các bụi cây chết héo cào vào tường. Nếu chẳng may cái nhà trốc mái, bà thì thào.
Nhưng trong lúc đó bà lại đi ngủ, tay giữ mớ tóc. Bà tháo cặp để tóc xõa xuống và nhìn vào bản thân, còn người chồng vừa tháo ủng vừa nói:
- Có phải cái gã đến bán hàng đi ô tô màu xanh lá cây không?
Bà đang cầm một chiếc cặp tóc.
- Em chẳng nhớ nữa, - bà nói. - Cũng có thể là màu xanh lá cây. À không. Màu xanh lam, hình như thế. Mà sao cơ?
Nhìn vào khuôn mặt mình như bị kẹt trong chiếc gương. Stan Parker vừa lôi nốt chiếc ủng thứ hai vừa nói nhát gừng:
- Có một chiếc ô tô xanh lá cây đỗ dưới đường, trước khi em đến nhà O’Dowd. Hình như anh chàng ấy đang bán cho một phụ nữ vài đồ bếp núc.
- Em đã bảo rồi, - chị giận dữ nói. - Không phải đồ làm bếp đâu.
Và bà cảm thấy rạo rực vui thú về những điều đã trải qua ngày hôm ấy. Da thịt xám xịt của bà bừng trở lại. Bà hồng hào và phấp phới trong căn nhà gỗ lộng gió này, nơi hình như dành cho cả cái xấu và cái tốt. Trong tâm trạng như vậy bà sửa lại tấm chăn dưới cằm, không hề nhìn mặt chồng, sợ rằng quá thiên về cái tốt sẽ có thể xáo động cái thế cân bằng dễ chịu lúc này. Tất nhiên là bà yêu chồng. Bà đi vào giấc ngủ với niềm tin ấy. Nhưng những thôi thúc khác không thể nào đong đếm được đang chuyển động cùng với bức rèm cửa gió thổi bay phần phật. Nó gõ vào da thịt với những ngón tay hoen như làm bà già thêm mười tuổi, bà không thể, bà cười và tự nhủ, không phải số học hay cái đuôi mèo.
Stan Parker đã ngủ mê mệt; trong cơn gió ông mơ thấy mình không sao nhấc nổi cái nắp hộp kia để cho vợ thấy ông có thứ gì trong đó. Chẳng sao, bà nói, bàn tay nắm giấu khăn rửa bát. Nhưng ông không nhấc lên được. Chẳng sao đâu, bà nói, em không muốn xem đâu, anh Stan ạ. Anh sẽ cho em xem, ông nói, cố giật mạnh đến toát mồ hôi. Nhưng vẫn chưa được. Đừng, bà nói, Stan, Stan, nó hỏng rồi, nó đã ở trong ấy bao nhiêu năm nay. Giật cái nắp, anh không thể giải thích hành động của anh đã chết, và mọc lông, như con cừu đực và sống lại. Em đi đây, bà nói. Cái khăn rửa bát bay qua ô cửa. Bay qua nhà bếp. Nước xám đang chảy giữa hai người.
Rồi ông thức giấc, duỗi thẳng người trên giường, chân ghim chặt tấm vải đệm vào thành giường, cổ ông trần trụi, đầy mồ hôi lạnh. Nhưng bà đang thở. Bà không đi. Rồi ông hiểu ra. Ông hiểu người chồng của bà trưởng trạm bưu điện treo cổ trên cây trong sân, nguyên do hành động của ông ta đối với ông vẫn luôn mờ mịt. Ta có thể tự tử, ông tự nhủ, môi mím chặt. Nhưng bà không đi. Bà đang thở. Thế là anh nằm nghiêng quay lưng lại bà, co đầu gối lên cho thoải mái, hơi ấm của bà lại chảy qua mạch máu ông, dần dần ông ngủ thiếp đi, ông đang ngủ, ngủ vì bà đang ở đó.
Mặc dù thế, họ thức giấc hơi nặng nhọc, và nặng nề bắt đầu công việc của họ, nói chuyện với nhau bằng một giọng nhỏ nhẹ, ảm đạm.
Chúng ta phải chờ đợi chuyện này ở vào tuổi này, ông nói, và cái rét đang đến.
Nhưng khi mặt trời cuối cùng đã mọc, và nó còn là một quả bóng ngây thơ, có thể nhận ra được, đung đưa trên các ngọn cây, Amy Parker đã nhìn thấy một mùa thu huy hoàng và trong sáng. Tất cả lá cây vẫn chưa bị dứt khỏi những cành mà rốt cuộc sẽ trụi lá. Vẫn còn những mảnh rách vàng và bụi cây thường sẫm màu gần như đen kịt. Ánh sáng chiếu thành từng mảng trên các đám cỏ bốc khói, óng ánh.
Cuối ngày, bà bỏ khăn quàng cũ, áo len và mũ thường mặc buổi sáng phòng rét, khi bà buồn bã, càu nhàu và đắn đo, người bà nom như một đống len dạ lộn xộn, xấu xí và ố màu. Bà hất tóc về phía sau. Thỉnh thoảng rỗi rãi, buổi chiều, bà đi bộ xuyên qua cánh rừng, dọc theo lòng suối, nơi có thể tìm thấy nhiều vật kỳ lạ như đá, da rắn, vỏ đậu và xương lá. Bà thường tìm kiếm thứ này thứ nọ, nhặt các cành lá để có một cái gì trong tay, để có lý do cho việc đến đây. Rồi khi ánh sáng tỏ hơn làm đôi mắt nặng xuống, bà mạnh dạn nhớ đến những gì xảy ra. Đó là thứ ánh sáng trơ tráo chạm đến mọi thứ. Bà lại nghĩ đến anh chàng Leo, tránh gợi lại những điểm trong con người anh mà bà kinh tởm, để chỉ thấy những gì bản thân chị cần thiết cho hủy diệt và đổi mới của chính mình. Thế là bà trầm tư đi dọc theo lòng suối khô cạn, lật một hòn đá lên, nhật một chiếc lá, chọn những cành cây chết khô nhẵn bóng. Sự im lặng và những ý nghĩ táo bạo đã khích lệ bà đi từ phi lý đến đúng đắn. Nhưng cuối cùng, đến chỗ con suối uốn cong, khi bà đối mặt với chỗ rẽ, phải trở về cùng thân xác, trở lại với cuộc sống còn lại, bà kinh hoàng bước qua nội cỏ, cánh mũi hóp lại. Bà không thể bước đủ nhanh, dù để đến đích hay trốn tránh. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ người đàn ông kia sẽ trở lại, và khi ra đến đường cái, bà vui mừng thấy mình có thể nhìn dọc theo con đường một cách vô tư, dọc theo những búi cây nhỏ, xa hơn nữa, đến nơi nó chạm vào bầu trời.
Khi bà đã trở về cái khu chuồng quây quần quanh ngôi nhà, chân bước, mắt nhìn xuống đất, cố giữ dáng đi vì bước quá nhanh, chị nhìn thấy chồng ở đó, đang cầm một đoạn dây ông đã cắt và xoắn thành hình tròn, hẳn là để dùng làm một cái gì đấy.
- Chào Amy, - ông nói, cố ý dừng tay. - Em đi đâu về đấy?
- A, đi xuống bãi cỏ, - bà nói, - để hóng gió. Và leo dọc đường cái. Ở nhà mãi đến ôi cả người.
Ông dừng lại, và rồi hỏi tiếp, rõ ràng muốn tỏ ra ân cần với bà.
- Thế em có gặp ai không?
- Chỉ gặp một ông lão thôi, - bà trả lời.
Việc tức thời nghĩ ra chuyện này khiến máu bà lạnh cóng, nhưng khi đã ngẫm ra, bà tiếp tục đủ bình tĩnh quan sát khi sự tình phát triển:
- Ông cụ đang đi Wullunya, - bà nói. - Ở đó cụ có một khoảng đất. Cụ có lợn, ít gà, vịt và một vườn cam chanh. Tội nghiệp ông cụ, phải đi bộ vì con ngựa giở chứng gần Badgery, phải bỏ nó lại đấy. Cụ vừa đi thăm con gái ở Bangalay bị viêm họng.
Stan Parker lắc đầu bán tín bán nghi.
Bà quay đi, giữ lại chút xao động trong cuống họng, và nỗi lạnh lùng trước đợt sóng man trá bao trùm lấy bà.
Khi bà bước đi, ông nhận thấy mình chẳng bao giờ còn nhìn thấy đôi mắt của vợ nữa, hoặc rất hiếm, như lúc này, đôi mắt ấy tràn đầy sự xa cách. Thế rồi ông quay lại với sợi dây vừa mới cắt, mà trong giây lát ông đã quên khuấy mục đích đầu tiên của nó.
Hai người bắt đầu tử tế với nhau, như thế, mỗi người đều cảm thấy người kia cần được che chở bằng tình thương trong cái thế giới đầy những sự thật kỳ lạ mà giờ họ tìm thấy ở bản thân mình ở đó. Thế là họ đã làm những việc đơn giản để chiều lòng nhau, đều chỉ là nỗi buồn cho người nhận. Một tối, bà ướm những mảnh áo len đang đan cho mùa đông lên người ông, để lấy kích thước. Bà đi quanh ông, sờ vào người ông và vỗ vỗ sửa sang.
- A, bé quá, - bà nói, lùi lại. - Em đã không tính đến cái bụng bắt đầu phệ.
Rồi hai người cười phá lên, vì thật ra tất cả những cái đó chẳng có gì hệ trọng cả.
- Len sẽ doãng ra, - ông nói, bậm miệng lại, ngã về một bên chân, vì ông đang đứng chống nạnh đợi công việc hoàn thành.
Bà đi vòng quanh ông vẻ tư lự, sờ nắn thân hình của chồng, cổ tay ông đã hơi xương xẩu.
Ông cảm thấy tóc bà vờn quanh người mình. Đôi khi bàn tay ram ráp của bà vướng vào lớp len mềm mại. Trong khi bà khom người ngắm nghía, ông vẫn cao hơn bà nhiều, và nhắm mắt ra chiều quy phục. Giờ ông bị khóa chặt trong lớp len xám ấm áp không cá tính, không tốt không xấu, nhưng chấp nhận được.
Rồi ông mở mắt, hai người nhìn nhau, vì chị vừa đứng thẳng lên.
- Cuối cùng cũng ổn thôi, - bà nói nhanh, như có lỗi, để chuộc lại việc đã nhìn vào khuôn mặt ngái ngủ của ông. - Em nghĩ em có thể làm gì đấy để sửa cho nó vừa.
Ông mỉm cười, không có ý định mỉa mai, nhưng tối hôm đó ông thấy mệt.
Bà ngồi xuống và bắt đầu tháo ra một phần, rồi lại đan như điên, thả dài sợi len, giữ chặt que đan đầy lo âu.
- Em lo cho thằng Ray lắm, anh Stan ạ, - bà nói.
Đúng là bà cũng lo thật, khi bà ngồi ở cạnh ghế.
