Những nỗ lực của bạn chỉ có thể đơm hoa kết trái nếu bạn quyết không bỏ cuộc.

Napoleon Hill

 
 
 
 
 
Tác giả: Rohinton Mistry
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1946 / 89
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:17 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
XVI: Vòng Tròn Khép Lại
hứ đầu tiên Zenobia nhìn thấy khi Dina ra mở cửa là tấm rèm ghép chắn giữa hành lang. “Cái gì đây, đồ cậu vừa giặt à?” Cô cười khúc khích. “Hay cậu mới mở dịch vụ giặt là?”
“Không, đấy là phòng cô dâu,” Dina vừa nói vừa phá ra cười. Cô đã chịu đựng bốn tuần trong cảnh cô đơn cưỡng ép với nỗi oán giận. Cuộc thăm viếng của cô bạn là một niềm an ủi lớn lao.
Zenobia thấy câu đùa của bạn khá vui nhưng không hiểu ý nghĩa ra sao. Họ cùng ra phòng ngoài. Giữa những tràng cười mới, cô mới rõ tại sao gian hành lang lại bị ngăn đôi.
“Họ sắp về đến nơi rồi,” Dina nói. “Tấm rèm này không đủ dày để chặn hết tiếng ồn của đôi vợ chồng mới cưới, nhưng tớ chỉ làm được đến thế thôi.”
Zenobia chẳng thấy buồn cười chút nào nữa. Cô trố mắt nhìn Dina như thể bạn cô đã hóa điên. “Sao cậu thay đổi thế. Cậu có nghe thấy mình đang nói gì không đấy? Chỉ mới cách đây một năm thôi, cậu còn không chịu giữ một vị khách trọ vô hại. Tớ phải mất bao nhiêu ngày mới thuyết phục được cậu là con trai Aban Kohlah chẳng có gì đáng ngại hết, rồi cậu ta sẽ không xơi tái căn hộ của cậu đâu mà lo.”
“Và cậu đã đúng hoàn toàn, Maneck là một cậu bé rất đáng yêu. Hai tuần nữa là cậu ấy cũng sẽ trở lại. Cậu xem tấm chăn tớ may đi này. Đây sẽ là quà cưới cho Om đấy.”
Zenobia lờ tịt và nói tiếp. “Rồi sao tự nhiên cậu lại gan thế, để cả hai người thợ may vào đây sống. Thế đã đủ phiền lắm rồi. Giờ cậu lại còn cho phép họ lôi thêm một cô vợ đến nữa? Cậu sẽ phải hối hận đấy, tin tớ đi. Cả cái bộ tộc bù xù đó sẽ cố thủ ở hành lang nhà cậu. Đến nửa làng họ ấy chứ. Và cậu sẽ không bao giờ đuổi họ đi được. Căn nhà này sẽ biến thành một cái chuồng lợn vì những thói ăn lông ở lỗ mất vệ sinh của bọn họ.”
Lời tiên đoán u ám khiến Dina bật cười, nhưng lần này Zenobia không hưởng ứng. Để xoa dịu cô bạn, cô bèn dùng một giọng nghiêm túc hơn. “Họ sẽ không đời nào lợi dụng tớ đâu. Ishvar là một quý ông thực thụ. Còn Om là một cậu bé ngoan ngoãn, thông minh, hệt như Maneck ấy. Chỉ có điều kém may mắn hơn thôi.”
Zenobia nán lại nửa tiếng nữa, hết van vỉ, dọa dẫm, đến dỗ dành, vận dụng mọi phương cách có thể để thay đổi quyết định của bạn. “Đừng ngốc thế, cứ để họ đi. Lúc nào bọn mình cũng có thể tìm được thợ may mới cho cậu. Bà Gupta sẽ giúp bọn mình, tớ chắc chắn đấy.”
“Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Tớ vẫn sẽ cho họ ở đây ngay cả khi họ không làm việc cho tớ.”
Đến khi Zenobia nhận ra mình đang đâm đầu vào đá, cô đã lỡ dồn quá nhiều tâm huyết vào cuộc tranh luận. Để cứu vớt lòng kiêu hãnh của mình, cô quày quả bỏ đi.
Lá thư của Maneck khiến tay Dina run lẩy bẩy khi cô mở nó ra. “Dì thân mến,” cô đọc, “cháu hi vọng dì vẫn khỏe mạnh và hài lòng, cũng như tất cả mấy người chúng ta ở nơi của mình. Bố mẹ cháu gửi dì những lời chúc tốt đẹp nhất. Bố mẹ nói họ rất mừng được gặp lại cháu, còn nói là rất nhớ cháu.
“Cuối cùng cháu cũng nhận được tin bên trường. Cháu rất tiếc phải báo rằng điểm của cháu không tốt lắm. Họ đã từ chối đơn cháu xin vào học chương trình lấy bằng, nên cháu đành phải bằng lòng với chứng chỉ một năm vậy.”
Cô biết điều gì sắp tới, nhưng vẫn đọc tiếp, cố gắng chống cự cảm giác nôn nao đang cồn lên trong bụng. “Phải chi dì được thấy tấn tuồng diễn ra khi tin này bay đến. Nếu dì còn nhớ, khi cháu mới ngỏ ý muốn học thêm ba năm nữa, bố mẹ cháu đã phản đối ra trò. Nhưng giờ nhà lại nổi điên với cháu vì lý do ngược lại. Con định làm gì với đời mình đây, bố cháu cứ nhai nhải thế, hết rồi, hết thật rồi, thằng bé này chẳng hiểu đây là một chuyện bất hạnh đến nhường nào đâu, cả đời tôi đã là bất hạnh nối bất hạnh, tôi cứ nghĩ con trai tôi sẽ thay số đổi vận, nhưng lẽ ra tôi phải biết chứ, đường chỉ trên tay tôi là vĩnh cửu, chẳng đời nào được phép đổi khác, đấy là số mệnh của tôi rồi, tôi chống lại làm sao nổi.
“Dì có nhớ mấy trò cường điệu của chú Ishvar khi động đến việc tìm vợ cho Om không? Toàn đồ bỏ, dì ạ, nếu so với màn trình diễn của bố cháu. Lẽ ra cháu không bao giờ nên nói cho họ biết cháu dự định theo học cái chương trình lấy bằng ngớ ngẩn đấy.
“Cũng may, sau khi tấn tuồng chấm dứt, một người bạn của bố mẹ cháu đã đem về vài tin tốt lành. Thiếu tướng Grewal có vài mối quen bên mấy nước Ả Rập giàu có ở vùng Vịnh, chỗ mà tiền mọc trên cây ấy. Ông ấy hứa lo cho cháu một công việc rất tốt trong một công ty điện lạnh và điều hòa nhiệt độ ở Dubai. Cái ông thiếu tướng đấy luôn nghĩ mình là một hài kịch gia đại tài. Ông ta nói dân ở đó người nào cũng có một cái máy để làm mát lều của mình ngoài sa mạc, và vì bão cát cùng gió khô liên tục gây tắc nghẽn mô tơ và quạt, nên lúc nào cũng có nhu cầu trang bị điều hòa mới và bảo trì bảo dưỡng.
“Chính vì óc hài hước thảm hại của thiếu tướng Grewal mà cháu đã quyết định nhận công việc này. Nếu cháu sang Dubai, cháu sẽ không phải nghe mấy câu pha trò của ông ta nữa. Và lương bổng, phúc lợi, trợ cấp sinh hoạt thì cao ngất trời. Họ nói bên đó người ta có thể dành dụm được một gia tài nho nhỏ chỉ sau bốn, năm năm. Có lẽ cháu sẽ đủ khả năng quay về và mở doanh nghiệp kinh doanh máy điều hòa riêng của mình trên thành phố. Hoặc hay hơn nữa, chúng ta có thể mở công ty may. Với tất cả kinh nghiệm thu được từ một năm vừa qua, cháu sẽ là giám đốc, dĩ nhiên. (Ha ha, cháu chỉ đùa thôi).”
Việc đọc trở nên càng lúc càng khó khăn hơn vì nước mắt cô đã dâng lên cay xè. Cô chớp mắt thật nhanh vài lần và hít một hơi dài. “Cháu phải có mặt ở Dubai sau ba tuần nữa, nên mẹ cháu đang làm cả nhà phát rồ lên vì cố chuẩn bị hành lý của nả cho cháu. Kịch bản y như hồi năm ngoái, khi cháu sắp đi học đại học. Còn bố cháu thì vẫn y hệt như trước. Bố cháu chưa nói được với cháu một câu tử tế nào kể từ ngày cháu trở về, mặc dù cháu đã làm chính xác những thứ ông muốn. Bây giờ ông lại làm như thể cháu đang bỏ rơi ông và Cửa hàng bách hóa tổng hợp. Cái kiểu của ông là con rô cũng tiếc, con diếc cũng muốn. Ông còn mong hòng gì nếu cứ điều hành cửa hàng theo cung cách cổ lỗ ngày xưa? Cứ hễ cháu cố đề xuất cái gì đó thì ông chỉ ném cho cháu một cái nhìn u uất. Hẳn ông sẽ thấy vui hơn một khi cháu đi khuất mắt, ông có thích thú gì cảnh có cháu lởn vởn xung quanh đâu. Cháu đã biết điều đó từ cái ngày ông bắt cháu đi học trường nội trú hồi lớp năm.
”Dì chuyển lời tới Om giúp cháu là cháu xin lỗi vì không ở lại để gặp vợ cậu ấy được. Cháu chắc chắn cô ấy sẽ rất hạnh phúc khi có một bà mẹ chồng tuyệt vời như dì. (Ha ha, cháu lại đùa đấy.) Nhưng năm tới, khi cháu từ vùng Vịnh trở về nhà để nghỉ, cháu tính sẽ ghé qua và gặp cả nhà.
“Cuối cùng, cháu muốn cảm ơn dì vì đã cho cháu ở trong nhà dì, và vì đã chăm sóc cháu rất chu đáo.” Câu cuối cùng đã bị gạch đi, nhưng cô vẫn luận ra hai chữ bên dưới những đường gạch chi chít: “hạnh phúc nhất” và “cuộc đời”.
Sau dòng đó, nội dung thư cũng chẳng còn bao lăm. “Chúc mọi người may mắn với công việc may vá. Cháu gửi vô vàn tình yêu thương đến chú Ishvar và Om, và dì.”
Dưới tên mình, cậu đế thêm một phần tái bút. “Cháu đã nhờ mẹ cháu viết séc thanh toán tiền nhà ba tháng, vì cháu thôi trọ nhà dì mà không thông báo trước đúng hạn. Cháu hi vọng như vậy là ổn. Một lần nữa, cảm ơn dì.”
Những dòng chữ giờ đã trở thành nhòe nhoẹt. Cô gỡ cặp kính ra và lau mắt. Thằng bé thật ngoan. Liệu cô có bao giờ quen được với cảnh thiếu vắng cậu bầu bạn không? Những lời châm chọc, tiếng cậu chuyện trò hàng ngày, bản tính hay giúp đỡ của cậu, nụ cười chào buổi sáng, trò đùa nghịch của cậu với lũ mèo, dù rằng suy nghĩ của cậu về chuyện sống và chết có phần hơi đen tối. Còn cả tờ séc nữa, hào phóng làm sao; cô dám chắc cậu đã ép mẹ mình viết nó.
Nhưng cảm thấy buồn thì thật ích kỷ, cô tự nghĩ, trong khi cô nên cảm thấy mừng cho cơ hội của Maneck. Cậu nói đúng, rất nhiều người đã phất lên nhờ làm việc ở mấy đất nước lắm dầu nọ.
Hai ngày sau khi nhận được lá thư, Dina tìm đến thẩm mĩ viện Venus. Cô tiếp tân từ phía trong đi ra và thông báo rằng Zenobia đang bận phục vụ một khách hàng. “Xin chị đợi ngoài phòng chờ giúp.”
Dina ngồi xuống bên cạnh một cái cây héo quắt héo queo và nhặt một tờ Tuần báo phụ nữ cũ sờn lên, rồi tự mỉm cười một mình. Rõ ràng, Zenobia vẫn còn bực bõ về vụ cô vợ của Om, và đây là cách cô thể hiện cho bạn thấy, nếu không cô đã tất tả chạy ra, tay kéo tay lược, thở hổn hển, chào một tiếng, rồi lại chạy vào.
Bốn mươi lăm phút trôi qua, Zenobia bước ra để tiễn khách tới cửa. Người phụ nữ với bộ tóc được tỉa tót choáng lộn không phải ai khác ngoài bà Gupta. “Thật bất ngờ quá, lại được gặp cô ở đây, cô Dalal,” bà ta nói. “Zenobia sắp làm tóc cho cô hả?” Bất chấp nụ cười, có vẻ gì đó ở khóe môi nhếch lên cho thấy bà không hài lòng với ý tưởng này chút nào.
“À không, làm sao tôi đủ tiền trả cho cô ấy! Tôi chỉ ghé qua để chuyện gẫu thôi mà.”
“Tôi hi vọng cô ấy tính tiền công chuyện gẫu phải chăng hơn làm tóc,” bà Gupta cười khúc khích. “Nhưng tôi cũng chẳng kêu ca gì đâu, cô ấy đúng là thiên tài. Xem này – hôm nay cô ấy đã tạo nên một điều kì diệu chưa này.” Bà chậm rãi xoay đầu từ trái sang phải và ngược lại, rồi để nó dừng khựng lại như tượng trong tư thế mắt dán lên quạt trần.
“Đẹp tuyệt,” không bỏ phí thời giờ, Dina nói ngay. Bà Gupta có khả năng giữ nguyên tư thế đến vô cùng nếu một lời khen không bật ra.