- Anh có cho rằng bản tính nó đã sẵn thế rồi không, mấy chuyện hư hỏng ấy? Hay là do giáo dục? Hay là do thừa hưởng một cái gì đó của chúng ta? Cả hai ta, ý em là thế. Như với gia súc ấy. Hai cái tốt cho ra một cái xấu. Có thể là chúng ta không pha trộn tốt. - Bà nói và chờ đợi.
Ông ngồi cằm tựa vào ngực. Ông chỉ muốn vứt bỏ cái gánh nặng bà đang đặt lên người ông sang một bên.
- Anh chẳng bao giờ biết mình phải làm gì, - ông nói, co rúm người lại. - Anh có lỗi trong chuyện này. Anh cố tìm ra câu trả lời, nhưng vẫn chưa làm được. Anh không hiểu mình và những người khác. Thế thôi.
Ông băn khoăn không rõ bà có để cho ông yên sau chuyện này không. Đêm nay ông cảm thấy yếu sức, cảm thấy có vị đắng trong mồm.
Bà tiếp tục đan. Bà đã thấy thoải mái. Lúc đó, bà có thể cảm thấy đau lòng và bực tức về người chồng yếu hèn mình lấy. Mọi khả năng xấu xa tiềm tàng trong bà đã trôi theo dòng len mềm mại khó nắm bắt. Vì bà tìm lại được sự vô tội, ký ức trườn trở về với thái độ uể oải của buổi xế chiều, khiến bà thảng thốt bàng hoàng trước sự trẻ trung cường tráng và khát vọng của bản thân.
Rất tự nhiên, vào một buổi chiều khi Stan đã đi đâu đó vì công chuyện hay gì đấy, và bà nom thấy chiếc ô tô màu xanh thận trọng trở lại, bà bước ngay ra khỏi nhà, hất tấm mắt cáo của cánh cửa ngoài mạnh đến nỗi nó đập mạnh vào tường và rung lên. Những nụ hồng héo nâu còn treo trên bụi cây già, cào vào da thịt bà khi bước xuống; bà cảm thấy bắp chân mình căng lên chẳng rõ vì lo lắng hay tự tin. Chẳng mấy chốc bà đã đến bên cổng, một, hai phút trước chiếc ô tô chậm rãi nhưng tai hại kia, và đứng thẳng, đầy ngang ngược trong ánh nắng đợi chờ.
- Thế nào? - Người đàn ông tên Leo hỏi. Anh ta lái xe khá thận trọng. Anh hất chiếc mũ về phía sau để cho bà có thể nhìn thấy mớ tóc bà kinh tởm nếu có thì giờ quan sát.
Thế nhưng, bằng một giọng đều đều và khá thản nhiên bà đã đáp lại:
- Cám ơn, tôi vẫn khỏe. Dạo này anh đi đâu?
Thế là anh ta buộc phải dừng xe chậm chậm, kể cho bà nghe mình đã đi nghỉ thế nào, họ đã đi về bờ biển bắc hay có lẽ bờ nam, bà không nghe rõ, và họ đã đi thăm họ hàng, có những giây phút tuyệt vời như thế nào. Giọng anh chậm rãi hơn trước đây thì phải. Bất kỳ nơi nào họ đã đi, mặc quần áo ngủ ngồi trong nắng, ăn cá tươi, và rỗi rãi ngồi chia sẻ với nhau những cảnh đời khác, bà nhận ra anh ta không phụ thuộc vào bà.
Bà nhìn xuống và chau mày. Anh ta là một kẻ đại lãn, bà nhủ thầm, và xấu xí nữa.
- Còn chị thì thế nào? - Anh hỏi.
- Tôi ấy à! - Bà cười vang. - vẫn thế.
Nhìn xuống.
Nhưng bà vẫn nhận thức rất chậm được ông ta đang làm gì, tựa vào vô lăng và khoan thai khạc nhổ.
Mình không bốc hỏa ư? Cái miệng khô khốc của bà tự hỏi. Tất cả chung quanh, khu vườn, hay những cái còn lại, cái cành củi, có thể bị thiêu hủy với một que diêm.
- Vẫn thế à? - Anh ta nhổ nước bọt qua hàm răng.
Thực ra anh ta đang hồi tưởng lại người đàn bà béo tốt đã lãng quên, vì một vài mặt nào đó làm anh sợ hãi. Anh ta cố tình quên. Hiện giờ bà đứng kia im lìm, người nom hồng hào. Chính sự im lìm đã làm anh ta bối rối hơn cả sự huyền bí của đam mê đang bắt đầu. Đối với một người đàn ông gầy gò. Bởi vì người đàn ông này gầy gò từ bên trong da thịt.
- Tôi cho rằng thế là tốt, đối với những ai thích. - Anh ta nói, đảo mắt nhìn quanh. - Tất cả mọi thứ này, đàn bò dưới kia. Sinh sôi nảy nở nhờ những bàn tay mát lành. Lạy Chúa!
- Đó là cuộc sống của tôi, - bà nói, vẫn giọng đều đều, không vang vọng như tiếng trống.
Vì tai bà đang ù.
Đoạn bà rụt đầu lại và nói:
- Ông là mẫu đàn ông hào nhoáng. Tôi cũng nghĩ rằng thế là tốt thôi. Quyến rũ người ta với mấy lời kia. Và chìa vải vóc lụa là ra cho đàn bà con gái xem.
- Chắc chị không thích tôi, - anh ta cười phá lên.
Rồi đóng sập cánh cửa xe, nhưng lại bước ra.
- Tôi không nói thế, - bà đáp.
Bà trở lại dịu dàng. Anh ta thích sự chuyển điệu đó, nó hợp với vẻ nam tính của anh. Thế là anh ta tiến lên, duỗi thẳng một chân tê cứng vì ngồi lâu trong ô tô. Còn bà tiếp tục đứng đó, nhẹ nhàng thăm dò tình thế như làn không khí, và vì nó trước hết là tình thế của bà, mà cần phải xử lý nhẹ nhàng. Đây là điều khiến bà ráng sức nhìn thẳng vào mắt anh ta, đôi mắt hơi húp, đã dạy bà nói những điều anh ta chờ đợi. Bà có thể đã theo dõi những sự phức tạp, rắc rối nhất của tình hình bởi chính bà cần điều đó.
Rồi hai người đi vào nhà.
Anh ta đặt tay lên chỗ thắt lưng bà, đưa bà vào chính ngôi nhà mình, và hoàn toàn bị động, bà nhắm mắt lại trong cảnh ảm đạm quen thuộc, hoàn toàn bị động, nếu không bà đã chẳng chịu đựng nổi sự xa lạ của nó.
Song hôm nay khác hẳn. Như thể sự bộc lộ lòng đam mê không diễn ra hai lần.
Lần này họ cười vang và bà nhìn thấy chiếc răng bọc vàng của anh ta. Da thịt họ sinh ra để chạy cùng nhau trong hoan lạc. Anh ta nhìn bà.
- Vợ anh tên là gì? - Bà hỏi.
- Myra. - Anh trả lời.
Rồi sau khi đã suy nghĩ đủ bà áp môi vào môi anh ta, như thể bà có thể cắn đứt cái từ ấy. Thế là họ vật lộn nhau, không phải dũng cảm, mà để cho thân thể thâm bầm, và bà nuốt xuống bất kỳ cảm giác ghê tởm nào trào dâng lên trong cuống họng để chống lại sự thèm muốn xác thịt
Khi hai người đã mệt nhoài, anh ta hỏi bà:
- Lão chồng của em ra sao rồi?
Chị bảo là Stan đã đi đến bất cứ nơi nào ông ấy cần tới.
Người đàn ông cạnh chị ngáp dài rồi khẽ cười chậm rãi, đầy thông đồng.
Rồi bà đứng dậy.
- Nhưng tôi yêu chồng mình, - bà nói.
Đúng như thế. Sự tốt đẹp và toàn thiện bất chợt trong cuộc sống của họ đang run rẩy trước mắt bà vì đã mất rồi, đứng trước sự tục tĩu kia, mà một quyền lực chuyên chế kỳ lạ của thân thể đã gán cho bà.
- Tôi không hề nói điều gì phỉ báng anh ấy, - anh ta nói. - Tôi không hề quen biết anh ấy, cũng sẽ không bao giờ quen biết. Chắc chắn là như thế.
Giờ anh ta càu nhàu, trong khi bà bước từng bước nặng nề quanh căn phòng, nhặt nhạnh mấy đôi bít tất và các thứ linh tinh. Làn da sởn gai ốc của bà khiến anh ta rất khinh bỉ cơn bốc đồng của bản thân mình.
Cả hai người đứng, băn khoăn.
Phải chuồn thật nhanh khỏi cái mớ hổ lốn này, anh ta tự nhủ, không thể lần ra cái khuy cổ.
Hai tay bà sửa lại lọn tóc giả. Chẳng bao lâu, bà thấy rõ không có ai tố cáo bà được. Chẳng ai, trừ những khát vọng của bản thân có thể nhận ra bà. Những thứ này chẳng bao giờ yên được lâu.
- Tôi muốn lên phố chơi một đôi lần, - bà nói.
- Sao? Lên phố làm gì? - Anh hỏi bâng quơ.
- Đi dạo phố và xem người ta ra sao.
Anh ta cười qua mũi:
- Chuyện đó tôi chưa làm bao giờ.
- Tôi sẽ ngồi ngoài biển ngắm nhìn. Và tôi sẽ nghe nhạc.
- A, - anh ta nói. - Thế thì tôi chen vào đâu?
Bây giờ anh ta ở tình thế phải chuồn nhanh, và anh hoàn toàn tự chủ. Anh ta đặt hai tay lên vai bà, chiếc nhẫn anh đeo có gắn một ngôi sao nhỏ bằng ngọc đỏ lấp lánh. Trong sự giả tạo của tình thế mới này, bà quay ngoắt lại, hết sức bình thường và áp ngực vào người anh ta.
- Thế không có phụ nữ nào khác hay sao? - Bà cười phá lên. - Đừng có giỡn tôi!
Họ đi ra, vừa đi vừa đùa bỡn một cách thô bạo mà hình như thời điểm này đòi hỏi.
Bà ngạc nhiên thấy mình lại có thể trở thành một phụ nữ hào nhoáng.
- Tạm biệt Leo, - bà nói, giọng lanh lảnh, đưa mắt nhìn những mạch máu trên cổ anh ta vì chiếc cổ áo siết quá chặt.
Chiếc ô tô êm đã sẵn sàng. Bà đứng nhìn anh ta chuẩn bị khéo léo rời đi. Những việc này một số người làm dễ như bỡn.
- Tôi mà có một tấm ảnh của em thì tôi sẽ cất dưới đệm. - Anh nói.
- May mà anh chẳng có. - Bà cười vang.
Đoạn bà đưa tay lên phía trên mắt để chắn ánh đèn pha và dõi theo anh ta nhẹ nhàng lái xe đi, để lại đằng sau một vệt bụi. Bà nhìn theo một cách dửng dưng, như thể cuộc sống của mình không hề bị gián đoạn, trừ những lúc nhìn ngắm, đôi mắt dõi theo chiếc ô tô xanh nhẹ nhàng lướt đi, trộn lẫn trong phút chốc vào đôi mắt của một người đàn ông. Tuy vậy bà nhớ lại đôi mắt của anh ta, qua đám bụi, đôi mắt quá gần nhau, nom dại dại, có những tia máu đỏ.