“Cảm ơn cô,” bà ta e lệ nói, và tự cho phép hộp sọ được di động trở lại nguyên vị. “Nhưng tới bao giờ chúng ta lại được gặp nhau ở Au Revoir thế? Các thợ may của cô đã về chưa?”
“Tôi nghĩ chúng tôi sẽ bắt đầu từ tuần sau.”
“Hi vọng họ không đòi nghỉ tuần trăng mật sau khi kì nghỉ đám cưới kết thúc. Kẻo dân số sẽ lại tăng thêm mất.” Bà Gupta lại cười hinh hích, mắt liếc tấm gương treo phía sau quầy tiếp tân. Bà vỗ nhẹ lên mái tóc của mình và miễn cưỡng rời đi; hình ảnh phản chiếu trong gương khiến bà ta hài lòng khôn kể.
Còn lại một mình với bạn, Dina kín đáo mỉm cười, bày tỏ một quan điểm không lời về bà Gupta. Song phản ứng của Zenobia hết sức lạnh lùng. “Cậu muốn hỏi tớ việc gì à?”
“Ừ, tớ nhận được một lá thư của Maneck Kohlah. Thằng bé không cần thuê phòng của tớ nữa.”
“Tớ cũng chẳng ngạc nhiên,” cô khịt mũi. “Hẳn nó đã phát chán vì phải chung sống với bọn thợ may rồi.”
“Thực ra, mấy người bọn họ rất hợp nhau.” Khi phát ra những lời đó, cô hiểu rằng tuyên bố ấy vẫn chưa thể hiện hết mọi điều về hộ gia đình của mình. Nhưng biết nói thế nào nữa đây? Làm sao cô có thể tả hết cho Zenobia biết Maneck và Om đã trở thành không thể chia rẽ đến mức nào, và Ishvar xem cả hai chàng trai như chính con ruột của mình ra sao? Rằng bốn người bọn họ đã cùng nấu nướng và cùng ăn uống, cùng san sẻ việc lau dọn và giặt giũ và chợ búa, nụ cười và nỗi lo? Rằng họ quan tâm đến cô, và dành cho cô nhiều sự tôn trọng hơn cô đã từng được nhận từ một số họ hàng thân thích của mình? Rằng chỉ trong vài tháng vừa qua, cô đã thấm thía thế nào là gia đình?
Không cách gì mà giải thích cho được. Zenobia sẽ bảo cô ngu ngốc và tưởng tượng ra những điều viển vông, biến một nhu cầu tài chính thành chuyện tình cảm. Hoặc cô ấy sẽ buộc tội hai người thợ may dắt mũi cô bằng những lời đường mật và xu nịnh.
Vì vậy Dina chỉ thêm một câu: “Maneck không quay về vì nó vừa kiếm được một công việc rất tốt ở vùng Vịnh.”
“Ừm,” Zenobia nói. “Dù lý do là gì, cậu cũng cần một khách trọ khác.”
“Phải, chính vì thế tớ mới đến đây. Cậu có ai không?”
“Ngay bây giờ thì chưa. Tớ sẽ để ý tìm.” Cô đứng dậy để trở lại làm việc. “Sẽ khó đấy. Bất cứ ai nhìn thấy tấm rèm đủ màu cùng tiểu đội thợ may đóng quân ngoài hành lang đều sẽ bỏ phòng chạy lấy người ngay.”
“Đừng lo, tớ sẽ bỏ tấm rèm đấy đi.” Dina hi vọng cô bạn sẽ giữ lời; khi Zenobia buồn bực, cô ấy thường cần vài ngày để nguôi ngoai, chỉ vậy không hơn.
Cô về nhà và đảm bảo căn phòng của Maneck không còn chút tì vết nào. Nhưng từ nay mình phải thôi nghĩ đó là phòng của Maneck đi mới được, cô quả quyết. Trong lúc quét quáy và lau chùi, cô tìm thấy hộp cờ vua của cậu trong tủ. Cô có nên gửi nó cho Maneck không nhỉ? Đến khi nó tới được ga tàu miền đồi núi, có lẽ cậu đã sang vùng Vịnh mất rồi. Tốt hơn hết là cất lại cho đến khi cậu về chơi vào năm sau, như cậu đã viết.
Dina thích ý tưởng này, và nhồi chiếc hộp vào giữa đống quần áo của mình trong phòng may. Dường như nó giúp ấn định cuộc viếng thăm của Maneck thêm rõ ràng. Đó là một suy nghĩ dễ chịu, nhấn chìm một suy nghĩ khác đầy đau đớn rằng cậu sẽ chẳng bao giờ sống ở đây nữa.
Đêm đến, cô ra cửa sổ nhà bếp và cho bọn mèo ăn, gọi chúng bằng những cái tên cậu từng đặt.
Sáu tuần tròn đã trôi qua, nhưng cô vẫn tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi, tin chắc rằng Ishvar và Om đã quay về khi mỗi tiếng chuông cửa vang lên. Rồi người cho thuê – bán máy may tới để đòi khoản tiền trả góp đã quá hạn cho hai chiếc Singer.
“Tuần sau hai người thợ sẽ về,” cô tìm cách hoãn binh. “Anh biết làm đám cưới thì lắm công nhiều việc thế nào rồi đấy.”
“Họ hay trả muộn quá đấy,” người kia càu nhàu. “Công ty toàn quở trách tôi vì không thu tiền đúng hạn thôi.” Anh ta đồng ý chờ thêm bảy ngày nữa.
Cũng trong sáng hôm ấy, chuông cửa lại reo. Cô chạy ra hành lang.
Đó là Ông trùm ăn mày. Ông mang theo một món quà cưới nhỏ. “Một cái ấm đun trà bằng nhôm,” ông nói, thất vọng vì hai người thợ vẫn chưa trở lại.
“Tôi hi vọng là muộn nhất là tuần sau,” Dina nói. “Bên công ty xuất khẩu cũng đang sốt ruột lắm rồi.”
“Thứ Năm tuần sau tôi lại mang quà đến vậy.”
Cô biết ông đang tìm kiếm thứ gì: món tiền trả góp, giống như món của người cho thuê – bán máy nọ, đã quá hạn. “Sẽ không có vấn đề gì với chủ nhà chứ ạ? Vì hai người thợ may chưa trả tiền ấy? Tôi có thể đưa ngài một ít ngay bây giờ, nếu ngài cần.”
“Không sao. Tôi sẽ chăm sóc cho căn hộ này, đừng lo. Với những người tử tế thế này, tôi đâu có để ý đến mấy khoản thiếu nợ tạm thời. Cô đã đến dự đám tang của Shankar, tôi sẽ không quên đâu.”
Ông ghi mấy dòng chú thích tình hình thu nợ vào nhật kí và đóng cặp táp lại. “Hôm qua cuối cùng tôi đã cúng công đức cho đền để tưởng nhớ Shankar. Người ta tổ chức một buổi lễ tạ nhỏ và thầy tế rung chuông, tôi cảm thấy thanh thản vô cùng. Có lẽ đã đến lúc tôi bỏ nghề này, dồn hết tâm sức cho việc cầu nguyện và thiền định.”
“Ngài nói thật đấy ư? Thế thì tất cả ăn mày của ngài phải làm sao? Còn hai người thợ may và tôi nữa?”
Ông trùm gật đầu chán chường. “Vấn đề là ở chỗ đó. Vì các bổn phận trần tục của mình, tôi đành kìm nén những thôi thúc tâm linh. Đừng lo, tôi sẽ không bỏ rơi bất kì ai còn nương nhờ vào mình.” Sợi xích cặp táp quấn trên cổ tay ông kêu lạch xạch khe khẽ khi ông rời đi. Cô nhận ra nó đã chớm han gỉ.
Niềm an ủi từ lời tuyên thệ trịnh trọng của ông ban ra bay biến chỉ trong phút chốc. Nỗi lo lắng cô đã cố ghìm giữ bắt đầu mon men tiến tới, chờn vờn rình rập xung quanh như một thú săn mồi. Giờ cô đã biết chắc chắn sự vắng mặt của hai người thợ không chỉ đồng nghĩa với một khoảng chậm trễ ngắn ngủi. Và thậm chí còn không có nổi một tấm bưu thiếp cho phải phép. Có chuyện gì đã xảy ra, để đến nỗi họ không thể báo cho cô hay chỉ bằng vài chữ: Cô Dina, xin hãy thứ lỗi cho chúng tôi, chúng tôi đã quyết định ở lại làng luôn, Om và vợ nó thích thế hơn. Chỉ mấy dòng thôi. Kì vọng như thế là quá đáng lắm hay sao? Zenobia nói đúng, chỉ có ngu ngốc mới đi tin hạng người đó. Họ đã lợi dụng cô, và ruồng bỏ cô.
Để hoàn thiện ngày hôm đó, chuông cửa chế nhạo cô lần thứ ba vào lúc chiều muộn. Cô xoay nắm đấm mà không thèm gài khóa xích vào trước. Ánh nắng chói chang khiến hành động đề phòng đó dường như trở thành không cần thiết. Và rồi cánh cửa mở rộng phô bày một bóng ma ghê rợn.
“Ốiii!” Cô thét lên trong cơn khiếp đảm. Người đàn ông nọ, người ngợm gầy mòn hốc hác, trên trán có mấy vết sẹo mới liền miệng, đôi mắt lóe lên ánh nhìn hoang dại, trông như một cái xác chết vừa đội mồ sống dậy.
Cô cố đóng cửa lại. Nhưng rồi anh ta cất tiếng, và nỗi sợ hãi của cô dần tiêu tan. “Xin cô đừng sợ,” anh ta thở hào hển. “Tôi không làm hại cô đâu.” Đó là tiếng rên thê thiết của một con vật bị thương, tiếng khò khè của một buồng phổi đã hỏng. “Hai thợ may làm việc ở đây phải không ạ?
Ishvar và Omprakash?”
“Phải.”
Người đàn ông suýt nữa quỵ ngã vì mừng rỡ. “Thưa cô, tôi có thể gặp họ được không?”
“Họ đi vắng mấy ngày,” Dina nói, đoạn bước lùi lại; mùi của anh ta nặng quá.
“Họ sẽ quay lại sớm chứ?” Từng chữ anh ta nói ra chấp chới trong tuyệt vọng.
“Có lẽ. Anh là ai?”
“Một người bạn. Chúng tôi sống trong cùng một khu ổ chuột, cho đến khi chính phủ san bằng tất cả.”
Trong giây lát Dina tự hỏi không hiểu đó có phải Rajaram, người những muốn từ bỏ cõi trần và trở thành một thiền sư, hay không. Cô mới gặp anh ta một, hai lần – lẽ nào cuộc đời khắc khổ của những thiền sư đã tàn hại anh ta đến mức này? “Anh không phải là người thu mua tóc đấy chứ?” Cô hỏi dò.
Anh ta lắc đầu. “Tôi là Người dạy khỉ. Nhưng lũ khỉ của tôi chết rồi.” Anh ta đưa ngón tay lên trán, khẽ gãi gãi những vết sẹo ngứa ngáy. “Nhưng hai người thợ may đã kể cho tôi biết họ làm việc ở khu này. Từ hôm qua tôi đã đến từng khu nhà trên đường này, gõ cửa từng căn hộ. Và giờ họ lại không có ở đây.” Trông anh ta gần như sắp bật khóc đến nơi. “Ishvar và Om vẫn qua lại với Ông trùm ăn mày, phải không ạ?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Cô có biết ông ta sống ở đâu không?”
“Không. Lúc nào Ông trùm cũng đến tận đây để thu tiền. Thực ra, hôm nay ông ấy đã đến đây.”
Đôi mắt Người dạy khỉ sáng lên. “Cách đây bao lâu? Ông ta đi đâu rồi?”
“Tôi không biết – cách đây nhiều giờ rồi, hồi sáng cơ.” Tia hi vọng vụt tắt trên gương mặt anh ta. Như ánh sáng của một cái bóng đèn, cô bỗng nghĩ, lúc sáng lúc tối.
“Tôi có một việc rất quan trọng phải làm với ông ấy. Mà tôi không biết phải làm sao để tìm ông ấy.”
Nỗi bất lực của anh ta, hình ảnh tấm thân tàn tạ của anh ta, sự tuyệt vọng trong giọng nói của anh ta khiến Dina phải chau mày. “Thứ Năm tuần sau Ông trùm sẽ quay lại đây,” cô chủ động báo.
Người dạy khỉ chạm tay lên trán và cúi chào. “Cầu mong Thượng Đế phù hộ cho cô và thỏa mãn mọi ước nguyện của cô vì đã giúp đỡ một kẻ khốn cùng như tôi.”
Người cho thuê – bán máy may trở lại vào tuần sau đó và nói anh ta không thể chờ tiền thêm một ngày nào nữa. Đoán rằng Dina sẽ tiếp tục viện cớ nọ cớ kia, anh ta quyết tâm lần này sẽ phải làm thật rắn.
“Tôi cũng đâu muốn anh phải chờ đợi thêm,” cô quát lại. “Mang hai cái máy đi ngay đi, tôi sẽ không giữ chúng thêm một phút nào nữa.”
“Cảm ơn cô,” anh ta nói, vẻ ngỡ ngàng. “Sáng mai xe tải của chúng tôi sẽ đến để mang máy đi.”
“Anh không nghe tôi nói à? Tôi nói ngay bây giờ. Nếu trong một tiếng nữa mà hai cái máy vẫn chưa đi, tôi sẽ tống chúng ra khỏi nhà. Tôi sẽ để ở giữa đường luôn đấy.” Người kia vội vã chạy đi gọi điện cho công ty đến chở máy về gấp.
Loại bỏ hai chiếc máy may giúp cô cảm thấy dễ chịu hơn. Hai tên khốn cứ việc quay lại đây và sẽ thấy hai cái Singer đã bốc hơi, cô nghĩ. Bọn họ sẽ nhận được một bài học nhớ đời.
Tiếp đến, cô chờ đợi Ông trùm cùng món quà cưới của ông. Với ông ta, cô cũng sẽ thay đổi sách lược và cho ông biết hai người thợ may đã biến mất. Món tiền thiếu sẽ buộc ông ta hành động thật nhanh, lần cho ra tung tích của họ dù họ đang ở đâu.
Nhưng Ông trùm không tới như đã hẹn. Thật không giống với cung cách đúng giờ của ông ta, cô nghĩ thầm khi ngày dần trôi đi. Lẽ nào ông ta và hai người thợ may đã câu kết thành một liên minh xấu xa chống lại cô, tìm cách loại trừ cô và chiếm lấy căn hộ? Nỗi hoang mang càng kích thích trí tưởng tượng của cô, khiến những mưu đồ đen tối càng được thể sinh sôi nảy nở, giày vò cô bằng mùi vị của chúng cho tới kì sáng hôm sau, khi một tiếng gõ cửa rốt cuộc cũng hé lộ sự thật.
Thất vọng, bội phản, niềm vui, nỗi đau, hi vọng – tất thảy đều bước vào cuộc đời cô qua cùng một cánh cửa, cô nghĩ thầm. Cô lắng tai chờ nghe tiếng lách cách từ sợi xích cặp táp của Ông trùm. Chẳng có gì hết. Rồi đến một tiếng gõ cửa nhè nhẹ khác. Dù là ai, rõ là người đó đang cố tránh xa chiếc chuông ầm ĩ. Cô mở cửa, nhưng vẫn để nguyên khóa xích.
Một lọn râu bạc thò qua khe hở, và đến tiếng người nói: “Chị ơi, làm ơn cho tôi vào với! Nếu có ai ở công ty trông thấy, tôi sẽ bị phạt mất, tôi không được phép lai vãng ở đây!”
Một cách miễn cưỡng, cô mở khóa xích và cho Ibrahim vào nhà. “Không được phép lai vãng ở đây ư, ý ông là gì? Ông là người thu tiền nhà kia mà.”
“Hết rồi, chị ạ. Ông chủ đuổi việc tôi từ tuần trước. Ông ta kêu tôi phá hoại tài sản của công ty, rằng tôi làm hỏng nhiều cặp giấy quá. Ông ta cho tôi xem bản thống kê văn phòng phẩm kể từ ngày tôi bắt đầu làm việc ở đấy bốn mươi tám năm trước. Tôi đã dùng qua bảy cái cặp giấy – một cái bìa da, ba cái bìa vải thô hồ cứng, và ba cái bằng nhựa. Bảy là tối đa, ông chủ bảo tôi, dùng đến bảy cái là tôi phải cút.”
“Vô lý,” Dina nói. “Lúc nào ông cũng rất cẩn thận, giữ nó sạch sẽ, đóng mở nhẹ nhàng. Đấy đâu phải lỗi ở ông nếu bọn họ cấp cho ông cặp giấy chất lượng kém chỉ vài năm đã hỏng.”
“Đằng ấy chỉ cần một cái cớ để tống cổ tôi thôi, chị ạ. Tôi biết nguyên do thực là gì rồi.”
“Nguyên do thực là gì?”
Ông ta im lặng, như thể đang cân nhắc xem có nên nói cho cô biết hay không, và thở dài. “Nguyên do thực là vì: Tôi không còn tha thiết với công việc của mình nữa. Tôi không còn đủ tai quái với người thuê nhà nữa, tôi không đe dọa họ theo cách có thể khiến họ sợ hãi, tôi đã mất hết nhiệt huyết rồi. Và vì thế, tôi trở thành vô dụng đối với chủ tôi.”
“Chẳng lẽ ông không cố thêm được sao? Dùng những lời lẽ ghê gớm hơn hay gì đó?”
Lão lắc đầu. “Một khi lửa đã lụi thì vô phương nhen lại. Nó bắt đầu tắt ngay tại đây, trong căn nhà này, chị ạ. Chị không nhớ sao? Cái đêm tôi dẫn bọn đầu gấu đến, cách đây mấy tháng ấy? Sau những chuyện xảy ra ở đây, tôi còn không dọa nổi một đứa bé con. Và tôi rất cảm ơn Thượng Đế vì điều đó.”
Cô nhắc mình nhớ lại nỗi kinh hoàng lão đã gây cho cô đêm hôm đó, nhưng thay vì giận dữ, cô lại cảm thấy mình có ít nhiều trách nhiệm trong vụ mất việc của lão. “Ông đã tìm được việc khác chưa?”
“Ở tuổi tôi ư? Ai sẽ thuê tôi?”
“Thế thì ông biết sống ra sao?”
Lão ngượng nghịu nhìn xuống sàn nhà. “Một số người thuê nhà có giúp tôi chút đỉnh. Gần đây, tôi có kết thân với vài người. Tôi đứng ngoài tòa nhà và họ, thì đấy, ra… giúp tôi. Nhưng chị đừng bận tâm mấy chuyện đó, chị ạ, để tôi nói cho chị nghe lý do cuộc viếng thăm của tôi. Tôi đến để báo trước với chị, chị đang gặp nguy hiểm rất lớn từ chủ nhà đấy.”
“Tôi không sợ lão khốn ấy. Đã có Ông trùm bảo vệ tôi rồi.”
“Nhưng chị ơi, Ông trùm chết rồi.”
“Ông nói gì thế? Ông điên rồi sao?”
“Không, ông ấy bị giết hôm qua. Tôi nhìn thấy hết, tôi đứng bên ngoài, khủng khiếp lắm! Khủng khiếp!” Ibrahim bắt đầu run rẩy, toàn thân lão chao đảo. Cô dẫn lão đến bên một chiếc ghế và bắt lão ngồi xuống.
“Giờ hãy hít một hơi thật sâu rồi kể cho tôi nghe rõ ngọn ngành đi,” cô nói.
Lão hít một hơi dài. “Sáng hôm qua, tôi đứng gần cổng, tay cầm ống bơ, chờ nhận của bố thí từ những người thuê nhà – ý tôi là các bạn bè của tôi. Tôi đã nhìn thấy tất cả. Cảnh sát bảo tôi là nhân chứng chính, và dẫn tôi theo để lấy lời khai. Họ giữ tôi đến khuya, hỏi han đủ thứ.”
“Ai giết Ông trùm?”
Lão lại hít một hơi dài nữa. “Một người đàn ông nom rất ốm yếu tiều tụy. Hắn nấp sau cây cột đá ở cổng. Khi Ông trùm bước vào, hắn nhảy lên lưng ông ta và cố đâm ông ta. Nhưng hắn yếu quá, đâm nhẹ hều, mũi dao không xuyên vào da thịt được. Ai cũng có thể chạy thoát nếu gặp phải một kẻ tấn công ẻo lả như thế.”
“Vậy tại sao Ông trùm lại không chạy?”
“Vì hôm ấy vận may không đi cùng ông ta.”
Thứ đi cùng ông ta, Ibrahim kể, là một chiếc túi to lèn chặt tiền xu được xích vào cổ tay ông, chính là thứ ông vừa thu được từ các ăn mày. Bị cái khối nặng trịch neo xuống đất, một tay không di chuyển được, ông đã kẹt cứng. Ông hết đấm đến gạt bằng cánh tay còn tự do, chân đá lung tung, trong khi gã sát nhân gầy còm vật lộn xoay xỏa, cưỡi ngật ngưỡng trên lưng nạn nhân của hắn, ráng sức ép lưỡi dao chọc xuyên quần áo, rạch toác lớp da, ngập vào tận da thịt và đâm thấu quả tim.
“Lúc đầu trông cảnh ấy cũng hoạt kê lắm. Nom cứ như hắn đang nghịch con dao gấp bằng nhựa của một người bán bóng bay ấy. Nhưng mãi rồi hắn cũng đạt mục đích, và cuối cùng Ông trùm không còn nhúc nhích nữa. Chính ông ta, kẻ sống bằng những đồng tiền ăn xin của đám người tàn tật bất lực đã chết bởi những đồng tiền ăn xin ấy, vì sức nặng của chúng. Chị thấy đấy, lâu lâu trong vũ trụ cũng xuất hiện một chút gì đó gọi là công lý.”
Nhưng Dina đang nhớ lại cả đám người ăn mày ở đám tang của Shankar. Thì đúng, nay họ đã tự do. Nhưng tự do phỏng có nghĩa lý gì đối với họ cơ chứ? Vất vưởng khắp các vỉa hè khốn khổ của thành phố, mồ côi mồ cút, không ai chăm nom cho – chẳng phải họ sẽ sung sướng hơn nếu ở dưới vòng tay che chở của Ông trùm hay sao?
“Ông ấy không hoàn toàn là người xấu đâu,” cô nói.
“Bọn chúng ta là ai mà quyết định được đâu là tốt hay xấu? Chỉ là trong một lần này, cán cân nom đã có vẻ cân bằng. Chị ạ, tôi phải nói thật là, sáng hôm qua, lúc nhìn thấy Ông trùm ăn mày đi tới, chính tôi cũng nghĩ đến chuyện nhờ ông ta giúp – giúp tôi kiếm một chỗ tốt để hành nghề.
Nhưng gã sát nhân vồ được ông ta trước.”
“Hắn có tìm cách cướp túi tiền đi không?”
“Không, hắn chả màng gì đến túi tiền. Mà nếu có, hắn sẽ phải chặt đứt cổ tay ông ta. Không, hắn chỉ vứt con dao xuống và gào thét là hắn là Người dạy khỉ, hắn đã giết Ông trùm để trả thù.”
Dina tái mặt và ngã phịch xuống ghế. Ibrahim khó nhọc đứng dậy khỏi ghế của mình và chạm lên cánh tay cô. “Chị ơi, chị có sao không?”
“Kẻ đã nói hắn là Người dạy khỉ ấy – có phải hắn có một cái sẹo rất to trên trán không?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Tuần trước hắn đến đây, bảo muốn gặp Ông trùm vì việc gì đó. Tôi bảo hắn là ông ấy sẽ ghé qua đây vào thứ Năm – là ngày hôm qua ấy.” Cô nắm những ngón tay lại và đưa lên che miệng. “Tôi đã giúp tên sát nhân đó.”
“Chị đừng nói thế. Chị có biết hắn định giết người đâu.” Lão vỗ lên bàn tay cô, và cô trông thấy móng tay lão cáu bẩn. Nếu là vài tháng trước, hẳn cô đã rùng mình trước sự động chạm ấy. Giờ cô lại cảm thấy biết ơn. Làn da lão nhăn nheo và bong tróc, như lớp da của một con bò sát vô hại, khiến trong lòng cô tràn ngập cảm xúc sửng sốt pha lẫn buồn đau. Tại sao mình lại ghét lão đến thế? Cô tự hỏi mình. Trước mọi chuyện có dính dáng đến con người, thứ cảm xúc duy nhất hợp lý là sửng sốt, trước khả năng chịu đựng của họ; và buồn đau, vì sự vô vọng của tất thảy mọi thứ. Và có lẽ Maneck nói đúng, tất cả đều dẫn đến kết thúc tồi tệ.
“Chị à, chị đừng tự trách mình nữa,” lão nói, đoạn lại vỗ nhẹ lên bàn tay cô.
“Sao ông cứ gọi tôi là chị thế? Ông còn hơn tuổi bố tôi kia mà.”
“Thôi được, vậy tôi sẽ gọi là con gái vậy.” Lão cười, và đó không phải nụ cười tự động của lão. “Con thấy đấy, cái Người dạy khỉ kia sớm muộn gì cũng tìm ra Ông trùm, dù con có giúp hắn hay không. Cảnh sát nói hắn bị tâm thần, hắn còn không thèm bỏ chạy, cứ đứng đấy hò hét đủ thứ rồ dại, rằng Ông trùm đã đánh cắp hai đứa trẻ từ hắn trong khi hắn đang bất tỉnh nhân sự, và chặt tay, chọc mù mắt, vặn lưng, và biến chúng thành ăn mày, nhưng nay hắn đã hoàn thành lời tiên tri, công cuộc báo thù của hắn đã kết thúc. Ai mà biết được những loài quỷ dữ nào đang giày vò trí óc gã khốn khổ ấy.”
Lão lại chạm nhẹ lên tay cô. “Nay Ông trùm đã chết rồi, chủ nhà sẽ sớm sai người đến đuổi con ra đường. Thế nên ta mới đến báo trước cho con.”
“Làm sao tôi chống lại được lũ đầu trâu mặt ngựa của ông ta.”
“Con phải hành động trước ông ta. Có lẽ con vẫn còn một chút thời gian. Người khách trọ và cả hai thợ may đều đi rồi, nên ông ta sẽ cần một cớ mới. Hãy tìm lấy một luật sư và…”
“Tôi lấy đâu ra tiền trả cho mấy ông luật sư đắt đỏ ấy.”
“Chỉ cần một ông luật sư giá rẻ cũng được rồi. Ông ta phải…”
“Tôi có biết tìm ở đâu đâu.”
“Cứ đến tòa án. Bọn họ sẽ tự tìm đến con. Chỉ cần con bước qua cửa, họ sẽ chạy bổ đến chỗ con thôi.”
“Rồi sao?”