Chính trong tư thế này, bàn tay bà đặt thẳng bên trên mắt, Stan Parker đã trông thấy vợ, khi ông lái xe xuống đường. Ông vừa lái vừa suy nghĩ, vẫn là một trong những chiếc ô tô cũ mà họ còn giữ. Ông nom thấy vợ đứng đấy. vẫn còn một đám bụi mù. Nó lơ lửng đang tản dần, nhưng vẫn còn vương lại.
Stan lái xe vào cổng, nơi vẫn còn đính chiếc thùng dầu dùng để đựng bánh mì cửa hàng đưa lại, ông vẫy tay gọi vợ, vì đó là một thói quen của ông. Bà vẫn đứng đấy, thẳng đuỗn người. Bà vẫn chưa bỏ bàn tay thẳng dơ xuống. Ông bước ra khỏi xe và cũng bước đi với đôi chân cứng như gỗ.
Ông hắng giọng nói:
- Anh có gặp Merle. Thứ Năm này chị ấy sẵn sàng đến giúp em với mấy chiếc rèm cửa.
- Ồ, thế à.
Bà đã quên khuấy đi mất.
Họ sẽ nói gì sau đó? Bà băn khoăn vô cùng.
Nhưng rồi guồng máy cuộc sống lại cuốn họ vào ngay.
Ngoài việc họ trao đổi với nhau bằng những giọng khô cứng, bằng những lời như cành cây khô khốc chỉ cần ấn nhẹ là gẫy rắc, chẳng có gì thay đổi lắm. Dẫu hai người không nhìn nhau, có thể là như vậy, thì qua kinh nghiệm bao năm trời, họ cũng biết mình sẽ nhìn thấy gì. Nhưng Stan Parker lắng nghe vợ rất nhiều, lắng nghe những âm thanh bà tạo nên trong căn nhà, hoặc gọi gà, hoặc trò chuyện với lũ bò, cả hơi thở của bà nữa, và nhất là sự im lặng của bà. Tất cả những âm thanh đó, ông đã quen thuộc, gần trọn đời mình, giống như tiếng đập của con tim ông, bỗng nhiên bung ra, và trái tim trong lồng ngực, không chịu đựng nổi.
- Đêm qua, - có lần bà hoảng hốt vào nhà tìm ông, - lũ chuột lại cắn chết một con gà nữa. Một trong những con gà tốt nhất.
Bà tìm tới chồng để ông phải làm một việc gì đó.
- Ta phải mang chôn đi. - Ông nói, di chuyển đôi chân cứng đờ.
- Nhưng chúng ta có thể làm được gì? - Bà nói, vẫn đứng yên ở đấy. - Chúng đã ăn cái đầu và lôi mất bộ lòng. Thật là kinh khủng. Giờ chúng đã bắt đầu rồi, cứ tiếp tục cắn xé đàn gà tốt của chúng ta… - Bà không thể nói thêm gì được nữa, mà đợi ông.
Ông chẳng biết làm gì.
- Chúng ta có thể đánh bả, - ông nói, - bên ngoài chuồng trại.
- Đừng đánh bả, Stan ạ. - Bà nói. - Nhỡ chó mèo ăn phải.
Thế rồi chẳng người nào biết phải làm gì cả.
Amy Parker để tất cả tâm trí vào tầm quan trọng của vấn đề này, bà phải làm thế, trong khi bà băn khoăn lo lắng thì ba, bốn con gà nữa bị chuột vồ chết và ăn thịt.
- Chúng đã bắt đầu thì sẽ chẳng dừng lại đâu. - Bà quả quyết. Ông nghe thấy vợ nói khi gõ chiếc thìa vào quả trứng ông vẫn thường ăn vào bữa điểm tâm, nhưng trước hết ông phải xem xét thật cẩn thận. Nếu ông không thể chấp nhận tầm quan trọng trong vấn đề của bà, thì ông cũng chẳng thể giải quyết được vấn đề của chính ông. Nghe nói thế cuối cùng ông ngẩng lên nhìn bà, thấy tóc tai bù xù, và biết mình yêu vợ.
- Hay là ta thử đánh bả xem sao. - Bà phân vân.
Bà thấy ông nhìn mình, đó là điều bà mong muốn, và cảm thấy vững tâm.
Nhưng ông không quả quyết bằng lần trước. Ông đi ra ngoài, cho tay vào túi áo tìm cái túi đựng thuốc lá, nó không ở đó, ông nhận ra với sự bực tức bất chợt, lục lọi khắp hai túi áo tìm cái vật đã để sai chỗ hoặc thậm chí đã mất. Hai bàn tay ông vướng vào các nếp gấp và đường may của quần áo, đôi bàn tay xương xẩu của ông. Mồ hôi đọng ở mắt và ở khoeo chân. Vì ông không thể tưởng tượng được là thói quen lại có thể bị phá hủy như thế. Cái túi đựng thuốc lá của ông. Ông bắt đầu đi lang thang chậm rãi, gần như lảo đảo, mò mẫm tìm lối thoát khỏi tình huống này, giống như một người mù, ông suy nghĩ và thoát khỏi suy nghĩ, cố tìm xem mình đã để túi thuốc lá ở đâu, đó là một cái túi cao su nhỏ xoắn ở trên đầu, một vật cũ kỹ đã ngả màu đen.
Trong cái lán dùng làm xưởng, nơi ông đang tìm kiếm, ông bắt đầu mất hết hy vọng tìm ra túi thuốc, ông quăng mạnh xuống đất một cái khuôn giày bằng sắt vẫn dùng để chữa ủng. Ngay tức khắc có tiếng lẻng xẻng của dụng cụ rơi lổn ngổn, mùi thơm dịu ngọt của vỏ bào và mùn cưa xông lên. Cái tốt đẹp đã mất không tài nào chịu nổi trong cái lán chật hẹp này. Thế là ông đứng đấy thở dốc, toát mồ hôi, và nhớ lại vợ mình khi bà còn là một cô gái gầy gò và hơi e thẹn. Ông mãi mãi nhớ hình ảnh chị lúc mồm ngậm đầy cặp áo quần, đang phơi quần áo trên dây.
Trong ánh sáng mờ hơi sương, giữa những làn mây, trong ánh sáng xanh lơ, chăn màn phất phơ trước gió, nom bà giản dị và đáng thương làm sao, những chuyện như thế không thể xảy ra nữa. Nếu mình quên chúng đi, ông tự nhủ, nhưng không thể. Nó vẫn tiếp tục xảy đến. Nó quay trở lại tâm trí ông, gắn liền với một đám bụi trên đường. Ông nghe tiếng cửa xe sập mạnh. Ông tưởng tượng, hay cố làm thế, nhưng không tài nào tưởng tượng nổi những lời trao qua đổi lại. Những người khác, ngay cả những người vô tội, hay những người lạ mặt, thường nói những lời bí hiểm và có thể là những lời giải thích, những lời sẽ biến đi trong tầm nghe.
Thế rồi rốt cuộc ông chẳng nắm bắt được gì cả. Ông đứng đó, vân vê các nét tượng hình trên bàn mộc ông đã khắc vào gỗ, trong khi đứng đó, ông xót xa nhớ lại là mình đã mất một cái gì đó, mà mồm ông cuối cùng tự bảo mình đó là cái túi đựng thuốc lá cũ bằng cao su, thứ mà dù đã cũ nát ông cũng không muốn để mất, bởi lẽ ông cầm quen tay.
Khi ông tìm ra cái túi - ngón chân ông đá phải nó trên một con đường mòn - ông lập tức vo những sợi thuốc run rẩy giữa hai lòng bàn tay và nhét đầy tẩu thuốc. Lẽ ra ông phải cảm thấy khuây khỏa, nhưng không.
Ngược lại có nhiều thứ làm cho người đàn bà khuây khỏa, vì bà có thể vẫn nhìn thấy được mọi vật trong hình thù bất biến của chúng, dù đó là một áng mây bay, hay một ngọn cỏ dại mà chị đã cúi nhìn, và nếu thiếu những bông hoa thật thì chúng chính là hoa, một vật bình thường màu xanh, nhưng vui mắt. Có một số điều bà cho phép mình nhớ lại, và có một số điều bà buộc mình phải quên đi. Cách sắp xếp này thật đáng ngưỡng mộ, nếu làm được. Và bà cũng đã nghĩ ra nhiều cách để thể hiện tình cảm với chồng. Một sự ấm áp tràn ngập trong lòng bà, đầy an toàn và hối lỗi. Quả thực sự hối lỗi của bà đã báo hiệu sự an toàn, hình như thế.
Thế là người đàn bà bước đi giữa những cái gì còn lại của khu vườn, gương mặt tươi mát và chìm ngập trong không khí mùa thu. Thỉnh thoảng một con chó đi đến, một con chó to, màu vàng, chân dài, một loại chó kangaroo như người ta gọi. Bà đi thơ thẩn, con chó theo sau, chân như chân thỏ, bà dừng lại, con chó rụt cổ. Bà không ưa con chó ấy. Nó cứ xuất hiện. Nó đứng đấy, chỉ ve vẩy cái đuôi, những khớp đuôi nom rất rõ. Nhìn ngắm bà. Con chó ấy làm bà rợn cả người, bà nói với chồng như thế. Nhưng nó ngoan ngoãn. Nó quý mến bà và luôn thăm dò, lúc lắc cái cổ. Nhưng bà không thích nó như vậy, cau mày nhìn nó. Thế là con chó bèn nhếch mép lên, cười cười làm lành, nghiến hai hàm răng vàng ệch để tranh thủ sự đồng tình, về phần mình, nó đồng tình với mọi hành vi nó chứng kiến, biểu thị qua đôi mắt của tình yêu tất cả những gì suy đồi và thú vật. Nếu bà sống một mình, bà đã có thể cư xử tàn nhẫn với con chó. Thực tế, bà bước đi thật nhanh, vòng qua góc nhà. Con chó vàng gầy guộc đi theo. Đôi mắt sáng của nó nhìn thấy bà ở bất cứ nơi nào bà đi.
Chú mèo, ít ra, đã không theo dõi, và bà tạm đáp lại sự cầu thân của chú dưới vỏ bọc cáu tiết. Chú xù lông và khéo luồn lọt, khi chậm rãi uốn những vòng cung bên chân chị, hay trực tiếp, khi chú co cái đuôi run run chạm vào những bụi oải hương.
- Đồ bẩn thỉu, - bà cười vang vì giờ đã chấp thuận.
Và chú mèo lớn ngoao một tiếng với bà.
Một buổi tối, khi chân trời chỉ là một đường lửa đỏ lạnh lẽo, mỏng manh, bà bế bổng chú mèo lên, hôn chú, ôm tấm thân run rẩy của chú vào ngực. Rồi bà biết mình đã lạc bước, hoặc sẽ như thế, đang đi đến sự hủy diệt hoàn toàn. Nhưng liệu điều này có xảy tới không? Nó còn mơ hồ lắm, đến nỗi chú mèo bắt đầu vùng vẫy chống lại sự tuyệt vọng đang nằm trong vòng tay bà, cào cấu để thoát thân, và cố sức nhảy xuống. Bỏ bà lại.