“Thì hỏi han, chọn lấy một người vừa giá. Bảo với ông ta con đang cần kiếm một lệnh cấm đối với chủ nhà, để chấm dứt và ngăn ngừa các hành động đe dọa và những hình thức quấy rối khác, rằng hiện trạng này phải được duy trì cho đến lúc…”
“Để tôi ghi lại đã, tôi không nhớ được hết đâu.” Cô lấy giấy và bút chì ra. “Ông nghĩ cách này có hiệu quả không?”
“Nếu con nhanh chân. Đừng lãng phí thời giờ nữa, con gái ta. Đi, đi ngay đi.”
Cô thọc tay vào túi và tìm thấy một tờ năm rupi. “Trong lúc ông còn chưa tìm được việc mới,” cô nói, đoạn giúi vào bàn tay tróc vảy của lão.
“Không, ta không thể lấy của con được, con đã gặp đủ khó khăn rồi còn gì.”
“Chẳng lẽ con gái không giúp ông bố già được hay sao?” Mắt lão ướt đẫm khi lão nhận lấy tờ tiền.
Cổng tòa án đông đặc những người mua kẻ bán của một khu chợ tự phát được dựng lên ngay bên ngoài dãy tường bao, nơi những con người đã dành hàng tiếng đồng hồ cho công cuộc đeo đuổi công lý, và còn nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng nữa đang chờ đợi phía trước, đang chen mua đồ ăn thức uống từ các hàng quán rong. Rất dễ nhận ra những người đi kiện giàu kinh nghiệm – họ mang sẵn các hộp thức ăn theo mình, đứng một góc và bình tĩnh nhai nuốt. Anh chàng rán bánh rau chiên đã lôi kéo được hẳn một đám đông khổng lồ, đói khát. Cũng chẳng lạ gì, Dina nghĩ bụng, mùi thơm hấp dẫn thế cơ mà. Bên cạnh anh ta bày dứa được ướp lạnh trên một phiến nước đá lớn. Cô thầm ngưỡng mộ những lát cắt hình tròn khía răng cưa, mắt ngắm nhìn người phụ nữ tỉa quả bằng con dao dài, sắc lẻm, khéo léo tỉa bỏ những mắt dứa.
Trung tâm của hoạt động bên ngoài tòa án là những người thợ đánh máy. Họ ngồi khoanh chân trong quán của mình trước chiếc máy Underwood oai nghiêm như thể đang ngồi giữa một ngôi đền, lạch xạch gõ đơn từ cho những người đi thưa kiện và người đến làm kiến nghị. Hàng bày bán ở đây là giấy khổ tiêu chuẩn, kẹp giấy, cặp đựng giấy tờ, ruy băng vải màu đỏ thẫm để buộc các bản tường trình được đánh máy, bút chì xanh đỏ, bút mực, và mực.
Những tay chuyên nghiệp trong ngành pháp lý khoác áo vét đen lượn lờ giữa những đám đông, săn tìm thân chủ cần kiện cáo. Dina cẩn thận né tránh họ, quyết định sẽ xem xét khắp lượt khu tòa án trước đã. “Không, xin cảm ơn,” cô nhắc đi nhắc lại với những người ngỏ lời giúp đỡ.
Đến gần tòa nhà chính hơn, đám đông càng dày đặc thêm và một cảm giác hỗn loạn tràn ngập khắp nơi. Người người đổ ra kéo vào qua lối cửa, những người đang ở bên trong ra dấu điên loạn cho các bên có liên quan đang cùng có mặt trong khu tổ hợp, những người ở bên ngoài thì lại gào thét gọi người ở trong ra ngoài. Thỉnh thoảng lại có người đánh rơi những giấy tờ quý giá, và cố nhặt nhạnh lại, làm bùng lên những cuộc ẩu đả xô xát, kéo theo sự mất mát của những vật dụng khác như khăn mù soa, xăng đan, mũ lưỡi trai hay khăn choàng.
Khi một dòng người đông đúc chảy vào trong, Dina để mặc bản thân mình bị cuốn theo. Cô nhận ra mình đang ở dải hành lang nhìn ra toàn khu tổ hợp. Ở đây, ai nấy cũng ở trong trạng thái di động liên tục, vào vào ra ra những phòng xử án đầy tràn người, lên và xuống các cầu thang, như thể một cơn đại dịch gây rối loạn định hướng đã lây lan ra tất cả mọi người. Các phòng ốc và hành lang ngập ứ tiếng người nói đinh tai nhức óc không dứt. Đôi khi tiếng đó hạ thành thứ âm thanh lao xao đều đều, lâu lâu lại được điểm thêm một khoảnh khắc om sòm náo loạn. Dina tự hỏi không khí thế này thì liệu có ai nghe được những lời tranh biện pháp lý hay không.
Cô đứng một lúc trước cửa một phòng xử án xem ra đang diễn ra vụ tranh tụng. Thẩm phán trầm ngâm ngậm đầu gọng kính. Luật sư bào chữa đang phát biểu. Người ta chẳng nghe ra được chữ nào. Cử động chính xác của bàn tay ông ta và những đường dây chằng cổ họng đang nổi gồ lên là những dấu hiệu duy nhất cho thấy ông ta đang say sưa trình bày vấn đề.
Thi thoảng, lắm người dừng khựng lại khi đang sải bước trên hành lang và vội vã thét lên một cái tên hay một con số nào đó. Đôi khi đội quân tìm kiếm chia năm xẻ bảy và tỏa đi tứ phía với cái tên hoặc con số thường trực trên môi. Dina bỗng tự hỏi, có lẽ nào hệ thống tư pháp đã gặp trục trặc gì đó, một vụ đình công chẳng hạn? Có lẽ các nhân viên liên lạc và thư kí và giúp việc đều đã cáo bệnh nghỉ ốm mới đẩy tòa án vào cảnh rối ren điên loạn này.
Cô quyết định bám sát một gia đình trông có vẻ rất biết mình đang làm gì. Cô chạy khi họ chạy, cô dỏng tai lắng nghe những gì họ nói, cô dõi theo ánh nhìn của họ. Và sau khi quan sát cẩn thận, cô bắt đầu nhìn ra một khuôn mẫu định hình từ hỗn độn và rối loạn. Cũng như làm việc với một mẫu váy mới thôi, cô nghĩ thầm. Các mẫu vẽ bằng giấy trông cũng rối rắm, cho đến khi được ghép nối với nhau một cách quy củ.
Giờ cô đã đủ khả năng nhận ra rằng tất cả những rung động điên cuồng nọ đều là một phần của một ngày bình thường nơi tòa án. Chẳng hạn, đám đông tán loạn ngoài hành lang chỉ đơn giản đang cố tìm kiếm bảng thông báo có ghi số vụ kiện của họ cùng vị trí phòng xử. Những nhóm người thì thọt với nhau trong các góc tối một cách rất khả nghi là các tay trung gian đang đàm phán tiền hối lộ. Những người mồm hò hét tên ai đó là các luật sư đang tìm khách hàng của mình, hoặc ngược lại, vì vụ kiện của họ sắp được đem ra xét xử. Sau khi đã chờ đợi hàng tháng trời, và lắm lúc là cả hàng năm trời, thái độ điên cuồng của những kẻ đi thưa kiện là điều dễ hiểu. Không có gì khủng khiếp hơn là bị bồi thẩm đoàn sửa đổi lịch phiên tòa vì vị cố vấn pháp luật đã chọn đúng giây phút hệ trọng này để đi toa lét, hoặc kiếm một tách trà, mà không thèm báo trước với thư ký.
Khi Dina đã lần ra đầu dây mối nhợ của trật tự bên trong sự hỗn độn, cô cảm thấy tự tin hơn. Cô quay ra phía ngoài khu tổ hợp và tìm luật sư để thuê. Một số người đang trưng bày những biển hiệu viết tay liệt kê dịch vụ và chuyên môn của mình: Ở ĐÂY CHUYÊN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ LI DỊ; DI CHÚC VÀ CHÚC THƯ; LIÊN HỆ BÁN THẬN; NHẬN THẢO BẢN CUNG KHAI BẰNG TIẾNG ANH CHUẨN NHANH GỌN, RÕ RÀNG.
Những người khác lại chọn cách rao lớn như các hàng quán ngoài chợ: “Bản sao công chứng, chỉ năm rupi! Bản khai có tuyên thệ, mười lăm rupi! Nhận mọi vụ kiện, mọi loại tội, giá rẻ!”
Cô dừng chân trước mặt một người trưng tấm biển quảng cáo có dòng đầu tiên đề: TRANH CHẤP VỀ NHÀ CHO THUÊ – CHỈ 500 RUPI. Khi cô dợm miệng định nói với anh ta, cả một bầy người, nhác thấy cơ hội xuất hiện, tức thì ùa đến vây lấy cô, vạt áo vét đen bay phấp phới. Nhiều chiếc áo trong số đó còn không đáng được gọi là đen, nước áo đã phai thành màu xám do giặt tẩy.
Đám luật sư chen lấn xô đẩy nhau hòng thu hút sự chú ý của cô nhưng vẫn duy trì lòng tự trọng khi giữ cuộc ganh đua khỏi nhuốm màu cá nhân. Thái độ kình địch trong nghề không hề bộc lộ trên gương mặt họ; tịnh không có lấy một cái cau mày hay một tiếng gắt gỏng giữa bọn họ. Ai nấy dường như đều mù điếc trước sự hiện diện của những người khác trong khi vẫn nài xin được lưu tâm.
Một người tách lên phía trước cả đám và gí mấy tấm chứng chỉ luật vào tận mặt cô. “Thưa cô! Xin cô nhìn cho – bằng thật của trường tốt! Có rất nhiều đứa lừa đảo giả danh luật sư! Dù cô chọn ai, xin hãy cẩn thận, luôn nhớ phải kiểm tra bằng cấp trước!”
“Giảm giá đặc biệt!” Một người đàn ông đứng ngoài rìa bầy người hét lớn. “Không tính phụ phí đánh máy văn bản – dịch vụ trọn gói giá rẻ!”
Họ đã vây kín cô. Bực bội vì sự chú ý không mong muốn, cô cố giải thoát chính mình khỏi cuộc hỗn chiến. “Xin thứ lỗi, tôi đang…”
“Án gì thế, thưa cô?” Một người đang cố kiễng cao chân để được nhìn thấy gào lên. “Tôi có thể xử lý được cả án dân sự lẫn hình sự!”
Nhiều giọt nước bọt của anh ta bắn thẳng lên mắt kính và má cô. Cô rúm người lại, và cố gắng tìm đường ra. Rồi, trong lúc chen lấn, một bàn tay bóp mông cô, trong khi một bàn tay khác lia sát sạt lên ngực cô.
“Đồ đểu! Lũ khốn mất dạy!” Cô thúc khuỷu tay để len ra, và đã kịp đá trúng một, hai cái ống quyển trước khi cả đám tan tác. Cô ước sao mình đem theo cây ô in hình ngôi chùa – cô sẽ dạy cho bọn này một mẻ nhớ đời.
Bàn tay cô run rẩy, và cô phải căng óc ra để đặt chân này phía trước chân kia sao cho không vấp ngã. Cô tránh ra một góc bớt đông đúc hơn của khu tổ hợp, ở bên sườn tòa nhà. Vắng bóng đám luật sư, nơi này im ắng hẳn. Những băng ghế gỗ dàn hàng dọc dãy rào khu tổ hợp. Nhiều người đang nằm nghỉ trên bãi cỏ, tranh thủ đánh một giấc với đôi dép lót dưới đầu, vừa để giữ đồ, vừa làm gối. Những người khác đang ăn cơm đựng trong những chiếc cặp lồng đựng đồ ăn trưa bằng thép không gỉ sáng bóng. Một bà mẹ đang gọt hồng xiêm bằng con dao nhíp và đút những miếng quả màu nâu ngọt lịm cho con. Tiếng nhạc từ một chiếc đài bán dẫn nhỏ vo ve như cánh chuồn chuồn trong buổi chiều nóng nực.
Giữa khung cảnh êm đềm này, trên một băng ghế gãy, một người đàn ông ngồi trân mắt nhìn lên cây xoài. Ba thằng bé đang ném đá vào mấy quả xoài xanh cứng đơ trong lúc bố mẹ chúng ngủ gà gật trên bãi cỏ. Nỗ lực của chúng rốt cuộc cũng khiến một quả đứt cuống. Mỗi đứa cắn một miếng rồi chuyền tay nhau, thịt quả xanh chua lè làm mồm đứa nào đứa nấy chun lại. Rùng mình vì khoái chí, mắt nhắm tịt, chúng nghiến chặt răng để tận hưởng thứ lạc thú ghê người. Người đàn ông ngồi trên băng ghế gãy mỉm cười và gật gù, nhấm nháp những kỉ niệm được lũ trẻ khơi lên. Túi áo sơ mi của ông phồng căng vì những cây bút mực đựng trong một chiếc hộp nhựa đặc biệt. Dưới chân ông là một bảng chữ nhật bằng bìa các tông có kích cỡ chừng bốn mươi nhân hai mươi lăm phân, được đặt tựa vào một viên gạch.
Tò mò, Dina lại gần và đọc những dòng chữ viết trên bảng: Vasantrao Valmik – Cử nhân văn chương, cử nhân luật[49]. Lạ thật, cô nghĩ thầm, tại sao ông ta lại bằng lòng ngồi đây một cách thờ ơ như thế nếu ông ta là một luật sư. Và thậm chí ông còn chẳng có lấy chiếc áo vét đen hay bỏ công đi kiếm việc.
“Thưa cô, thay mặt ngành nghề của mình, tôi muốn xin cô thứ lỗi vì quang cảnh đáng hổ thẹn gần cửa vào,” Valmik lên tiếng.