Amy Parker bắt đầu lục lọi khắp nhà trong những ngày ấy, gấp rất nhiều giấy màu nâu, quấn dây thành những nùi con con, đọc lướt những bức thư cũ, và bắt gặp những tấm ảnh đã ngả vàng. Có một tấm ảnh bà đội chiếc mũ kết đầy hoa, vẻ thẹn thùng đầy biểu cảm, khó mà diễn tả bằng lời. Trong tấm ảnh này bà đứng trên một cái rương trong phòng ngủ, tựa vào cái lọ, nom như len lẻn đến đó để nhìn. Trước khi tiếp tục công việc nhà. Dọn dẹp và lau chùi.
- Đây là mấy chiếc mùi soa em để riêng ra cho anh nhưng không dùng đến. - Một lần bà nói với chồng bằng giọng rõ ràng của một người mà cuộc sống bí mật có phần mờ mịt hơn.
Bà mang cả ngần ấy thứ ra ngoài để chứng minh đó là sự thật, rằng giữa họ ít ra phải có cái này. Bà là một người vợ tốt, đã cho mùi soa vào túi chồng trước lúc ông đi xa, lấy tay phủi sợi tóc rụng trên cổ áo ông. Người chồng chấp nhận tất cả cái đó, dĩ nhiên là thế. Và hôm nay là cái ngày ông đã thỏa thuận thông báo cho chàng trai trẻ, một người nhà Peabody về việc mua một số đất ở Hungerford, phía bên kia Bangalay.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, bà ra tiễn ông lên đường. Ông đang chăm chăm nhìn lên trời, như để đọc những ý định của nó, rồi ông nổ máy, công việc này ông làm hơi vụng về, mắt dán sát vào bảng tín hiệu. Nhìn người đàn ông người thẳng đứng và đáng kính kia, bà nhận thấy quá rõ ràng rằng mình chẳng bao giờ xứng đáng với ông. Sự soi sáng tâm hồn này khiến bà mệt mỏi nhưng dửng dưng. Dẫu sao bà cũng đã hoàn thành nghĩa vụ vật chất của mình bằng nhiều cách. Nhét một chiếc mùi soa sạch vào túi ngực ông chẳng hạn. Bà đang đứng đó, như đã từng đứng nhiều lần trong nhà thờ, với bao người xung quanh, những người rõ ràng đã thực hiện được nguyện vọng tinh thần của họ, trong khi bà không vươn lên nổi, không phát hiện được cái mình phải vươn tới, chấp nhận là vài sự bí ẩn bị giữ kín với mình, chúng không còn làm bà giận dữ hay khổ sở nữa về sự trống trải của mình. Bà thừa nhận cái thân thể béo lùn của mình, không để ý đến nó nữa, thông qua những lời của các bài thánh ca trong sự chấp nhận nỗi cô lập của mình một cách lạnh lùng.
Vậy là giờ đây bà đứng nhìn chồng vào cái phút giây ông nổ máy lên đường.
Rồi bà quay về ngôi nhà, nơi bà đã quét sạch gần hết lớp bụi bặm do những trận gió hạn hán thổi về, ngôi nhà bây giờ đã sạch sẽ nhưng mong manh. Sáng hôm ấy khí huyết bà không lưu thông tốt, xương cốt rệu rạo, bà bồn chồn loanh quanh giữa đám đồ đạc sáng bóng. Bà khát khao mong đợi một sự kiện cực kỳ quan trọng xảy ra để lấp đi sự trống trải của ngôi nhà, nhưng điều đó gần như chắc chắn sẽ không xảy ra. Ánh sáng lấp lánh, mờ ảo tràn ra từ các tấm gương. Có thế thôi.
Sau khi nhìn quanh, điều quả là ngốc nghếch, vì chỉ có một mình trong nhà, bà đi đến chỗ chiếc gương soi ở căn phòng trước, trên mặt gương bà viết chữ “Leo”. Chữ viết chỉ bà nhìn thấy, viết bằng ngón tay, nét chữ mờ mờ. Bà không thích nói ra cái từ này, vì cái ram ráp bà thấy ở miệng. Nhưng bà chưa hề viết nó ra bao giờ. Thậm chí ở đây, trong im lặng, bà vẫn thấy ngượng ngùng, tuy khao khát. Vì vậy bà ngắm nhìn nó. Những lời cầu khấn đã được đọc lên như thế. Nhưng khi hơi thở căng lên trong lồng ngực, bà xóa sạch cái tên ấy một cách tàn bạo.
Sau khi đã lấy một xô cơm thừa canh cặn ném cho đàn gà, và hưởng chút lợi ích từ việc được chúng trơ trẽn bao quanh, bà trở lại nom thấy anh ta đang ngồi ngoài hiên, ăn một thứ gì đó trong cái túi giấy nhỏ.
- Anh đến đây bằng cách nào? - Bà hỏi.
- Vẫn như cũ, - anh ta nói, vừa cho thứ gì như kẹo bạc hà vào mồm, giờ chị ngửi thấy mùi vì đứng gần.
- Đón tiếp nhau như thế thật lịch sự đấy, - anh ta nói, mồm đầy kẹo bạc hà.
- Tôi không có ý định làm như vậy. - Chị nói, đặt chiếc xô xuống, ngả đầu đón nhận bất cứ thứ gì có thể xảy ra, và lau đôi tay mình. Chị liếc mắt nhìn vào đó và thấy chúng to, nứt nẻ vì những buổi mai giá buốt.
- Hai đêm liền tôi chỉ uống rượu, - anh nói, người co rúm lại. - Đừng hỏi tôi vì sao. Chuyện bình thường thôi. Và hút thuốc, lạy Chúa tôi đã làm cho bụng tôi đóng cục lại. Tôi bỏ thuốc lá rồi.
Anh ta tung chiếc túi nhỏ lên như tung một quả bóng, nó rơi xuống đất cứng và nằm đó. Rồi anh ợ một cái và nói:
- Xin lỗi.
Amy Parker nhìn quả bóng nhỏ bằng giấy, như cái mồi lửa màu trắng, tựa hồ một thứ hết sức cần thiết.
- Tôi chưa bao giờ thật sự say. - Bà nói.
Nhưng không cần thiết phải thăm dò chỗ nông khi đã đến tận đáy sâu.
- Em phải làm một cái gì đó, - anh nói.
Và đột nhiên, mặc dù họ đang ở hiên sau, anh ta đã lôi bà vào vẫn cái phòng đợi rất vuông vắn, tường trống trơn. Họ ngồi đấy, chờ đợi, mặc dù ngay tức khắc một sự kinh tởm hiện lên mặt anh khi nhớ lại sự tởm lợm nào đó đã qua. Lần này bà im lìm quá, đến nỗi có thể nghe được hình dáng của mọi vật.
Anh ta sẽ bảo mình điều gì? Bà băn khoăn.
Trong khi chờ đợi bà nhìn thấy những cây tiêu bắt đầu lay động, quanh đó đàn gà đang bới. Lá cây xào xạc trong làn gió nhẹ. Người đàn bà nhớ lại ngày còn là một cô gái, bà đã chạy băng lên sườn đồi, thở hổn hển, cười vang và đã nằm lăn ra trên đỉnh đồi như thế nào. Bà nhớ lại những cái chụm mát lạnh của những chiếc lá tiêu, và giờ đây cũng sự êm ái, mềm mại ấy đã trở lại với mình, giá bà có thể nói cho anh biết.
Còn anh thì nhìn, và nom thấy người đàn bà vàng võ ngồi cạnh cái xô cám, cùng đôi bít tất của bà, chắc chắn nó đã cũ và bà mang khắp mọi nơi, đôi bít tất đã doãng, dăn dúm.
- Nó là thế này, - anh ta nói - tôi có việc đi qua đây. Định ghé vào đây nói chuyện, thế thôi. Tình bạn không mất tiền mua, mà lại là một điều tuyệt diệu.
Anh ta ngồi đặt hai tay lên hai đùi nhăn nheo, rất ung dung. Mọi điều anh nói hay làm giờ đây cũng sẽ rất khoan thai.
Lạy Chúa, phải như vậy.
- Mấy tuần nay chúng tôi bận, - bà nói. - Chúng tôi phải lo cho mấy con bò đẻ. Có một con đẻ vào lúc nửa đêm, tội nghiệp. Stan phải đi tìm bác sĩ thú y. Nhưng cuối cùng cũng đâu vào đấy cả. Một chú bê cái tơ.
Bà xoay người trên chiếc ghế tựa cao, kêu cót két.
Ôi, bà có thể trải lòng với người đàn ông này, hoặc không nhất thiết phải là đàn ông, với ai đó là được, về ảo ảnh của vẻ đẹp to lớn và vĩnh hằng. Nhưng ánh sáng di dịch phá hủy phía bên nhà mà họ ngồi, bỏ tâm trí họ trong bóng tối.
- Tôi thấy mệt mỏi lắm, - Leo nói, đưa tay giữ bụng và suy ngẫm về mình. - Đi lại ngược xuôi thế này chẳng được tích sự gì, tôi bị ung nhọt, hay cái gì đó.
Anh ta đứng lên.
Khi Amy Parker nhìn thấy cái lưng của anh, cái lưng to và còn trẻ trung, bên trong bộ comple rất diện, hào nhoáng, anh mặc khi đi trên những con đường quê kia, bà nói to:
- Anh phải đến bác sĩ đi, Leo ạ.
- Họ sẽ bóc lột mình, - anh nói, - mà chỉ có ta một chai thuốc độc. Cái thứ thuốc trăng trắng ấy. Tôi biết mà.
Bà đi qua sát anh đến nỗi bàn tay bà cọ vào áo anh, nhưng vẫn không thấy một sự đáp lại.
Anh bắt đầu kể cho chị nghe chuyện một người anh em của bố anh chết vì bệnh ung thư.
Do vậy bà không nên đến gần người đàn ông này, bà thấy rõ, hay có lẽ bất kỳ ai. Mỗi người đều bao kín trong sự bí hiểm của mình mà tự thân không thể giải quyết được. Người đàn ông và đàn bà này đã ngạc nhiên nhớ lại những quá khích của cơ thể họ, và quên tính đến điều khác.
- Nên người ta đã chôn cất bác Herb, - Leo nói. - Đám tang của bác được tường thuật tờ Người trạng sư. Và những gì bác đã làm. Tuy không phải tất cả. Bác hơi đồng bóng, nhưng là một con người phong nhã.
Mồ hôi trên người Leo khô dần, bởi anh hiểu rằng họ đã vượt qua cơn nguy hiểm để đi vào tâm trạng thanh thản mà người ta có thể giả vờ như chẳng có điều gì xảy ra. Chẳng mấy chốc anh ta sẽ có thể kể một chuyện khôi hài nếu như anh nghĩ ra được.
- Dĩ nhiên người ta đang tìm ra thuốc chữa, - Amy Parker nói, - cho các thứ bệnh này, bao giờ cũng thế.
- Ừ, - anh nói, - phải rồi.
Đang hồi tưởng lại.
- Đọc sách báo khoa học, - bà nói, - thật là tuyệt diệu.
Những cơ bắp màu xám của cổ họng bà như giơ ra trước lưỡi dao. Màu xám của ván sàn, bà thấy rõ, và của đất đã bị người qua lại đạp lên trong những ngày hạn hán. Bà hất ngược một mớ tóc cũng màu xám. Ở tuổi bà, tóc sẽ chuyển sang màu xám. Tâm tính cũng trở nên điềm đạm.
- Phải đổi chiếc Ford cũ thôi, - Leo nói.
Thế rồi họ bước ra giữa những bụi hương thảo cứng đơ cứ vướng vào áo quần, anh lên xe, lái đi, không trở lại.
Buổi chiều Amy Parker bắt đầu giải thoát mình khỏi những gì không xảy ra. Quả thực bà cảm thấy mình già, vì đời đã xế bóng rồi, nhưng trạng thái này cũng có sự ưu việt. Bà bắt đầu nhớ lại các chi tiết khó chịu không thể chấp nhận được của người đàn ông mà nay không còn là hình bóng của ham muốn của bà nữa, nhớ lại tóc sau gáy của anh mọc xoắn đỏ như thế nào, cái tật hay nói về mình, mùi bạc hà. Và khi da thịt của bà dần dần hết ngứa ngáy, bà nghĩ rằng mình yêu thích sự im lặng.
Những điều bà đã biết bắt đầu trở lại. Bụi hoa hồng gai đầy gai góc kia mà hai vợ chồng đã trồng từ thuở ban đầu. Chiếc máy khâu với cái bàn đạp phức tạp. Một cái bình với một vết nứt màu nâu. Bà nhìn những thứ đó với niềm tin mạnh mẽ.
Nhưng bà vẫn chưa nghĩ đến chồng.
Buổi chiều, khi một chàng thanh niên đến hỏi: “Thưa bà, ông Stan có nhà không?” Bà đã thực sự ngạc nhiên ngẩng lên nhìn.
Đó là cậu Peabody, cháu Ossie, mặc bộ đồ vải séc xanh, người đáng ra đã phải gặp Stan Parker để xem đám đất ở Hungerford.
- Kìa, Joe, anh Stan đã đi gặp cậu cơ mà, - Amy Parker vừa nói vừa nhìn đồng hồ. - Anh ấy đi sáng nay, không nhớ lúc mấy giờ, nhưng đã được một lúc rồi.
Chị không thể nói đúng thời gian được vì nhiều năm trong đời chị đã trôi qua bằng khoảnh khắc.
Chàng thanh niên phá lên cười, ngập ngừng phân vân không biết nên làm gì. Cậu ta thường lúng túng khi gặp vợ những người mà cậu quen biết nhiều.
- Tôi chẳng biết nên khuyên cậu làm gì nữa, - Amy Parker nói.
Thanh niên thường hành động trên một bình diện khác. Mắt họ không nom những phụ nữ già hơn. Ngay cả con trai cũng chỉ nhìn mẹ nửa vời. Chàng trai này trạc tuổi con trai bà, đứng ở một bên cửa ra vào, do vậy cậu ta không nom thấy bà. Cái ca-vát xa tanh màu xanh sáng chói của chàng uốn vòng cung trên ngực, để chưng diện hoặc nhân dịp nào đó.
Ngay sau đó cậu ta chuồn thẳng và chị không rõ cậu ta định làm gì, hoặc ai đó phải làm gì.
Vào xế chiều, đặc biệt là buổi tối, khi công việc đã xong, và mọi thứ đã được lau chùi, sắp xếp cẩn thận vào tủ hay trên giá, Amy Parker buộc phải nghĩ đến chồng, ông ấy đã tiến lên phía trước vì cũng chẳng thể đứng lùi quá xa trong tâm trí bà. Bà biết đôi lúc mình luôn lắng nghe ông. Có những âm thanh khe khẽ của gió và động vật di chuyển trong bóng tối. Bóng tối, những ngôi sao và mây đang lướt trôi, xa dần bà cùng với thời gian. Những chiếc ghế mảnh mai trong các phòng nom hờ hững.
Mọi sự phải xảy ra tất sẽ xảy ra, không phụ thuộc vào mình, bà nhận ra điều đó. Bà đang đứng tựa lưng vào khung cửa sổ, người run lên, vì trời quả là rét thật. Những vì sao đơn độc run rẩy. Rồi bà ngả đầu vào khung cửa và buông xuôi trước cảnh đơn chiếc của mình mà chị lo sợ tuy chờ đón.
Stan quay trở lại, ngay sau khi ra đi, để tìm chiếc thước đo ba mươi mét mà mình định mang theo trong chuyến đi với cậu Peabody, nhưng đã quên. Lúc nhìn thấy chiếc ô tô màu xanh bóng lộn trong cái bụi đường trường, ông biết rằng đây là cái mình vừa chờ đón vừa sợ. Ông cảm thấy chiếc vô-lăng con con tay mình đang tựa lên mảnh mai làm sao. Những viễn cảnh của bạo lực dâng lên trong ông như máu và trào ra. Môi vêu lên như khi ông cầm một cái rìu, hay một cái búa, hoặc đôi tay để xử trí thật nhanh.
Nhưng trong khoảng trống trước nhà, nơi cây bách đang lay động nặng nề, ngột ngạt, dưới bao lớp bụi, hơi thở chính ông nghẹt trong cổ họng, vội vòng xe lại, với những động tác xóc nảy, không dứt khoát khi lái những xe quá cũ, và phóng trở về dọc con đường cái. Rồi ông buông mình vào cái gần như vĩnh cửu. Hoặc ông phải đi đến quyết định nào đó.
Stan Parker lái chiếc ô tô cao lênh khênh đến buồn cười của mình dọc theo những con đường. Phần lớn thịt trên mặt ông đã tiêu biến. Ông lái quá ngã rẽ Halloran và ngoặt vào Moberley. Những người không biết việc gì đã xảy ra vẫn tiếp tục sống cuộc sống của mình. Một bà cụ đội chiếc mũ to đang cắt hoa thược dược, tin rằng việc làm của mình tạm thời là hoạt động trọng yếu của loài người. Cụ ngẩng lên, lấy tay che mắt để nhìn, nhưng mặt trời của cụ có cánh hoa vàng. Stan Parker tiếp tục phóng xe. Hai đứa trẻ gần Bangalay đang nhìn vào một vật trong một ống bơ, ngay sau đó chúng bắt đầu ngắt cánh cái vật ấy. Dưới cái nhìn chăm chăm, lạnh lùng của chúng vũ trụ teo lại bằng dáng hình và kích thước một chú cánh cam đã chết.
Người đàn ông vẫn lái. Ông đến và đi các vùng ngoại ô giống nhau rõ rệt. Người qua đường quay đầu lại đột ngột nhìn bất cứ cái gì không thuyết phục được họ. Phải chăng có cái gì trong chiếc xe kia, cái gì để sợ, hay để ghét, hay chỉ để chăm chăm nhìn một cách tò mò, một linh hồn phơi trần?
Chiếc xe phóng thật nhanh qua một ngã tư, rồi qua mấy ngã tư nữa. Ở một góc đường một phụ nữ đang đẩy xe nôi suýt kêu thét lên. Nhưng nhựa đường dửng dưng trước cái nhìn kia. Chiếc xe cũ kỹ vẫn cố tình phóng đi. Trong xe là một người đàn ông trung niên, lưng khá thẳng, ăn mặc rất diện. Chẳng có dấu hiệu gì là một người say hay điên cả, mà hình như một ảo ảnh thực tại nào đó đang điều khiển ông ta, và ông ta bị mắc vào trong đó, cứng đơ, mãi mãi.
Chiếc xe cứ thế lao tới, tiến vào thành phố, nơi kể từ lần tới vì việc của thằng con trai, ông chưa hề ghé lại, giờ đây thành phố này nuốt chửng chiếc xe thả lỏng và bám đầy bụi bởi những đường ngách quanh co. Thời gian nhỏ giọt trên thân người đang vã mồ hôi, đặc biệt ở khoeo chân. Ông cảm thấy lâu lắm rồi. Một vài bức tường bê tông màu xám có những lỗ lấm tấm như mồ hôi, xi măng trát những bức tường khác bằng gạch đã vỡ vụn và tróc ra ở nhiều chỗ, mặt khác, mặt tiền của các cửa hiệu hỗn độn, quá rắc rối và dễ hỏng, đứng lùi vào sau những mái hiên. Cứ thế ông phóng xe, đổ mồ hôi như bê tông chảy ra nước lạnh và nhớ lại khuôn mặt xám ngoét của mẹ mình khi bà nằm trên giường, đôi mắt nhắm nghiền. Những người chết đang liếm ướt môi trong khi ông lái chiếc xe cổ lỗ sĩ qua, chọn một thời điểm.
Nếu ta lái nó, nếu ta lái nó, ông tự nhủ, lao vào, vào một bức tường, lúc này. Nhưng ông tiếp tục. Một bánh xe lung lay. Ông vẫn tiếp tục lái. Những dải cỏ đắng cay, sầu não phủ sương giá, dãi nắng mặt trời, cây cối ngả ánh bạc trong gió, hoặc chỉ những cây chết héo luôn cuốn hút ông một cách bí mật, an ủi ông khi lái xe giữa cảnh im lìm, qua cái im lìm của cỏ nội, dạt về phía này cửa kính và bê tông. Như thế là cuộc sống của ông vẫn tiếp diễn. Vợ ông đang đi giữa những thảm cỏ. Amy đến chỗ cỏ chết, hai tay kéo lê thê cành cây dài, xum xuê lá, mà sau đấy bà đã vứt bỏ, sau khi nói với ông những lời dối trá, rõ ràng là cần thiết lúc bấy giờ.
Mọi thứ đều cần thiết, tuy vậy điều quan trọng là phải tìm ra được nguyên nhân.
Rồi ông dừng xe. Chiếc ô tô dừng lại gọn gàng và điềm tĩnh bên lề đường, sau khi không vươn lên được đến đỉnh cao của thảm kịch và đam mê. Mình không thể tự sát được, như lão Gage kia, Stan Parker ý thức được vậy, mình không biết tại sao, nhưng mình không thể làm thế được. Chung quanh ông là những khuôn mặt thận trọng vô cùng của những người dân thành phố, tất tả ngược xuôi cho cuộc sống riêng tư. Người đàn ông ngồi trong xe giờ đây rảnh tay vì đã buông vô lăng, chẳng biết gì mấy ngoài hình dáng vợ mình và ý niệm mơ hồ về tâm hồn bà, cùng những thể nghiệm trong đó hai người hoán đổi cho nhau. Trong giây lát ông trông thấy gương mặt Amy, mà đã chết đi trong giấc mơ nào đó, và trong những phố phường của giấc ngủ ông đang kêu gọi bà, ca-vát tung bay, đường phố vắng tanh.