“Cảm ơn ông,” Dina nói.
“Không, thưa cô, tôi phải cảm ơn cô vì đã chấp nhận lời xin lỗi của tôi mới phải. Thật nhục nhã quá, cứ trông cái cách họ bu lấy cô. Ngồi ở đây, tôi đã trông thấy hết.” Ông ta buông cái chân đang bắt chữ ngũ xuống, ngón chân cái ông hích phải tấm bảng bằng giấy bìa khiến nó đổ ập. Ông dựng thẳng nó dậy và chỉnh lại viên gạch kê.
“Từ chỗ ngồi trên băng ghế này, tôi đã quan sát thấy rất nhiều chuyện mỗi ngày. Và phần lớn khiến tôi vô cùng tuyệt vọng. Nhưng biết mong hòng gì đây, khi phán quyết đã rơi vào tay lũ ác thú tàn bạo, và các vị lãnh đạo của đất nước đã đổi trí tuệ và một nền cai trị tốt đẹp để lấy sự hèn nhát và mở mang quyền lực cá nhân? Xã hội của chúng ta đang mục nát từ nóc xuống.”
Ông ngồi dịch sang mép của băng ghế xiêu đổ, nhường cho cô phần ghế ít vẹo vọ hơn. “Mời cô ngồi.”
Dina nhận lời, bị ấn tượng mạnh bởi lời lẽ và phong thái của ông ta. Cô có cảm giác ông lạc điệu hẳn so với tất cả những gì bao quanh ông. Một gian văn phòng được bố trí trang nhã với một chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ, ghế bọc da, và những giá sách đầy kín sẽ hợp với ông hơn. “Ở bên này tòa án, cảnh vật thật êm ả,” cô nói.
“Phải, tuyệt quá phải không? Các gia đình nghỉ ngơi trong bình yên, chờ thời gian trôi qua cho đến khi Những Bánh Xe Công Lý nghiền ra vụ kiện của mình. Ai mà tin nổi khung cảnh tươi đẹp này thực chất lại là cái rạp hát nhếch nhác cho hiềm khích và thù hằn, cái sân khấu vụn nát nơi những bi kịch và cả trò hề được biểu diễn? Ở ngoài đây, trông nó giống một khu dã ngoại hơn là một chiến trường. Cách đây vài tháng tôi thậm chí còn được chứng kiến một người phụ nữ trở dạ và sinh con ngay giữa nơi này, trong hạnh phúc tột bậc. Chị ta không muốn đến bệnh viện, vì không muốn vụ án của mình bị đình trệ thêm nữa. Chị ta là khách hàng của tôi. Chúng tôi đã thắng kiện.”
“Vậy ra ông là luật sư đang hành nghề?”
“Vâng, quả vậy,” ông chỉ vào tấm bảng. “Có bằng cấp hẳn hoi. Nhưng từ ngày xửa ngày xưa, cách đây rất nhiều năm, từ hồi tôi còn học đại học, ở Khoa Văn năm nhất, các bạn bè thường bảo tôi chẳng cần học nữa vì khi đó đã là LL.B rồi.”
“Nghĩa là sao?”
“Lord of the Last Bench – Vua Của Băng Ghế Cuối,” ngài Valmik nói, đoạn mỉm cười. “Họ trao cho tôi bằng danh dự này vì tôi luôn chọn chỗ cuối ở vị trí xa xôi hẻo lánh nhất trong lớp, nhờ thế tôi có một góc nhìn bao quát toàn thể. Và tôi phải thú nhận là, vị trí ấy dạy tôi nhiều điều về bản chất con người và công lý hơn cả những gì có thể học được từ bài giảng của các giáo sư.”
Ông vuốt lên bó bút cất trong túi áo sơ mi như thể để đoan chắc chúng vẫn có mặt đầy đủ và được quan tâm cẩn thận. Chúng kêu lạo xạo dữ dội trong lớp bảo vệ bằng nhựa, như một ống mũi tên. “Giờ tôi ngồi đây, với một bằng cấp mới: L.BB – Lord of the Broken Bench, Vua Của Băng Ghế Hỏng. Và sự nghiệp học tập của tôi vẫn tiếp tục.” Ông bật cười, và Dina lịch sự góp tiếng cùng ông. Chỗ ngồi ọp ẹp của họ rung chuyển.
“Nhưng tại sao vậy, ngài Valmik, sao ngài không ra trước cửa mà đứng như các luật sư khác, rồi chèo kéo mời mọc khách hàng?”
Ông ta hướng ánh nhìn lên cây xoài và nói: “Tôi cảm thấy những hành vi kiểu ấy quá ư lông lỗ, hoàn toàn infra dig.” Ông ta vội vã đế thêm, “Tức là quá thấp kém so với phẩm giá của tôi ấy mà,” lo rằng cô sẽ coi việc ví von bằng tiếng La tinh là hành vi khoe khoang hợm mình.
“Nhưng nếu ông chỉ ngồi đây, thì ông kiếm sống ra sao?”
“Thì cũng xoay xở được cả thôi. Mỗi lúc một ít. Cuối cùng cũng có người sẽ phát hiện ra tôi. Những người kiểu như cô, khi đã quá ghê tởm với bọn dân luật thô lậu và lũ con phe thùng rỗng kêu to kia. Dĩ nhiên, không phải ai trong số đó cũng xấu nết cả – họ chỉ đói việc quá đấy thôi.” Ông ta vẫy tay chào thân ái với một viên thư ký tòa án bước ngang qua và lại vuốt ve mấy chiếc bút của mình. “Ngay cả nếu tôi có đủ gan để làm những việc thô tục ấy, thì khuyết tật thanh quản cũng không cho phép tôi cạnh tranh trong cuộc chiến ầm ĩ kia. Cô thấy đấy, tôi bị bệnh đường họng rất nặng. Chỉ cần lên giọng là tôi sẽ mất tiếng hẳn luôn.”
“Ôi, thật không may.”
“Không, cũng không hẳn,” ngài Valmik trấn an cô. Ông ta coi sự đồng cảm chân thành là một món hàng quý giá, và ghét phải thấy nó bị phung phí. “Không, nó chẳng ảnh hưởng đến tôi một mảy nào. Ngày nay, người ta đã không còn chuộng những vị luật sư có thể khiến tiếng nói của mình rổn rảng khắp chốn pháp đình, thôi miên thẩm phán và bồi thẩm đoàn giữa những mê cung hùng biện.” Ông bật cười. “Không ai có nhu cầu vời đến Clarence Darrow nữa – hết sạch các vụ án khỉ Scopes[50] rồi mà. Mặc dù khỉ thì vẫn còn nhiều lắm, ở phòng xử án nào cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng diễn trò để đổi lấy lạc và chuối.”
Ông thở dài não nề, và giọng mai mỉa của ông bỗng bị nỗi đau choán chỗ. “Nhưng bọn ta là cái quái gì mà đòi mở miệng, hả cô, bọn ta là cái quái gì mà đòi nghĩ về hiện trạng của đất nước này? Khi tòa án cao nhất của cái xứ sở này đã biến tội lỗi của thủ tướng thành vô tội, thì toàn bộ chốn này” – ông ta khoát tay về phía tòa nhà đá uy nghi – “nó đã trở thành một viện bảo tàng của những mánh lừa lọc rẻ tiền, thay vì thứ pháp luật biết sống, biết thở giúp thổi thêm sức mạnh cho xã hội.”
Xúc động trước sức nặng của nỗi đau trong lòng ông, Dina hỏi: “Tại sao Tòa án tối cao lại làm thế?”
“Ai mà biết tại sao hả cô. Tại sao lại có bệnh tật, có nạn đói, có khổ đau? Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi như thế nào, ở đâu, khi nào thôi. Thủ tướng gian lận trong cuộc bầu cử, và thế là mọi quy định có liên quan lập tức được sửa đổi. Vậy là bà ta thành vô tội. Bọn người trần mắt thịt khốn khổ chúng ta đành phải chấp nhận rằng những chuyện trong quá khứ là nằm ngoài tầm với của ta, trong khi thủ tướng lại chơi trò tung hứng với thời gian đã qua.”
Ngài Valmik đột nhiên im bặt, ông nhận ra mình đang huyên thuyên vớ vẩn trong khi một khách hàng tiềm năng đang ngồi ngay bên cạnh. “Nhưng vụ án của cô thì sao, thưa cô? Trông cô có vẻ là người khá thông thạo chốn này.”
“Tôi chưa bao giờ đặt chân đến tòa án.”
“A, vậy thì cô đã sống một cuộc đời may mắn lắm đấy,” ông ta thì thầm. “Tôi không muốn tọc mạch đâu, nhưng liệu có cần phải viện đến luật sư không?”
“Có, việc liên quan đến căn hộ của tôi. Rắc rối phát sinh cách đây mười chín năm, sau ngày chồng tôi qua đời.” Cô kể cho ông ta mọi chuyện, khởi đầu từ lá thư thông báo đầu tiên của chủ nhà chỉ vài tháng sau khi Rustom mất vào đúng lễ kỉ niệm ba năm ngày cưới của hai vợ chồng, và chuyện mấy người thợ may, người khách trọ, những cuộc quấy rối không ngưng nghỉ của lão thu tiền nhà, vụ dọa dẫm của bọn đầu gấu, vòng bảo kê của Ông trùm ăn mày, và cái chết của ông ta.
Ngài Valmik áp đầu các ngón tay lại với nhau thành hình ngọn tháp và lắng nghe. Ông ta không nhúc nhích lấy một lần, kể cả để vuốt ve mấy chiếc bút thân yêu cũng không. Cô lấy làm kinh ngạc bởi ông cẩn trọng để tâm đến vậy – gần như cũng cẩn trọng như lúc ông nói.
Cô kể xong, ông buông tay xuống. Rồi ông nói bằng giọng nho nhỏ đã bắt đầu chuyển thành khàn khàn, “Đây là một tình huống rất gian nan. Cô biết đấy, thưa cô, đôi khi hành động ex curia thoạt trông có vẻ là chuyện cần kíp.” Trông thấy cô lộ vẻ bối rối, ông ta đế thêm, “Nghĩa là ngoài vòng tòa án. Nhưng cuối cùng nó lại làm nảy sinh càng nhiều rắc rối hơn. Đúng, đang có một cơn đại dịch đầu gấu trong bối cảnh loạn lạc của thời đại chúng ta. Nói cho cùng, đây là một Đế Chế Đầu Gấu. Thế nên ai có thể trách cô được vì đã chọn con đường đó? Có kẻ nào lại muốn bước vào Ngôi Đền Công Lý nhơ nhớp, nơi Công Lý nằm phơi thây, bị chém giết bởi chính tay các hộ vệ của nó? Và nay những tên sát nhân ấy lại dám phỉ báng công cuộc thiêng liêng ấy, đem bán những thứ của nhái theo phẩm chất chí công vô tư của Công Lý cho kẻ trả giá cao nhất.”
Dina bắt đầu ước sao ngài Valmik ngừng nói năng theo cái lối khoa trương này. Lúc đầu nghe thế cũng thú vị, nhưng chẳng mấy chốc nó đã trở thành vô cùng mệt mỏi. Mọi người thích diễn thuyết thật, cô nghĩ. Bệnh phóng đại và ngoa ngôn đã lây lan ra khắp đất nước, từ các bộ trưởng cho tới luật sư, người thu tiền nhà đến người thu mua tóc.
“Vậy ông bảo là không còn hi vọng nữa ư?” Cô ngắt lời ông.
“Luôn luôn có hi vọng – hi vọng đủ để đối trọng lại nỗi tuyệt vọng của chúng ta. Nếu không, chúng ta sẽ lạc lối mất.”
Ông ta lấy từ trong cặp ra một cuốn sổ, đoạn âu yếm chọn một chiếc bút từ cái túi được sắp xếp quy củ, và bắt đầu ghi chép. “Có lẽ bóng ma của Công Lý vẫn còn lảng vảng đâu đây, sẵn lòng giúp chúng ta. Nếu một vị quan tòa tử tế nghe kiến nghị của chúng ta và phê chuẩn lệnh cấm, cô sẽ được an toàn cho đến khi vụ án được xét xử. Tên của cô?”
“Dalal. Dina Dalal. Nhưng ông tính thù lao bao nhiêu?”
“Bất cứ mức nào cô có thể trả được. Chúng ta sẽ lo chuyện đó sau.” Ông ta ghi tháu tên của chủ nhà và địa chỉ công ty, và những chi tiết liên quan đến lịch sử vụ án. “Lời khuyên tôi dành cho cô là, đừng bỏ căn hộ trong cảnh không người ở. Sở hữu chiếm đến chín phần mười luật pháp. Còn bọn đầu gấu về cơ bản chỉ rặt một lũ thỏ đế. Liệu có thể kiếm được ai đó, họ hàng hoặc bạn bè, đến ở với cô không?”
“Chẳng có ai cả.”
“Phải, không bao giờ có, phải không? Xin hãy thứ lỗi cho câu hỏi của tôi.” Ông ta ngừng lời, rồi thổ ra một tràng ho sặc sụa ghê người. “Xin cô thứ lỗi,” ông ta rền rĩ, “tôi nghĩ tôi đã vượt quá định mức hội thoại của cổ họng tôi rồi.”
“Trời đất,” Dina nói, “thế thì tệ quá.”
“Mà đây đã là sau điều trị rồi đấy nhé,” ông ta nói, bằng giọng tưởng như đang khuếch khoác. “Cô phải nghe tôi nói cách đây một năm kia. Lúc ấy tôi chỉ có thể chí chít như chuột thôi.”