Ông bước ra thật nhanh khỏi chiếc xe cũ kỹ, cộc đầu vì thân hình cao lớn và bao giờ cũng quên nên mở cửa xe sớm. Ông ra khỏi xe, đi vào một quán rượu ở góc phố, gọi một cốc bia màu nhạt có lớp bọt mỏng bên trên, và uống cạn. Bia có vị chua. Ông uống liền mấy cốc bia khốn khổ ấy, chốc chốc dừng lại để nhận ra hành động của mình. Rồi tiếp tục uống. Tiếp tục một thời gian.
Một số người nói chuyện với ông trong cái quán rượu mạt hạng này, nó được lát đá hoa trắng để ký ức dội về nhiều hơn. Những anh chàng kề sát mặt vào mặt ông đã bị vẻ bề ngoài hào nhoáng của tất cả những gì họ đã làm thuyết phục. Lòng tin đó ánh lên trên gương mặt họ, đôi khi tuôn trào thành nước mắt khóc than cho những động cơ và điệu bộ của quá khứ, mà cho đến giờ phút này họ vẫn chưa nhận ra khi thuật lại. Họ trưởng thành. Họ anh hùng. Tất cả những con người này, đang đung đưa trên gót chân hay nghiêm túc cúi người đều nóng lòng muốn thấy Stan Parker đạt đến tầm cỡ của họ, muốn nghe ông kể lại một chút về cuộc đời anh hùng của ông. Và thế là họ nghiêng người chờ đợi. Có một chuyện để kể. Nhưng ông không thể kể.
- Tiếp tục đi, - ông vừa nói vừa xốc tay khỏi hai ống tay áo khoác. -Mặc tôi. Chẳng có gì để kể cả.
Nhiều quý ông ngạc nhiên lầm bầm qua đôi môi khả kính đỏ tía như vỏ nho.
- Điều gì làm ông bạn phiền lòng thế hở?
- Nói xem điều gì nào?
- Không nói ra sự thật, thì cũng chẳng ai hỏi đến, mà cũng chẳng có quái gì. Rõ chưa?
Stan Parker nhìn quanh chỗ đó, thấy rằng quán rượu đã khá đông và lộn xộn, nhưng ông vẫn cô độc trong tâm tưởng của mình, nhìn tường nếu muốn, giữa mấy cái đầu lươn, để rồi dòng nước đang trôi giữa đám cỏ kia, chèo qua và ông đã có thể tóm sừng con cừu già. Nhưng giờ đã quá muộn. Con người ông là thế đó Amy ơi, bao giờ ông cũng hiểu vấn đề quá chậm.
A, bà đang cười vang và ríu rít - trong đó đều là nước - bà đang đập mạnh đôi bàn tay lạ lẫm xuống đá hoa, đôi bàn tay nổi gân và đeo nhẫn.
Ông không thể nhìn kỹ hơn bởi thú tính cực độ của những gì ông đã từng nom thấy. Song đây là điều tệ hại nhất vì cho đến lúc này những suy nghĩ của ông chưa thành máu thịt.
Sau đó ông bước ra ngoài, bao nhiêu áo vét, áo khoác mỏng màu vàng sẵn lòng mở lối cho ông đi qua, cho tới khi ông ra đến bên ngoài, hay đúng hơn chân ông đã đưa ông đến đấy. Ông đang nhún nhảy. Ông đang mở ra và đóng lại. Ông rẽ ngoặt vào một ngõ hẻm mà ông chẳng đọc được tên mặc dù đã cố, dường như xác định vị trí của sự thoái hóa là rất cần thiết. Bao nhiêu vỏ chuối lâu ngày. Một bầu trời giấy hoàn toàn phẳng phiu, trắng ngần và vô thần. Ông khạc nhổ vào vị Chúa không hiện diện, rồi lẩm bẩm điều gì cho đến khi dãi rỏ xuống tận cằm. Ông khạc nhổ và đánh rắm, vì bụng ông muốn nổ tung. Ông tiểu ra đường cho đến khi trống rỗng, khá trống rỗng. Rồi ông nhìn thấy bầu trời bị xé rách. Ông đang xé toạc điều thiêng liêng cuối cùng trước khi ngã xuống giữa đám thùng trống rỗng, khoan dung trở lại hình hài mình trong chốc lát.
Khi ông tìm lại được mình, một người đàn ông có mụn cơm đang đi tuần đêm nhìn ông qua đám thùng thưa và nói:
- Kìa ông bạn, ông bạn bị ngã đấy.
Ánh sáng đêm màu đỏ tía đang chuyển về ngõ hẻm.
- Đứng lên đi. - Người ấy nói, hình dáng anh ta có vẻ to lớn nhưng bị bóng tối che phủ. - Ông làm bẩn bộ quần áo đẹp rồi.
Stan Parker đứng dậy. Bây giờ chẳng còn gì phải làm ngoài việc bỏ đi, và ông đã bỏ đi, lê đôi chân già nua, đi khỏi kẻ đã vỗ về an ủi, mà ông sẽ chẳng bao giờ biết rõ hơn, do tình cảnh.
Thành phố lênh đênh trong ánh đèn đỏ tía. Ông cũng trôi giạt cùng ánh đèn. Ông tìm thấy chiếc xe cũ kỹ. Các sự kiện đã trôi qua và để nó đứng trơ trơ. Cho đến khi ông trôi tới. Tía và đỏ, bật, tắt. Song những ánh đèn màu trắng đã rực lên từ óc não. Những đường hầm tàu điện mất hút vào những đường hầm khác, của bóng tối, đi đến một chốn nào đó.
Và cứ thế Stan Parker vút theo cái hướng được chọn cho mình, phóng xe suốt đêm, hình như theo một đường cong. Đôi khi đường tàu điện đưa ông theo vết xe cũ, khiến lương tri xóc nảy, nhưng phần lớn thời gian ông chỉ phóng xe. Bây giờ ông đã bớt say, vẫn mơ mơ. Ông đã dịu cơn say, nhưng khổ sở. Không khí biển bắt đầu gặm nhấm cảnh quan, như với kim loại. Ông sờ vào hơi nước nhơm nhớp trên kim loại và vào lớp sương trên tấm kính chắn gió. Sắc tím nở rộ lơ lửng dọc bờ biển, nơi những đợt sóng mềm mại phá hủy nỗ lực một cách đầy khoái cảm. Nơi đây cũng vậy, ông vẫn còn nhớ, một số người đã đến để quyên sinh, để lại trên bãi cát cuộc sống của mình cùng một đống nhỏ áo quần, bơi mãi ra xa cho đến khi nước biển ập vào mồm.
Nhưng con người này đã trở nên quá mềm yếu trong đêm, không đủ say để chịu đựng những căng thẳng như vậy. Mà cũng chẳng cần thiết phải quyên sinh để hủy hoại thân mình.
Ông bước ra xe trên con đường dạo mát vòng theo bãi biển. Ông đang tìm kiếm một vật gì. Lúc này ông bước đi loạng choạng, nhưng ở tuổi đó, ông vẫn giữ được dáng người đẹp; đầu không mũ vì đã đánh mất ở nơi nào đó. Ông bước dọc theo các khối bê tông ghé mắt nhìn vào cửa sổ, thỉnh thoảng áp mặt vào đấy, cố tập trung sự nhạt mờ trong các hang hốc ấy thành một cái gì xác thực, giải khuây. Ông thích nhìn thiên hạ ngồi quanh bàn ăn, sau khi họ đã bỏ hết công việc, và ngồi vào bàn đơn thuần chỉ để thấy có mặt nhau. Ông đủ hiểu họ để có thể tham dự vào cuộc sống của họ, mà bình thường không thể xảy ra được.
Thế là ông nhìn qua các khung cửa sổ, và trong một khung cửa một khuôn mặt hình thành, rõ hơn trong thực tại, trong ký ức, khuôn mặt đó đang nói với ông qua đôi môi dày. Rõ ràng là một quán bán sữa, trong quán người đàn ông to béo đang đứng rót những thứ nước xanh và hồng vào cốc cho bọn trẻ uống. Bọn trẻ quay người lại và nhấm nháp từng ngụm ngọt ngào, rồi ợ hơi vì chúng vừa mới học được trò này. Trong khi người đàn ông rót, hai mi mắt đen của anh ta như xuất thần trên chén bạc.
Kìa, quái lạ thật - Stan nhủ thầm - hình như anh chàng Con người Hy Lạp thì phải.
A, ông vui mừng tìm thấy anh chàng Hy Lạp ở chốn này. Đêm tối và gió biển ùa vào theo người khách lạ qua cánh cửa hút gió, trong khi ông lao nhanh về phía trước để chạm vào một vật gì đó ông đã từng quen biết.
- Ông Parker, - anh chàng Hy Lạp thét lên, hiện ra từ phía sau hai mi mắt. - Lại đây nào! Thật bất ngờ! Đây chính là ông Parker, Riní, Sosó, Kostáki, ông chủ mà tôi nói đến, nhớ không, lúc đầu tôi tới đó và làm việc. Sao, ông Parker, chính ông đây rồi. Thế còn bà Parker? Khỏe chứ? Ông có thích chốn này không? Đây là chỗ của tôi, mà vợ tôi đã cho. Đây là vợ tôi.
Nhiều người khác vội đến gần để xem việc gì vừa xảy ra. Họ nói ríu rít như chim, đó là những cô gái già dặn, tóc xoăn và dập dờn, bên những cô trẻ hơn là những chàng trai uể oải, mặc chế phục với bộ ria mới mọc và đôi mắt đen như bóng đêm.
- Hân hạnh được gặp ông, - chị Con nói.
Dưới chiếc tạp dề, ngực của cô phập phồng vui sướng và hàm răng đều đặn của cô mỉm cười.
- Ông ở lại nhé, - Con người Hy Lạp nói, vừa kéo mạnh người bạn áp vào ngực mình, - và chúng ta cùng chén một bữa.
- Không, không ở lại, - Stan nói, ông vẫn chưa tìm lại được cái gì có thể xảy ra. - Chỉ một chốc thôi. Tôi không thể ở lại được.
Xương cốt rệu rạo, ông ngồi phịch xuống một chiếc ghế sắt.
- Không, không. - Cả hai vợ chồng thét lên.
- Em sẽ làm một bữa đặc biệt, - chị Con mỉm cười.
- Món Soutzoukakia[3] ấy. - Một cô gái cao kều nói.
- Món Keftedes[4] cơ. - Một cô béo tròn nói, giọng the thé.
[3] Tên một món thịt viên sốt cà chua Hy Lạp.
[4] Tên một món thịt viên Hy Lạp.
Thế là mọi người hét lên, xô đẩy nhau và cuối cùng giải quyết vấn đề.
- Bác đợi một chút nhé, - người vợ mỉm cười.
Đôi mông chị tự tin đi qua bức rèm hạt cườm. Chẳng mấy chốc tiếng dầu xèo xèo.
- Các cháu này là con riêng của nhà tôi, - Con người Hy Lạp nói, con người mà thời gian đã mang tới cho anh hình dáng và nội dung của cuộc sống. - Tất cả đều có sẵn. Cũng như công việc này. Tôi đến đây để làm giàu, và tôi đã làm rất khá.
Anh chàng Hy Lạp, bụng đã phát phì ra, đang rung rung túi áo đầy tiền và chìa khóa. Anh ta bắt đầu kể lể việc làm ăn của mình, về bài toán của thành công, trong nhịp điệu đó, chúng trở nên bí hiểm như lời những bài hát anh vẫn hát.
Bỗng nhiên, Stan, người mà đã đánh mất bản thân mình, và từ nãy đến giờ vẫn dùng nắm tay để chặn miệng, cất tiếng hỏi:
- Con này, cậu vẫn còn hát những bài hát Hy Lạp ngày trước, những bài hát từ các hải đảo chứ?
- Hát à? - Anh chàng Hy Lạp cười ha hả, lắc lắc cái bụng phệ. - Ông ơi, tôi hát để làm gì chứ. Trai trẻ họ hát. Họ đi lang thang và đứng ở các góc đường. Việc đó tôi để mặc bọn nhóc. Chúng nó thừa hơi phải xả. Chúng phởn lắm.
Đoạn anh ta đưa bàn tay mập mạp vỗ mạnh vào vai người bạn, rồi bước ra ngoài để chỉ trỏ hoặc đi tiểu tiện. Anh ta là ông chủ ở đấy. Anh ta làm gì tùy thích. Anh cứng rắn và vững vàng, nhưng cũng mềm dẻo và béo tốt.
Stan Parker nay chẳng còn chắc những cái mình sở hữu, nếu như có được chút gì, thấy điều này quả là tuyệt diệu.
- Thế thì hẳn ông thích âm nhạc? - Bé gái hỏi, bước đến cạnh cái bàn tròn bằng cẩm thạch người khách lạ ngồi.
- Âm nhạc? Có lẽ vậy. - Ông nói. - Ông chẳng bao giờ quan tâm đến điều đó lắm.
Đúng là như vậy. Mí mắt ông khô và mỏi mệt. Mọi việc vẫn có thói quen xảy đến với ông lần đầu.
- Cháu thích âm nhạc. - Bé gái nói, năm nay có khoảng mười ba, mười bốn, hoặc mười lăm, khó mà biết được, nhưng nom cô bé rạng rỡ trong chiếc áo chui đầu màu xanh đã cũ, mà ai đó đã may cho cô bé, hay thậm chí cho một người nào khác. - Cháu đang học âm nhạc, cả thơ và gia chánh. Cháu cũng vừa được giải thưởng quốc gia cho một luận văn Sự xói mòn của đất.
- Cháu biết nắm bắt cơ hội của mình đấy. - Người đàn ông lạnh lùng nói. - Tên cháu là gì?
- Pam ạ. - Em bé trả lời.
- Không phải đâu. - Một vài cậu bé gầy guộc đúng lúc đó đi qua hét lên.
- Pam! - Chúng nhại lại, trề môi, giơ lợi ra.
Anh em trai luôn moi được sự thật từ chị em gái.
- Đúng mà, - cô bé quạt lại. - Tao sẽ là Pam.
- Chị ấy tên là Panayóta, - bọn con trai cười phá lên, chỉ tay về phía cô.
Thế là cô gái buộc phải ngồi im, mi mắt cụp xuống, các đầu ngón tay đặt trên mép bàn.
- Panayóta? Không tệ lắm. - Stan Parker nói, khi bọn con trai đã đi qua.
- Nhưng cháu không thích là Panayóta. - Bé gái giận dữ nói. - Cháu muốn tự chọn lấy. Cháu không phải là Panayóta. Cháu chẳng biết cháu là gì. Nhưng không phải là Panayóta. Cháu chẳng biết cháu sẽ là gì. Vì thế cháu học đủ thứ. Cháu muốn làm mọi thứ trên đời.
Cô đang lên cơn sốt.
Trong bếp dầu đang kêu xèo xèo.
- Bác chớ nghe con bé Panayóta, - hai hàm răng ươn ướt của bà mẹ cười. Cô thò đầu ra khỏi bức rèm hạt cườm một lúc. - Con bé nó rồ đấy, - cô gật gù nói.
Cô bé với mái tóc vừa gội còn mát và mượt mà, đứng lên khỏi bàn, mớ tóc đen của cô quét vào mặt người khách lạ đang ngồi chôn chân ở đó.
- Cháu sẽ không nói gì nữa, - cô bé nghiêm sắc mặt nói. Cháu sẽ mở nhạc cho ông nghe. Như thế tốt hơn.
Người đàn ông ngửi thấy mùi tóc của cô bé, và nhớ lại những bông hồng bạch có mùi thuốc lá mỗi khi ông ta vò nát, nhưng chỉ thoang thoảng, rồi lại chuyển sang mùi hoa hồng. Vì thế ông cố sức vùng ra khỏi bờ vực đau thương; ông hắng giọng, cái giọng khô khốc của một người có tuổi.
- Đĩa hát này hay lắm, - cô bé nói, tay cầm một đĩa hát gắn vào một chiếc máy hát cũ đặt trên quầy, cạnh chiếc hộp kền đựng ống rơm. - Bản này buồn lắm, - cô bé vừa nói vừa quay chiếc cán cọc cạch lên dây cót. - Nhưng nó cũng thật hay.
- Ông nghe nhé, - cô nói.
Đĩa hát bắt đầu líu ríu. Nó vẫn tiếp tục một điệu khi gặp chỗ đĩa nhảy, nhưng chẳng có gì cả. Giọng ca bất diệt đang hát không ra tiếng. Một làn ánh bạc dịu dịu của không khí và sóng biển ùa vào quầy hàng. Mọi hành động, dĩ vãng và hiện tại, đứng sững sờ trong làn ánh sáng kia.
Cô bé đã trở lại ngồi vào chỗ của mình, lướt qua người khách lạ, bước vào vòng tròn bầu bạn, thân mật nói:
- Cháu đã từng làm thơ.
- Có hay không? - Ông lớn tiếng hỏi.
- Thoạt đầu thì hay, - cô bé nói. - Nhưng rồi sau nghe kinh lắm.
Giọng cô bé át cả tiếng hát bất diệt. Cô bé cũng muốn nghe đấy, nhưng không thể. Thơ của cô bé ấm áp hơn, hiện thực hơn, quyến rũ hơn.
- Cháu muốn kiếm đủ tiền để đi Athen một chuyến, - cô nói. - Thăm họ hàng. Và thăm Parthenon.
- Ồ? - Stan Parker hỏi.
- Ông biết Parthenon chứ?
- Không, - ông trả lời.
- Đó là một ngôi đền, - cô bé nói. - Toàn bằng cẩm thạch. Đó là, ôi, cháu không biết, đó là Parthenon. - Cô bé gào lên tuyệt vọng, vung tay ta như ôm ấp một cái gì quá lớn.
Và ánh trăng se lạnh của bài hát đang từ chiếc hộp trên quầy tải ra ngoài.
Stan Parker ngồi bên chiếc bàn nhỏ, giá lạnh, lúc này đã đạt đến một cái gần như vĩnh hằng, mà bài hát kia không tài nào làm tan biến được, dẫu nó có xô đẩy và cuộn chảy như thủy triều vào những chân bàn bằng sắt trong căn phòng. Nhưng nào có ích gì, sự vĩnh hằng kia, ông biết rõ. Mọi thứ quan trọng trên đời, trong ánh sáng lỏng của bài hát bạc, đều được lưu lại hay trôi qua. Mọi hình dáng ông nhận ra đều biến thành cẩm thạch. Như vậy ông nằm cạnh vợ trên chiếc giường sắt, chiếc giường vẫn nằm trên tấm thảm màu hồng nhưng tay chân của họ đã biến thành cẩm thạch. Họ đông lạnh trong mắt người kia. Ảo ảnh của họ đã mang tính lịch sử đọng tại điểm ấy.
- Ông chẳng hay chuyện gì nhỉ? - Cô bé nói, mỏi mệt vì phải nghe mãi bài hát cũ.
Cô đã nghe nhiều lần. Cô đã nghe thấy nhiều điều, đã làm lắm thứ, với khả năng của cô, làm và nghe trong giới hạn tuổi cô, vì thế cô khao khát muốn được biết những bí mật mênh mông của cuộc đời những người khác.
- Ông chỉ nói thế thôi. - Người đàn ông nói.
Miệng ông càng lúc càng bực bội. Ông chỉ muốn vớ lấy một cái búa và đập tan cái thế giới cẩm thạch. Và cô bé, vào cái tuổi này, trong chiếc áo thun đã doãng, lúc đầu nom tội nghiệp, nay trở nên xung khắc với ông, vì những ý nghĩ của ông.
Cô đã tựa ngực lên cạnh bàn, nó đã là ngực của đàn bà.
- Ông có say không? - Cô bé hỏi.
Cô sún một cái răng bên cạnh.
- Lo chuyện của mình đi, - ông nói. - Cháu chỉ là nhóc con.
Cô gái tức khắc biến thành một cô bé, bị người ta chỉ tay vào mặt.
Vừa lúc đó bài hát chấm dứt, và Panayóta đứng vụt lên để giải phóng chiếc kim khỏi đường rãnh cuối cùng. Người đàn ông tiếp tục ngồi. Cả hai đều phải chịu đựng sự im lặng ồn ào của gian phòng với những bức tường hồng và vàng. Cô gái, đôi khi quên mất mình là hãy còn là một em bé gái, vừa cắn móng tay vừa gãi những nơi cần gãi, đi đến cạnh tấm gương để xem người đàn ông đã nhìn gì. Cô bắt đầu ghét người đàn ông đứng tuổi. Người đang theo dõi cô. Trong gương cô lấy dáng điệu đàn bà, ưỡn ngực trong chiếc áo chun đã chảy, và đưa lưỡi liếm vành môi.
- Cháu bao nhiêu tuổi? - Người đàn ông hỏi, chồm về phía trước qua chiếc bàn.
Giọng nói của ông nghe chừng dâm dật, nhưng ông chẳng ngạc nhiên, cảm thấy mình chưa đến tận đáy sâu.
- Bao nhiêu tuổi á? - Cô bé hỏi, không thương xót.
Cô để lộ chỗ răng sún.
Trên trần nhà có bao nhiêu vị thánh, với những khuôn mặt nhọn, đau đớn, và cơ man là trái cây.
- Chỉ có ông là người đặt nhiều câu hỏi. - Cô bé cười vang, kéo mớ tóc xuống trong trò nghịch mới, và tóp má lại cho đến khi nom chúng hõm xuống.
- Chào Pam. - Một vài cậu vừa bước vừa nói.
Họ ngồi lên ghế đẩu, xương vai lộ rõ dưới lớp áo may-ô, và bắp đùi dưới chiếc quần màu hoa cà.
- Kem chuối nghiền bạc hà. - Bọn con trai nói.
- Vâng. - Panayóta trả lời.
Cô bé bước đi duyên dáng, tay cầm một túm thìa con giống như những con rắn nhỏ và mấy cái cốc con trong đựng kem.