“Nhưng cái gì đã tàn hại cổ họng của ông đến mức ấy? Ông gặp tai nạn hay gì à?”
“Nói cách nào đó cũng đúng đấy,” ông ta thở dài. “Nói cho cùng, cuộc đời của chúng ta bất quá chỉ là một chuỗi những tai nạn – một sợi xích leng keng kết từ những sự kiện tình cờ. Một dải dây lựa chọn, dù vô tình hay hữu ý, nối dài mãi thành một tai họa lớn mà chúng ta gọi là cuộc đời.”
Ông ta lại bắt đầu nữa rồi, cô nghĩ. Nhưng lời ông ta nói nghe cũng có lý. Cô đem chiếu theo chính những trải nghiệm của mình. Những sự kiện ngẫu nhiên đã quyết định tất cả: cái chết của bố cô, khi cô mới mười hai tuổi. Và toàn bộ cuộc đời của hai người thợ may. Và Maneck, mới quay về nhà đó đã lại biến sang Dubai. Có lẽ cô sẽ không bao giờ còn gặp lại cậu nữa, cả Ishvar và Om. Từ hư không họ đã bước vào đời cô, và nay lại biến mất vào hư không.
Trong khi đó, ngài Valmik, để trả lời câu hỏi của cô, đưa tay lên sờ nắn mấy chiếc bút quý giá và bắt đầu kể câu chuyện của mình. Dina cảm thấy có gì đó hơi tục tĩu trong thói quen này của ông. Dẫu vậy, sờ bút vẫn còn hơn chán sờ đũng quần như cái cách một số gã đàn ông vẫn làm, để chỉnh cái đó của mình sang trái hoặc phải, hoặc chẳng vì lý do gì cả.
Giọng ông khản đặc lại khi ông kể về chàng sinh viên trẻ tuổi đầy nhiệt huyết ở trường luật, người có những tiềm năng đã được các giáo viên phát hiện từ rất sớm, nhưng cũng là người, sau khi được vời ra giữa chốn pháp đình, chỉ còn khao khát sự bình yên và cô độc, và đã tìm thấy nó trong công việc sửa bản in. “Trong suốt hai nhăm năm, tôi vui hưởng sự bầu bạn văn minh của những con chữ. Cho đến một ngày, khi mắt tôi sinh bệnh dị ứng và thế giới của tôi bị đảo lộn.”
Những âm thanh khọt khẹt phát ra từ cổ họng của ông bị biến dạng đến mức Dina khó có thể hiểu nổi ông. Nhưng tai cô dần thích ứng với những âm sắc hiếm gặp và tần số lạ lùng nọ. Cô nhận ra rằng mặc dù ngài Valmik miêu tả cuộc sống như một chuỗi những tai nạn, nhưng chẳng có gì là tình cờ ngẫu nhiên trong kĩ năng thuyết trình bậc thầy của ông hết. Những câu ông nói tuôn ra như những đường may hoàn hảo, nối khít các mảnh chuyện của ông lại mà không hề để lộ vết chỉ. Không biết ông có ý thức về việc sắp xếp các sự kiện cho cô hiểu không nhỉ? Có lẽ là không – có lẽ chính bản thân hành động kể đã tạo ra một kiểu mẫu tự nhiên. Có lẽ đó là một biệt tài mà loài người có sẵn, để dọn dẹp chính sự tồn tại bừa bãi của mình – một vũ khí sinh tồn bí mật, như những kháng thể có trong máu.
Khi nói, ông lơ đễnh rút ra một cây bút mực, mở nắp, và gí ngòi bút vào mũi. Cô ngẩn người nhìn từng bên mũi lần lượt được bịt chặt lại và mùi mực thơm được hít vào thật sâu.
Được tiếp thêm sức mạnh nhờ liều Mực Xanh Hoàng Gia, ông tiếp lời: “Giờ tôi phải bằng lòng với thế giới ồn ào của ngành tổ chức mít tinh và tuần hành phản đối, để có cái mà bỏ bụng. Sáng tác khẩu hiệu và gào thét khẩu hiệu trở thành nghề mới của tôi. Và do đó đã khơi mào cho quá trình hủy hoại bộ dây thanh âm của tôi.”
Câu chuyện của vị luật sư nhắc cô nhớ đến tấm chăn ghép đã bị lãng quên. Món quà cưới của Om. Và ngài Valmik cũng có những mảnh ghép của riêng mình để thiết kế nên tấm chăn bằng lời mà nay ông đang thuật lại cho cô hay. Như một ảo thuật gia rút từ trong miệng mình ra một dải khăn lụa dài bất tận.
“Rốt cuộc, đó lại là một sự kiện ngẫu nhiên khác – việc tôi tìm thấy viên hạ sĩ quan. Hò hét là bản năng thứ nhì đối với ông ta. Ông ta hò hét ngay cả khi không cần thiết. Cái cổ họng bằng da sống ấy khỏe mạnh nhờ hét, và cuối cùng tôi cũng đã có thể cho phép họng tôi nghỉ ngơi.”
Ông ta ngừng lời để mời cô một viên kẹo ngậm ho; cô từ chối. Ông bèn thả tọt một viên vào miệng mình. “Tôi đã ấp ủ biết bao dự định, nào là mở rộng, nào lập chi nhánh ở tất cả các thành phố lớn. Tôi còn tưởng tượng ra viễn cảnh tậu một chiếc máy bay trực thăng và đào tạo một Nhóm sản xuất khẩu hiệu bay. Hễ ở đâu nổ ra một vụ đình công hay bạo động, bất cứ khi nào nhu cầu về một cuộc biểu tình phản đối phát sinh, chỉ cần một cú điện thoại là người của tôi sẽ từ trên trời bay xuống, băng rôn biểu ngữ sẵn sàng.”
Tia sáng táo bạo trong mắt ông nhạt dần cùng một vẻ miễn cưỡng. “Thật không may, dưới Tình trạng khẩn cấp, các cuộc tuần hành và biểu tình đều bị chính phủ cấm đoán. Thế là suốt một năm qua tôi đành ngồi trên băng ghế gãy này, bên người luôn thủ sẵn tấm bằng luật. Vòng tròn đã khép.”
Ông nhai nát viên kẹo ngậm đang mút dở, vì đã mất hết kiên nhẫn với việc đảo nó từ má bên này sang má bên kia. “Tôi đã mất biết bao nhiêu thứ trong quá trình vẽ nên cái quỹ đạo đó. Tham vọng, sự bình yên, từ ngữ, thị lực, dây thanh âm. Thực ra, chủ đề trung tâm của câu chuyện đời tôi chính là: mất mát. Nhưng chẳng phải mọi câu chuyện đời đều như vậy hay sao? Mất mát là tất yếu. Mất mát là một phần căn cốt của cái tai họa thiết yếu mà ta gọi là cuộc đời kia.”
Cô gật đầu, chưa thực bị thuyết phục.
“Xin nói để cô rõ, không phải tôi đang kêu ca đâu. Nhờ vào một nguồn lực dẫn hướng không thể cắt nghĩa nổi của vũ trụ, cái chúng ta đánh mất luôn là những thứ vô giá trị – bị tróc ra, như một con rắn lột xác. Đánh mất, rồi lại tiếp tục đánh mất, là nền tảng căn bản của quá trình sống, cho đến khi tất cả chúng ta chỉ còn lại phần tinh cốt nhất của sự sống con người mà thôi.”
Giờ Dina đã cực kì mất kiên nhẫn với ngài Valmik. Câu cuối cùng nghe như một mớ từ ngữ vô nghĩa buồn chán. “Con rắn có một lớp da mới toanh ở bên dưới,” cô ngắt lời ông ta. “Tôi thì mong không phải mất căn hộ của mình, trừ phi có một căn mới xuất hiện thế chỗ cho nó.”
Trông mặt ngài Valmik như thể ông ta vừa bị đá vào bụng. Nhưng ông lấy lại bình tĩnh rất nhanh và mỉm cười, tỏ ý đánh giá cao lập luận của cô. “Rất tốt. Thật sự rất tốt. Và óc hài hước cũng rất tuyệt vời. Một trong những điểm yếu của ngành nghề của tôi là sự thiếu vắng hoàn toàn của óc hài hước. Luật Pháp là một thứ nghiêm ngắn, cau có. Nhưng Công Lý thì không. Công Lý dí dỏm và kì quặc, nhân hậu và tử tế.”
Ông nhặt tấm bảng lên và cất nó đi, xếp viên gạch vào dưới chân băng ghế dành khi ông lại cần đến nó. Ông phủi lớp bụi đỏ khỏi tay mình và hùng hồn tuyên bố: “Tôi sẽ đứng lên và đi ngay, và đi viết lời thỉnh cầu này, cùng một bản kiến nghị thuyết phục kết, bằng từ ngữ và vô vàn tâm huyết.”
Lối diễn đạt kì quặc khiến cô nhìn ngài Valmik chằm chằm bằng con mắt hiếu kì. Cô tự hỏi không hiểu rốt cuộc mình có chọn đúng luật sư hay không.
“Xin cô đừng bận lòng vì tôi,” ông nói. “Tôi chịu ảnh hưởng của thi hào Yeats. Tôi cảm thấy từ ngữ ông viết đặc biệt đắc địa trong cái Tình trạng khẩn cấp đáng hổ thẹn này. Cô biết đấy – vạn vật tan rã, trung tâm sụp đổ, cảnh loạn lạc ngập tràn thế gian, và những thứ kiểu như thế.”
“Vâng,” Dina nói. “Và tất thảy đều có kết cục tồi tệ.”
“A,” ông Valmik nói. “Câu đấy thì quá bi quan so với ngài Yeats. Ông ấy sẽ không bao giờ viết ra một câu như thế. Nhưng xin cô hãy đến văn phòng của tôi, vào ngày kia, và tôi sẽ cập nhật đầy đủ tình hình cho cô hay.”
“Văn phòng ư? Ở đâu?”
“Ngay đây,” ông ta bật cười. “Cái ghế gãy này là văn phòng của tôi.” Ông ta dịu dàng vỗ lên chiếc bút mà ông vừa cất trở lại hộp nhựa. “Cô Dalal, tôi phải cảm ơn cô vì đã lắng nghe câu chuyện của tôi. Thời nay chẳng có mấy người có thời gian để chiều tôi như thế. Cơ hội cuối cùng tôi có là cách đây một năm, với một cậu sinh viên. Chúng tôi đi cùng một chuyến tàu hỏa rất dài. Một lần nữa, xin cảm ơn cô.”
“Không có gì, ông Valmik ạ.”
Sau khi ông ta đi khỏi, một nhóm choai choai mới lại say sưa tìm cách cướp lấy những báu vật còn xanh hiếm hoi của cây xoài. Ngắm nhìn nỗ lực và niềm phấn khích của chúng thật thú vị. Dina ngồi nán lại thêm ít phút nữa rồi mới về nhà.
Một viên hạ sĩ và một cảnh sát đang tranh cãi với hai gã đàn ông về chiếc khóa trên cửa trước. Cảnh tượng này đã được tái hiện thường xuyên trong tâm trí Dina; cô tịnh không cảm thấy chút hoảng loạn nào. Một giai đoạn của cuộc sống đã khép lại, một giai đoạn khác mở ra. Đã đến lúc thanh toán món trả góp mới nhất, cô nghĩ. Một mảnh ghép khác trong tấm chăn.
Cô nhận ra hai gã đàn ông, chính là hai tay đầu gấu của lão chủ nhà. Cô nhận ra bàn tay chúng trông khác quá, nhờ có Ông trùm. Những ngón tay đã bị bẻ gãy thành những hình thù kì dị, vẹo vọ, ngón dài ngón ngắn, trông y như trong tranh vẽ của một đứa trẻ con. Ông trùm đã chết song tác phẩm của ông vẫn còn mãi.
“Cái gì thế, các người muốn gì ở đây hả?” Cô quát.
“Hạ sĩ Kesar, thưa cô,” lão nói, đoạn rút hai ngón tay cái ra khỏi thắt lưng, nơi lão vừa xọc chúng vào một cách hung hăng khi nói chuyện với hai tên đầu gấu. “Rất xin lỗi cô vì sự phiền toái. Có yêu cầu thu hồi lại căn hộ này.”
“Ông không thể làm thế được. Tôi vừa đi gặp luật sư của tôi về, ông ấy đang đệ đơn xin lệnh cấm.”
Gã đầu gấu hói nhe răng cười. “Xin lỗi bà chị nhé. Chúng tôi đến trước.”
“Đến trước, ý anh là gì?” Cô quay sang hạ sĩ Kesar: “Đây có phải là cuộc đua đâu, tôi có quyền trình ra tòa.”
Lão buồn bã lắc đầu; lão đã có một mối “quen biết công việc” lâu dài với bọn đầu gấu và đang chờ đợi ngày bọn chúng có thể bị tống vào tù. “Thưa cô, nói thật là, tôi không thể làm gì được. Đôi khi luật pháp vận hành y hệt một cuộc đua mang chanh bằng thìa. Việc thu hồi nhà phải được thực hiện trước đã. Cô có thể đâm đơn kiện sau.”
“Như thế thà tôi đâm đầu vào tường còn hơn.”
Một gã đầu gấu tỏ ý đồng tình với cô, đầu gật gù thông cảm. “Tòa án chả được tích sự gì đâu. Hết tranh biện đến tạm hoãn, xong chứng thực lại tới chứng cứ. Mãi chả xong việc. Những trò ngu xuẩn đấy là không cần thiết dưới Tình trạng khẩn cấp.” Đồng sự của hắn bèn lắc lắc cái khóa, nhắc nhở luật pháp tiếp tục phận sự của mình.
“Thưa cô,” Hạ sĩ Kesar nói, “xin cô mở khóa ra ngay cho, có được không?”
“Nếu tôi từ chối?”
“Thì tôi sẽ phải phá khóa,” lão rầu rĩ đáp.
“Và chuyện gì sẽ xảy ra sau khi tôi mở khóa?”
“Căn hộ sẽ bị dọn sạch,” lão lí nhí, nỗi hổ thẹn khiến lời lão nói chỉ còn bé vo ve.
“Sao chứ?”
“Dọn sạch,” lão nhắc lại to hơn một tí. “Căn hộ của cô sẽ bị dọn sạch.”
“Vứt hết đồ đoàn ra vỉa hè ư? Tại sao? Tại sao bọn chúng lại cư xử chẳng khác nào lũ thú vật như vậy? Chí ít cũng cho tôi một, hai ngày để sắp xếp chứ.”
“Nói thật là, thưa cô, chuyện ấy đều tùy vào chủ nhà.”
“Thời gian đã hết rồi,” gã đầu hói nói. “Với tư cách là đại diện của chủ nhà, chúng tôi không thể cho phép bất cứ thủ đoạn trì hoãn nào hết.”
Hạ sĩ Kesar quay sang Dina. “Cô đừng lo, thưa cô, đồ đạc của cô sẽ được an toàn. Tôi sẽ đảm bảo họ làm ăn thật cẩn thận. Thuộc cấp của tôi sẽ giám sát. Nếu cô muốn, tôi có thể sai anh ta đi thuê một chiếc xe tải cho cô.”
Cô lấy chiếc chìa khóa trong túi và mở khóa cửa. Đám đầu gấu định lao bổ vào, làm như cánh cửa có thể đóng sập trở lại, nhưng đã bị chặn đứng bởi cánh tay của hạ sĩ Kesar. Như một viên cảnh sát giao thông, lão giơ tay lên cản hai gã kia.
“Thưa cô, mời cô đi trước,” lão cúi người, đoạn theo gót cô.
Những thứ đầu tiên họ nhìn thấy là mấy chiếc thùng các tông xếp chồng lên nhau xếp trong một góc hành lang. Hai gã đầu gấu bắt tay vào bê chúng ra ngoài.
“Đấy không phải hộp của tôi, tôi không muốn giữ chúng,” Dina quát, trút hết giận dữ vào những kẻ vắng mặt – họ đã bỏ rơi cô, họ đã để mặc cô một thân một mình đối mặt với chuyện này.
“Không phải của cô à? Tốt, nếu vậy chúng tôi sẽ lấy chỗ hộp này.”
Cô cất hết quần áo cùng các vật dụng linh tinh vào các ngăn kéo và tủ giả, cố gắng đi trước hai gã đầu gấu vài bước trong khi chúng bắt tay vào khiêng đồ đạc ra đường. Hạ sĩ Kesar sắm nắm chạy quanh cô, sốt sắng muốn giúp đỡ. “Cô đã quyết định sẽ chuyển đồ đi đâu chưa?”
“Tôi sẽ ra Vishram và gọi điện cho anh trai tôi. Ông ấy sẽ phái xe tải của công ty ông ấy đến.”
“Được, vậy tôi sẽ để mắt đến hai tên kia. Tôi còn có thể giúp việc gì khác trong khi cô đi vắng không, thưa cô?”
“Ngài được phép giúp tội phạm nữa ư?”
Lão lắc đầu buồn rầu. “Cô ạ, nói thật tội phạm là hai thằng kia, và cả lão chủ nhà nữa.”
“Thế mà tôi lại bị tống ra đường.”
“Thế giới chúng ta đang sống rồ dại thế đấy. Nếu tôi không có một gia đình phải nuôi, cô nghĩ tôi sẽ chịu làm việc này hay sao? Nhất là sau những khối u mà nó đã tặng tôi? Kể từ ngày Tình trạng khẩn cấp xuất hiện, mấy khối u cũng xuất hiện. Mới đầu tôi cứ tưởng chỉ là bệnh đau dạ dày. Nhưng bác sĩ đã xác nhận chẩn đoán, tôi sẽ phải làm phẫu thuật sớm.”
“Tôi rất tiếc vì việc này.” Cô tìm thấy chiếc tuốc nơ vít trên giá bếp và đưa nó cho lão. “Nếu ngài muốn, ngài có thể giúp tôi tháo cái biển tên ở cửa trước.”
Lão hân hoan vồ lấy món dụng cụ. “Ô, chắc chắn rồi. Tôi rất vui lòng, thưa cô.” Lão chạy đi, cảm giác tội lỗi bỗng được xoa dịu chút ít, và chỉ vài phút sau, lão đã thở phì phò trước tấm biển đồng, mồ hôi túa ra khi lão vật lộn với mấy con ốc vít.
“CÁI GÌ?” Nusswan thét lên trong điện thoại. “Bị thu hồi? Cô gọi cho anh sau khi đồ đạc đã bị vứt ra vỉa hè? Mất bò mới lo làm chuồng à?”
“Chuyện xảy ra đột ngột quá. Anh có cho xe tải tới được hay không?”
“Anh còn cách nào khác nữa đây? Đấy là bổn phận của anh. Ai sẽ giúp cô nếu anh không giúp?”
Hai gã kia đã gần xong việc khi cô quay về căn hộ. Xoong và chảo và bếp nấu trong bếp là những món cuối cùng phải mang ra ngoài. Viên cảnh sát đứng canh toàn bộ số của nả trên vỉa hè. Ruột gan hộ gia đình của cô khi được chất thành một đống như thế này, trông có vẻ chẳng nhiều nhặn gì, cô bỗng nghĩ, dường như không làm sao lấp đầy ba căn phòng, hay hai mươi mốt năm cuộc đời cô đã trôi qua giữa chúng.
Hạ sĩ Kesar rất mừng vì cô đã có người cứu giúp. “Cô may mắn lắm đấy, thưa cô, ít nhất cô còn có một chỗ để đi. Ngày nào tôi cũng phải chứng kiến những người cùng đường phải lấy vỉa hè làm nhà. Cứ thế nằm vật ra đất trong kiệt quệ, hoang mang, ê chề. Đáng kinh ngạc là họ học cách sử dụng bìa các tông và nhựa và báo nhanh ghê lắm.”
Lão đề nghị Dina kiểm tra các phòng ốc trước khi chuyển giao quyền giám hộ căn hộ. “Cô có chắc cô không muốn giữ mấy món ở ngoài hành lang không?” Lão thì thào.
“Đấy không phải đồ của tôi – toàn rác, đối với tôi thì chỉ là vậy.”
“Cô biết đấy, thưa cô, bất cứ thứ gì bị bỏ lại đây sẽ tự động biến thành tài sản của chủ nhà.”
“Chính là bọn này chứ ai,” hai gã đầu gấu nói, đoạn vồ lấy mấy chiếc hộp. Chúng đóng cánh cửa trước lại và móc một cái khóa mới vào chốt khóa. Hạ sĩ Kesar hoàn tất thủ tục; các văn bản in rô-nê-ô được kí thành ba bản.
Xong xuôi, hai gã đầu gấu chuyển hướng chú ý sang đống hộp, háo hức muốn kiểm tra phần thưởng bất ngờ dành cho mình. “Khoan đã,” gã hói nói, tay cầm lên một nắm đuôi sam. “Thứ rác rưởi gì thế này?”
“Rác rưởi là thế nào?” Đồng bọn của hắn cười lớn. “Tóc đích thị là thứ mày cần còn gì.”
Gã hói chẳng lấy thế làm buồn cười. “Xem ở hộp kia có gì nào.”
Hạ sĩ Kesar quan sát chúng một phút, rồi xọc hai ngón tay cái vào dưới thắt lưng. Lão đã sẵn sàng hành động. Lão nhớ ra vụ giết hai người ăn mày – Vụ Tên Sát Nhân Đói Tóc nổi tiếng. Đây chính là cơ hội lão đã chờ đợi. Lão mở khuy nắp bao súng, phòng trước vẫn hơn, và nói nhỏ vài câu chỉ dẫn với viên cảnh sát còn lại.
“Xin lỗi,” lão lịch sự nói với hai gã đầu gấu. “Hai anh đều bị bắt giữ vì tội giết người.”
Chúng cười. “Hê hê, hạ sĩ Kesar bây giờ cũng biết đùa cơ đấy.” Khi cổ tay cả hai bị viên cảnh sát còng lại trong chớp mắt, chúng lên tiếng phản đối rằng trò đùa đã đi quá xa. “Nói gì vậy chứ? Bọn này có giết ai đâu!”
“Có đấy: hai người ăn mày già. Đây là một vụ có chứng cứ ban đầu hoàn hảo. Tóc của hai người ăn mày bị giết đã bị cắt cụt và mang đi mất. Nay món tóc đó lại thuộc sở hữu của các người. Nó đã làm sáng tỏ mọi chuyện.”
“Nhưng chúng tôi mới tìm ra nó ở đây thôi mà! Chính ngài nhìn thấy chúng tôi mở hộp còn gì!”
“Nói thật là tôi chẳng thấy gì cả!”
“Ngài có chứng cứ giết người nào đâu! Làm sao ngài biết đây chính là món tóc kia?”
“Khỏi lo vụ đó. Như các người đã nói trước đấy, những thứ ngớ ngẩn như chứng cứ đâu có cần thiết nữa. Ngày nay, chúng ta đã có những thứ tuyệt vời như Tình trạng khẩn cấp và MISA rồi.”
“MISA là gì?” Dina hỏi.
“Luật đảm bảo an ninh nội địa, thưa cô. Rất tiện lợi. Cho phép bắt giam mà không cần qua xét xử, thời gian tạm giam lên tới hai năm. Có thể tăng mức án theo yêu cầu.” Lão nở nụ cười thân thiện và lại quay về phía hai gã côn đồ. “Suýt nữa tôi quên báo với hai người – các người có quyền giữ im lặng, nhưng nếu các người làm thế, các chàng trai của tôi ở đồn sẽ chế biến nắm xương của các người để giúp các người thú tội.”
Cả hai gã bị bắt ngồi xổm xuống, hai bàn tay bị còng phải đưa lên ôm lấy đầu. Hạ sĩ Kesar vẫn chưa sẵn sàng giải chúng đi. Lão nhồi lại mớ tóc vào hộp. “Bằng chứng số một đấy,” lão nói với Dina. “Cô đừng lo, tôi sẽ đợi ở đây cho đến khi xe tải của cô đến. Ai mà biết được bao nhiêu của nả của cô sẽ bốc hơi nếu tôi đi. Khi nào cô đã lên đường bình an, tôi mới lôi lũ chó này về đồn.”
“Cảm ơn ngài rất nhiều,” Dina nói.
“Không, cảm ơn cô. Cô đã cho tôi một ngày tuyệt vời.” Lão kiểm tra xem nắp bao súng đã được bấm lại chưa. “Cô có thích phim của Clint Eastwood không, thưa cô? Phim Dirty Harry ấy?”
“Tôi chưa xem phim nào của ông ấy. Phim hay không?”
“Kịch tính lắm. Phim toàn cảnh hành động đấm đá thôi.” Lão đế thêm cùng một nụ cười buồn. “Harry là một thanh tra hạng nhất. Ông ta giúp lập lại công lý ngay cả khi luật pháp biến nó thành điều bất khả thi.” Vừa hạ giọng thành một lời thì thào, lão hỏi: “Nhân thể, cô này, tại sao món tóc này lại đến được hành lang nhà cô?”
“Tôi cũng không biết đích xác. Có hai thợ may làm việc cho tôi, và họ có một người bạn làm nghề thu mua tóc, và… tôi không chắc nữa, tất cả bọn họ đều đã biến mất.”
“Rất nhiều người đã biến mất dưới cái Tình trạng khẩn cấp này,” lão nói, đoạn lắc đầu. “Nhưng cô biết không, suýt nữa cô đã vô tình bị đánh đồng với lũ điên sát nhân rồi đấy. Cũng nhờ ngôi sao chiếu mệnh của cô nên cô mới thoát bình an vô sự.”
“Nhưng mà, hai gã đầu gấu kia đâu thật sự có tội, đúng không?”
“Thật ra là có đấy, nhưng mà tội khác kia. Chắc chắn chúng đáng phải ngồi tù, cô ạ. Cũng giống như là nợ và có trong nghiệp vụ ghi sổ kế toán kép ấy. Xét về một mặt nào đó, Harry cũng là một kế toán thôi. Số dư cuối cùng mới là điều ông ấy xem trọng nhất.”
Cô gật đầu, mắt nhìn đàn quạ đang bươi móc dưới rãnh nước đọng bên kia đường. Chúng xô đẩy và chí chóe tranh nhau những mẩu vụn nhỏ. Rồi xe tải trờ tới.
“Ngài có con không?” Dina hỏi hạ sĩ Kesar, trong khi người của Nusswan bốc xếp đồ đạc.
“Ồ, có chứ,” lão hãnh diện đáp, rất vui vì câu hỏi của cô.
“Hai đứa con gái. Một đứa năm tuổi, đứa kia chín tuổi.”
“Chúng có đi học không?”
“Ồ, có chứ. Đứa lớn còn học cả đàn xi-ta nữa, mỗi tuần một lần sau giờ học trên lớp. Đắt lắm, nhưng tôi làm thêm giờ cho nó học. Con cái là báu vật duy nhất của chúng ta, không phải thế sao?”