Rồi mấy cô gái bước vào, một đôi chị em hay đôi bạn gái. Họ thẹn đỏ mặt hoặc cười rúc rích mỗi khi cùng nhìn một vật. Họ đội mũ có những tua buông xuống giống nhau. Các cô gái gọi một thứ nước giải khát màu đỏ tía, làm nhoen mồm họ. Họ cọ mông vào ghế, cười khúc khích. Toàn là dâm dật, vì giờ đây các cô, các cậu trao đổi với nhau bằng những ngôn ngữ bí mật, hay bằng tín hiệu. Panayóta đằng sau quầy hàng nổi hơn tất cả. Đôi mắt ấy gợi nhớ tới ánh trăng trong những vần thơ, nhìn người đàn ông nơi hải đảo - tức chiếc bàn - và xa hơn nữa.
Rồi Stan Parker, bị vây hãm giữa không gian và sự dâm dật, ngày càng tuyệt vọng. Những bàn tay nâu của thánh, từ trên vòm lá giáng trần, mang tặng những quả cây khêu gợi. Gái và trai đang hát một bài hát nào đó, chỉ có họ biết thôi. Nhung có lẽ ông cũng học được. Ông sẽ theo dõi đôi mắt của Panayóta, cô gái đã nói nhiều lời đêm ấy, nhưng giờ đây trở nên e dè. Cũng như mọi thứ gì quan trọng được giữ kín hoặc trôi qua.
Thế là cuối cùng người đàn ông đứng lên, người tê cứng vì ngồi suốt buổi, hoặc vì xương cốt, chống lại những nhánh sắt của cái bàn.
- Ông phải đi đây, - Stan Parker nói.
Mọi người nhìn.
Còn Panayóta phải vùng ra khỏi dòng suy tưởng đê mê.
Rồi cô thét lên:
- Thế còn cái món soutzoukakia mẹ nấu thì sao?
Anh nhìn thấy nét hãi hùng trong mắt cô. Cô bé cũng đang mút một que kem, và mồm cô ướt.
- Ông xin lỗi, - Stan lịch sự nói. - Ông phải đi, phải đi bây giờ.
- Thế thật không hay - Panayóta nói.
Mấy cô gái đội mũ có tua cười rúc rích bởi họ không góp được gì khác, nhưng đối với cánh con trai tất cả đều chẳng quan trọng.
Ngay lập tức Stan Parker rời quán sữa của Con, người Hy Lạp, những suy tư đã làm cho ông không chịu đựng nổi. Nhưng chúng lại theo ông trong đêm ẩm ướt, như thể chúng sẽ phá hủy phần còn lại của ông. Trong tình thế đó, tham dự vào đấy còn có cả trùng dương cuộn sóng liên hồi và bài hát xa xôi vô phương tìm lại đầy bi kịch mà cô gái đã chơi trên chiếc máy hát cũ kỹ, ông đi xuống nơi bê tông đang biến thành đất cát, thấy một người đàn bà đang châm một điếu thuốc từ một đót khác.
- Trời, - bà nói - tôi sẽ kệ ngón tay bị bỏng để giữ lấy hơi cuối.
Đôi môi của bà nom rõ là thèm khát, cố rít lửa từ cái chấm tro màu đỏ.
- Tôi ngồi đây, - người đàn bà nói, - vì tôi cảm thấy buồn nôn. Vừa rồi tôi làm vài chén ở nhà một người bạn có chồng vừa đi vắng. Chẳng phải lúc nào tôi cũng thế này đâu. Tôi không nói là tôi không uống lấy một chén. Hay hai. Cũng có cất một chai trong thùng đá. Loại bia ngon. Ông có thích mèo không? - Người đàn bà hỏi tiếp. - Tôi nuôi mèo. Có sáu, bảy con, không sáu con, con Henry chết rồi, con Nona này, Phyllis, bé Un này. Nhưng ông chẳng thiết đâu. Mà cũng chẳng trách được ông. Tôi ớn mèo lắm, những con mèo khốn kiếp khắp mọi nơi, trong buồng tắm. Vừa mới bảnh mắt, chưa kịp kéo rèm lên nhìn ánh sáng màu nâu, và bồ câu, vì là buổi sáng, ông chưa rõ, thì mèo đã đến, chúng vây quanh, rúc vào lòng, có con lại thích chui xuống dưới vải trải giường.
Stan Parker nghe người đàn bà nói đến lúc thấm mệt, ông ngồi xuống cạnh bà ta trên cát ấm. Hơi thở của bà phả vào mặt ông như một mảnh kim loại, nhưng mùi của người đàn bà ít hôi hám hơn tình cảnh của ông lúc này. Sự kinh tởm đã chết trong lòng ông.
Thế là ông ngả đầu vào lòng người đàn bà.
- Anh cũng đang trong tâm trạng như tôi, - bà ta nói, đưa tay lần theo dáng hình của khuôn mặt ông.
- Anh chắc đói. - Bà ta nói.
Ông đưa tay vuốt ve mái tóc rối bời của bà.
- Muốn cái gì thế, cưng? - Bà ta hỏi, lòng tràn ngập hy vọng được thoát cái tình trạng héo quắt mà thiên nhiên đã ném bà vào.
- Im ngay! - Ông nói nghe độc ác.
Ông đã có thể giết chết con điếm già này, biến nhu cầu của ông thành của mụ, ông đặt tay lên cổ họng mụ ta, và ấn nhẹ, nơi có một chuỗi hạt, một khung ảnh trái tim, hoặc một cái gì đó.
A a a a, mồm mụ ngoác ra.
- Được rồi, - ông nói thẳng vào mặt mụ. - Ta đang phân vân không rõ có tự sát nổi không. Chắc là không. Thậm chí cả lúc này.
Mụ ta tiếp tục gào thét.
Ông vùng dậy chạy dọc theo bãi cát, vấp phải những khát vọng lén lút, những khúc củi trôi giạt vào bờ, và cát mềm.
Sau khi đã chạy được một quãng, tiếng người đàn bà gào thét đã lắng xuống, tiếng còi hú chọc thủng màn đêm, và ánh đèn dồn về quanh hiện trường ông vừa rời đi, ông bỗng cảm thấy thương hại người đàn bà nuôi mèo, người ông đã đập tan những bí mật và bóp bầm cổ họng.
A, ông tự nhủ, hai tay ôm đầu cho đến lúc nó không còn là đầu ông nữa, mà là một quả dưa treo giữa hai bàn tay, thế là hết, mình phải về nhà thôi.
Biển không phản đối ông.
Trong khi Stan Parker phóng xe qua đám ổ gà trên đường từ Durilgai về nhà, đặc biệt là qua dãy ván rào mà ông đã bao lần trì hoãn không căng chặt bởi trong lòng thấy thờ ơ thì đoạn phim đời vẫn lập lòe trước mắt ông, cho đến bây giờ gần như không còn là thực nữa. Mà chỉ vì ông đã sống qua quãng đời đó. Có một lần ông đi xem phim, hai lần thì đúng hơn, ở đấy máu ông đã hòa nhập vào mẩu phim nhựa cuối cùng.
Thế nhưng bây giờ cỏ lụi và cây cối khẳng khiu đã chỉ trích những gì dĩ vãng. Chỉ có hiện tại là thực, quay trở lại những chốn thân quen. Lái chiếc xe ọp ẹp, Stan Parker một lần nữa lại nhìn lớp da trên bàn tay. Cứ thế cho đến thung lũng, nơi cây bách hiện ra trong đám bụi và bụi bốc lên đến sặc sụa, từ dưới bất chấp cả lớp sương.
Ông lại sặc, nhưng vẫn phóng xe nhanh vượt qua tầm của một ý nghĩ, rồi lựa xe qua cổng một cách êm ả, gần như hoàn hảo, và cuối cùng dừng lại ở sân sau.
Con chó lớn kia chồm dậy và tiến tới phía trước, nó hạ thấp cái cổ, để lộ hàm răng vàng ệch, biểu thị sự vui mừng biết lỗi.
Tại sao con chó lúc nào cũng cảm thấy có lỗi? Ông thắc mắc.
Amy Parker đã nhìn ra cửa sổ và thấy chồng về, bà cầm chiếc chảo, bởi vì những phản ứng ở bà đã dịu hòa từ lâu và ném một khúc mỡ vào, đập ba quả trứng, chúng chín rất nhanh trên chảo.
- Em đã làm xong dưới ấy chưa? - Ông hỏi - Với mấy con bò cái ấy mà?
- Rồi, - bà nói. - Xong rồi.
Bà mang đến cho ông thức ăn thức uống.
Bà mang lại một chén trà pha sữa, và đứng uống, vừa nhai vỏ bánh mì khô, dáng điệu nom xấu xí nhưng quen thuộc. Đó là thói quen của bà mỗi khi nói chuyện với ông.
- Tối qua em suýt nữa quên bẵng con bê của con Bella, - Amy nói. - Con Bella phát khùng lên. Nó vừa chạy quanh sân vừa rống lên. Nó tuyệt vọng, khốn khổ khi em thả con bê ra. Con bê nhỏ xinh lắm anh ạ. Nó sẽ khỏe ra và sẽ là một chú bê đẹp. Và là con của Bella.
Bà đã kể cho ông nghe như vậy.
Khi ông nhìn bà, hoặc không nhìn, ông thấy rõ hai người đã bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời, rằng một cái gì đó đã phí hoài. Amy đi đi lại lại trong bếp. Tóc bà xẹp và suôn vì bà đã vuốt mượt xuống. Bà cho củi vào bếp lò, để lửa cháy bùng lên bén ra bên ngoài một lúc. Rồi bà nhanh chóng dập ngay.
- Củi sắp hết rồi, anh Stan ạ, - bà nói.
Đúng, ông chẻ thêm sau.
Thế đó, ông tự nhủ, liệu chúng ta có biết điều này đã xảy ra không? Song ông không thể chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì trong đời mình. Nói gì đến cuộc đời người khác, nói rõ hơn là là cuộc đời của vợ ông.
Cũng trong tâm trạng ấy Amy Parker đi đi lại lại, cầm vật này lên rồi lại đặt xuống, chờ đợi một điều gì đó được sáng tỏ. Cái điều mà bà mong chờ là sự sáng tỏ sẽ đến từ bên ngoài. Nhưng nó đã không đến và bà tiếp tục cảm thấy kiệt lực, hổ thẹn, nhớ lại, băn khoăn về cái cung cách bà giật tuột đôi tất dài ra, rồi chúng nằm phơi trên sàn nhà như những cái túi màu ghi.
Nếu bà sờ lên mặt, bà sẽ thấy nó hốc hác biết chừng nào, nhưng bà không soi gương.
Đến một lúc nào đó, người đàn ông và người đàn bà đi đến chấp nhận điều bí mật của nhau, mà mái nhà không chứa đựng nổi. Ban đêm đôi khi họ tỉnh giấc một mình và lắng nghe hơi thở của người kia, băn khoăn. Rồi họ lại ngủ tiếp, vì mệt mỏi và chẳng hề chiêm bao. Thói quen đã an ủi họ, giống như rượu mạnh và dép lê, thậm chí còn đội lốt tình yêu.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người