Khi xe đã sẵn sàng, cô leo lên ngồi bên cạnh tài xế và cảm ơn hạ sĩ Kesar một lần nữa vì sự giúp đỡ của lão. “Tôi rất hân hạnh,” lão nói. “Chúc cô mọi điều tốt lành, thưa cô.”
“Tôi cũng chúc ngài như vậy. Tôi hi vọng cuộc phẫu thuật khối u của ngài sẽ diễn ra tốt đẹp.”
Viên tài xế phải loay hoay mất một lúc mới quay đầu xe nổi, vì đường rất hẹp. Lúc đi qua cổng, cô nhìn thấy Ibrahim đứng sau cây cột, tay giơ chiếc ống bơ về phía những người qua kẻ lại.
Thấy xe tải lướt qua, lão cố giơ tay lên chạm chiếc mũ đuôi seo để chào tạm biệt. Nhưng cơn đau trên bả vai đã chặn đứng lão. Thay vào đó, lão giật nhẹ cổ áo chiếc sherwani, và vẫy tay.
“Xin lỗi, tôi về muộn,” Nusswan nói, đoạn hôn vào má Ruby và ôm lấy em gái. “Lại mấy vụ họp hành liên miên ấy mà.” Ông ta xoa bóp cặp lông mày. “Xe tải đưa mọi thứ về đây an toàn chứ?”
“Vâng, cảm ơn anh,” Dina đáp.
“Anh đồ là lũ ăn mày và thợ may và khách trọ của em đều đã chúc em Au Revoir[51] rồi nhỉ.” Ông ta tự cười phá lên trước câu pha trò của mình.
“Thôi đi, anh Nusswan,” Ruby quát. “Nói năng với cô ấy cho tử tế, cô ấy đã phải trải qua biết bao nhiêu chuyện rồi còn gì.”
“Tôi chỉ đùa thôi. Tôi không thể tả cho mình biết tôi mừng đến mức nào vì Dina đã quay về.”
Giọng ông ta dịu hẳn đi, và rưng rưng xúc động. “Suốt bao năm qua anh đã cầu xin Thượng Đế đưa em về nhà. Anh đau đớn lắm, khi em chọn cách sống một thân một mình. Rốt lại, chỉ còn gia đình là chỗ để ta bấu víu, khi cả thế giới đã quay lưng lại với ta.”
Ông ta nuốt cục nghẹn trong họng, và Dina rất cảm động. Cô giúp Ruby bày bàn, mang bình nước và cốc lên. Chúng vẫn ở vị trí thường lệ trong tủ chạn. Chẳng có thứ gì ở đây thay đổi trong suốt ngần ấy năm, Dina thầm nghĩ.
“Không phải chịu nhục nhã vì bọn thợ may và ăn mày nữa,” Nusswan nói. “Không cần nhờ đến bọn chúng, em sẽ không phải lo lắng về tiền bạc nữa. Hãy biến mình thành người có ích trong ngôi nhà này – anh chỉ cần có thế.”
“Nusswan!” Ruby quở. “Trước nay cô Dina tội nghiệp luôn luôn đỡ đần em. Nếu có điều gì không gắn với cô ấy, thì chính là thói lười biếng.”
“Tôi biết, tôi biết,” ông ta cười khà khà. “Ngoan cố mới gắn với cô ấy, chứ không phải lười biếng.”
Ăn tối xong, họ ra xem xét đống đồ đạc chuyển từ căn hộ về. Nusswan rất lấy làm kinh hoảng. “Em kiếm đâu ra đống rác rưởi này thế?”
Cô nhún vai. Một câu đáp bằng lời không phải lúc nào cũng là cần thiết. Đó là một điều hữu ích mà cô học được từ Maneck.
“Chà, ở đây không có chỗ đặt mấy thứ này đâu. Xem cái bàn ăn bé tí xấu đau xấu đớn kia kìa. Còn cái sô pha kia nữa, chắc phải có từ thời tối cổ ấy nhỉ.” Ông ta hứa sẽ gọi một người mua đồ cũ và tống tiễn hết đám này trong vài ngày tới.
Cô không tranh cãi gì thêm với ông ta. Cô không viện dẫn lại những kỉ niệm đã bồi da đắp thịt lên khung xương của những món của nả nghèo nàn của mình.
Nusswan rất ngỡ ngàng trước sự thay đổi của em gái mình. Dina quá dễ bảo, quá ngoan ngoãn và kiệm lời, không hề giống với con người cô trước đây chút nào. Điều đó khiến ông ta có cảm giác bất an. Phải chăng cô đang giả vờ? Phải chăng đây là một phần của kế hoạch mà cô sẽ tung ra khi ông không ngờ đến nhất?
Họ chuyển các món đồ cất trong đám ngăn kéo tạm thay rương hòm của cô sang chiếc tủ áo kê trong căn phòng cũ của cô. “Nó vẫn chờ em đấy,” Ruby thổ lộ. “Chiếc tủ của bố. Chị rất mừng vì em đã quay về.”
Dina mỉm cười. Cô gỡ tấm ga bọc đệm và cất nó vào đáy tủ. Thế vào chỗ nó, cô trải tấm chăn của mình, đã được gấp bớt lại ở phía đuôi giường.
“Đẹp quá!” Ruby xuýt xoa, đoạn trải rộng tấm chăn ra để trầm trồ cho thỏa. “Tuyệt đẹp! Nhưng sao góc kia còn khuyết?”
“Em hết vải.”
“Tiếc thật.” Bà nghĩ ngợi một lúc. “Em biết không, chị có ít vải đẹp lắm, hẳn là rất hợp. Em có thể dùng để may nốt tấm chăn.”
“Cảm ơn chị.” Nhưng trong lòng Dina, đã chẳng còn gì để ghép thêm vào nữa.
Đêm đến, nằm trên giường, cô quấn mình trong tấm chăn và bắt đầu nhẩm lại kho sự kiện đồ sộ ẩn trong gia đình vải ghép đã được khâu nối với nhau rất chặt, những ô vuông mà cô đã may bằng kim, chỉ, và tình yêu thương. Nếu cô quên hay nhầm lẫn, tấm chăn sẽ nhắc cho cô. Ánh đèn đường chiếu qua ô cửa sổ mở rộng vừa đủ sáng để soi tỏ màu sắc sặc sỡ của những vải vóc kết nên nó. Câu chuyện trước giờ đi ngủ của cô.
Một lần nọ, khi đã quá nửa đêm, Nusswan và Ruby gõ cửa và bổ vào phòng khi cô đang dở câu chuyện. “Dina à? Em có cần gì không?”
“Không.”
“Em có ổn không?”
“Dĩ nhiên là em ổn.”
“Anh chị nghe thấy có tiếng nói,” Ruby nói. “Anh chị tưởng em đang nói mơ, vì gặp ác mộng hay gì đó.”
Và Dina nhận ra cô đã rơi từ trạng thái kể nhẩm sang đọc thành tiếng. “Em chỉ đang đọc bài cầu nguyện thôi. Xin lỗi đã làm phiền anh chị.”
“Không sao đâu,” Nusswan nói. “Nhưng anh không nhận ra nổi là bài kinh nào. Em nên tham dự vài khóa học do môn đệ của Thầy cả Daab-Chaab dạy ở đền thờ lửa.” Hai vợ chồng cười phá lên trước câu đùa của ông và quay trở lại giường.
Ông ta thì thào với Ruby: “Em còn nhớ cô ấy từng thế nào sau cái chết của chú Rustom không? Đêm nào cô ấy cũng gọi tên chồng.”
“Vâng, nhưng chuyện xảy ra cách đây đã lâu lắm rồi. Sao cô ấy còn buồn khổ vì nó nữa làm gì?”
“Có lẽ cô ấy chưa bao giờ vượt qua được chuyện đó.”
“Phải. Có lẽ có một số thứ ta không bao giờ vượt qua nổi.”
Ở trong phòng, Dina gấp tấm chăn lại. Cái chăn ghép đã biến sự câm lặng của cô thành những lời lẽ không mời mà tới; nó phải được khóa kín trong tủ. Cô cảm thấy ghê sợ thứ ma thuật kì quặc nó gây ra đối với trí óc cô, ghê sợ nơi nó đang dẫn dắt cô tới. Cô mãi mãi không muốn bước qua ranh giới ấy nữa.
Nusswan đã thôi không còn mai mỉa Dina nữa vì chẳng còn gì vui thú khi cô không buồn phản công. Lắm lúc, ông ngồi một mình trong phòng, nhớ lại đứa em gái ương ngạnh, không gì khuất phục nổi và tiếc nuối cho sự xuống dốc của cô. Đấy, ông tự thở dài, đấy chính là điều cuộc đời làm với những kẻ nào từ chối học bài học của nó: nó đánh gục họ và bóp vụn tinh thần của họ. Nhưng chí ít những ngày lao động quần quật không dứt của cô đã lùi xa phía sau. Giờ cô sẽ được chăm sóc, được chu cấp bởi chính gia đình cô.
Không lâu sau đó, người giúp việc vẫn đến vào các buổi sáng để quét quáy, lau chùi và phủi bụi đồ đạc bị cho nghỉ việc. “Mụ già khốn kiếp muốn nã thêm tiền,” Nusswan nói ra chiều phân bua. “Mụ nói nhà có thêm một người là thêm việc cho chổi và giẻ của mụ. Đúng là kiểu lý do lý trấu của phường vô lại.”
Dina hiểu ẩn ý và nhận nhiệm vụ về mình. Cô hấp thu tất thảy mọi việc như một miếng bọt xốp lớn. Trong những phút riêng tư, cô tự vắt kiệt thân mình để rồi sẵn sàng thấm hút thêm nhiều nữa.
Nay Ruby đi vắng hầu như cả ngày. Nhưng trước khi đi, bà luôn hỏi liệu mình có giúp gì được không. Dina khuyến khích bà ra ngoài, tỏ ý muốn tự mình cáng đáng tất cả.
“May nhờ có Dina mà cuối cùng em đã có thể dùng đến tấm thẻ hội viên Câu lạc bộ Willingdon rồi,” tối đến, bà kể với Nusswan. “Trước đó các khoản hội phí toàn bị bỏ phí thôi.”
“Dina là kiểu triệu người chỉ có một thôi đấy,” ông ta đồng tình. “Tôi chả nói thế luôn còn gì. Chúng ta đã tranh cãi và xung đột không biết bao nhiêu lần, phải không, Dina? Nhất là về vấn đề cưới xin. Nhưng anh luôn ngưỡng mộ sức mạnh và ý chí quyết tâm của em. Anh không bao giờ quên em đã cư xử can đảm tới mức nào khi chú Rustom đáng thương qua đời vào đúng lễ kỉ niệm ba năm ngày cưới của hai người.”
“Nusswan! Anh có cần chọn đúng bữa cơm để nhắc lại chuyện cũ và làm Dina tội nghiệp buồn lòng như thế không?”
“Xin lỗi, anh rất xin lỗi.” Ông ngoan ngoãn đổi chủ đề sang Tình trạng khẩn cấp. “Vấn đề là, sự kích thích đã cạn ráo. Nỗi sợ hãi ban đầu giúp khuôn mọi người vào kỉ cương, ép họ đúng giờ đúng giấc và làm việc chăm chỉ giờ tan hết rồi. Chính phủ phải làm gì đó để gia tăng sức mạnh cho chương trình này đi thôi.”
Chủ đề cưới xin không còn được lôi ra trong những cuộc hội thoại trên bàn ăn tối nữa. Ở tuổi bốn mươi ba, chuyện đó thành ra mệt mỏi mà món hàng cũng đã xuống cấp lắm rồi, ông nói riêng với Ruby.
Hàng tối Chủ Nhật, họ cùng nhau chơi bài. “Nào, cả nhà,” Nusswan tập họp cả ba vào đúng năm giờ. “Đến giờ chơi bài rồi.”
Ông quan sát cuộc chơi bằng một cái nhìn sùng kính. Nó thổi một thực tế mờ nhạt vào giấc mơ của ông về một gia đình gắn bó. Thỉnh thoảng, nếu một người bạn ghé qua chơi góp thành bốn chân, họ chơi bài bridge. Tuy vậy, trong phần lớn thời gian, chỉ có ba người bọn họ, và Nusswan lèo lái thời giờ qua hết ván rummy này đến ván rummy khác, tỏ rõ một lòng nhiệt thành bền bỉ trong công cuộc mưu cầu hạnh phúc gia đình.
“Hai người có biết trò chơi bài có xuất xứ từ Ấn Độ không?” Ông ta hỏi.
“Thật ư?” Ruby kêu lên. Những chi tiết kiểu đó do Nusswan nói ra luôn gây ấn tượng mạnh mẽ đối với bà.
“Phải đấy, và cả cờ vua nữa. Thực ra, người ta cho rằng chơi bài phát sinh từ cờ vua. Và hai môn này mãi tận thế kỷ mười ba mới vào Châu Âu, thông qua vùng Trung Đông.” “Thật không thể tưởng tượng nổi,” Ruby xuýt xoa.
Ông sắp lại nhóm bài của mình, bỏ một con bài úp mặt xuống và tuyên bố: “Rummy!”
Sao khi chìa ra bộ phỏm đầy đủ của mình, ông quay sang phân tích sai lầm mà những người khác đã mắc phải. “Lẽ ra em không bao giờ nên đánh đi con J cơ,” ông nói với Dina.
“Đấy là lý do khiến em thua.”
“Em chỉ đánh bừa thôi.”
Ông gom các lá bài lại và bắt đầu tráo. “Rồi, đến lượt ai chia đây?”
“Em,” Dina đáp, và nhận lấy bộ bài.
Cân Bằng Mong Manh Cân Bằng Mong Manh - Rohinton Mistry Cân Bằng Mong Manh