Nguyên tác: Hands Of A Stranger
Số lần đọc/download: 169 / 15
Cập nhật: 2020-06-07 21:40:03 +0700
Chương 17
T
ại Las Vegas, Georger Lyttle thức dậy sớm.
Trong lúc thắt cà vạt, cài khuy áo vét, hắn khẽ huýt sáo. Hôm nay là một ngày bận rộn, quan trọng, và hắn nôn nóng khởi sự điều ấy. Sau khi để người vợ trẻ của hắn nằm ngủ trên giường sau lưng, hắn bước xuống quán ăn tự phục vụ của cái khách sạn nhỏ này, một địa điểm không nằm ngoài sa mạc nhưng nằm ngay trung tâm thành phố. Quán ăn luôn luôn đông khách vào giờ điểm tâm và George, đứng ở ngưỡng cửa, thấy chẳng còn bàn nào trống cả. Tuy nhiên trước mặt một người đàn ông mặc chiếc áo tu sĩ là một chiếc ghế trống nên George đến đó đặt tay lên ghế và bảo, “Thưa ngài, tôi ngồi với ngài có phiền không?”
“Chim chóc và ong sống an vui, người cũng thế,” vị tu sĩ ngâm lên. “Chúa nói với Isaia như thế.”
George Lyttle nhăn răng cười khi hắn ngồi xuống vì hắn biết hắn sẽ ăn sáng vui vẻ với người đàn ông này. “Thưa ngài, ngài đại diện cho giáo phái nào thế nhỉ? Giáo phái đặc biệt nào thế nhỉ?”
“Cách xưng hô thích hợp là Đức cha đấy”, vị giáo sĩ sửa chữa lại. “Cho ông xem “cạc” của tôi đã.” Và ngài lôi từ áo gi-lê ra một tấm danh thiếp, đưa nó cho George.
George nhìn kỹ tấm danh thiếp. Trên đó ghi: W.Rollo Wilson, Giám mục, Giáo hội của Chúa. Nhưng không có địa chỉ nào cả. Vị giáo sĩ bảo: “Đức cha hoặc giáo chủ, Đức ông. Đại loại như thế. Tùy ý ông”.
“Tôi không nhận ra ngài,” George bảo. “Xin tha lỗi cho sự thờ ơ.”
“Ông đã đọc xong danh thiếp của tôi bên đấy chưa?” Đức cha Wilson hỏi. “Nếu xong hãy cho tôi lại đi.” Rồi ngài chộp lấy nó và nhét vào cái túi cũ của ngài.
Ngay lúc ấy một cô hầu bàn xuất hiện. Cũng như tất cả các cô hầu bàn khắp Las Vegas, ngay cả giờ điểm tâm, nàng mặc một chiếc váy rất ngắn và một chiếc áo “veste” cắt ngắn thái quá để lộ ra cái hình như là điều kiện tiên quyết chủ yếu cho nghề nghiệp của nàng.
“Ông đã xem kỹ thực đơn của ông chưa đấy, người anh em?” Đức cha hỏi.
George thấy khó lòng xem kỹ bất kỳ thứ gì với bộ ngực trắng như phấn của người đàn bà trẻ này lơ lửng trên đầu mình. Nàng không phải là điều đắc ý của hắn. Thực ra nàng làm hắn khó chịu. Cô gái trên giường trên lầu ngực nhỏ, da màu sô-cô-la mịn khắp mọi chỗ và có mùi như một người đàn bà trẻ khỏe mạnh. Cô hầu bàn này sực mùi nước hoa rẻ tiền - thuộc loại rẻ tiền nói chung.
Lúc cả hai người đã gọi món ăn và trả thực đơn lại, George quay sang chú ý người ngồi cùng bàn với mình. “Và điều gì đã đưa ngài đến Las Vegas, thưa Đức cha?”
Người đàn ông thánh thiện đáp, “Tội lỗi.”
“Ở đây có rất nhiều đấy,” George lên tiếng phê bình. Hắn đang hạnh phúc. Hắn đang mong ăn trứng rán, chén sạch bánh mì nướng, uống hai tách cà phê, đồng thời mải mê trò chuyện hấp dẫn với vị giám mục ở đây. Hắn đã gặp nhiều tay nói chuyện thú vị từ khi đáp xuống Las Vegas và Đức Cha Wilson, hắn có thể đoán, là một người nữa. “Ngài thấy loại tội nào vượt trội hơn hết, thưa Đức Cha?”
“Chơi bời, cá độ và dâm đãng nói chung,” Wilson đáp. “Las Vegas đầy dẫy những tội ấy.”
“Nghe đâu có lợi đấy.”
“Một Sodom và Gomorrah thực sự đấy.” Wilson thừa nhận.
“Đất hứa chứ, thưa Đức Cha?”
Đức Cha Wilson, rốt cuộc cũng từ New York đến và thực ra cũng đã có lần thực hiện một cuộc rao giảng lộ thiên cũng trong vùng phụ cận mà George đã sinh trưởng. Nhưng khi được hỏi về những người quen chung có thể có, vị giám mục cắt lời George ngay. “Từ lúc tôi được thụ phong lên hàng giám mục, tôi không có ai quen ở đây cả.”
“Tôi chỉ nghĩ rằng…”
“Lúc này tôi dành riêng công việc mục vụ của tôi cho loại tội ở vùng Las Vegas đấy.”
Trước kia George đã gặp những vị giám mục như thế, Harlem cũng đầy dẫy những người như thế cũng như Las Vegas đầy tội lỗi. Hầu như tất cả đều có công việc tốt đẹp cả. Những âm thanh ấm áp của Đức Cha Wilson quen thuộc đối với George. Sự chọn từ chính xác, thích hợp của ngài cho mỗi trường hợp cũng thế. Ngài thuộc về một truyền thống mà George nhận ra và cảm thấy mình là một thành phần trong đấy. Vấn đề là những người như Wilson sử dụng tài hùng biện của họ dành riêng cho lợi ích cá nhân. Wilson nằm trong công việc đánh lừa những người anh em. Những tội nhân thực sự, những kẻ áp bức dân tộc hắn, ít khi được lưỡi ngài nhắc đến. Hơn nữa, ngài hài lòng trong việc vận dụng tài năng của mình cho riêng lãnh vực tôn giáo thôi. Việc dùng nó để chiến đấu với sự áp bức chính trị có lẽ chưa bao giờ thoáng qua đầu óc ngài. Một người nào đấy trong số những người anh em, chỉ mới vừa rồi thôi, đã ngẫu nhiên nghĩ đến vấn đề ấy. Malcolm, ừ đấy. Martin, ừ đấy. Và bây giờ là Jesse. Một hoặc hai người khác nữa. Một sự khởi đầu đã được thực hiện theo truyền thống mới và đây là truyền thống mà George đang tự chuẩn bị, để trở thành một lãnh tụ trong cuộc chiến đấu giành lại nhân phẩm cho dân tộc hắn, để đẩy lùi những kẻ áp bức. Chẳng bao lâu nữa sẽ đến lượt chúng ta, anh em ạ, hắn nghĩ thế.
Vì ngài là Giám mục, Wilson lên tiếng, một ngôi chính tòa đang được hình dung là cần thiết để phù hợp với địa vị cao trọng của ngài. Trong lúc ấy, ngài thực hiện những công việc của địa phận từ một nhà tạm ở tầng dưới cùng cách đấy hai khu nhà. Ở đấy ngài giảng giáo lý cho các tội nhân mỗi ngày 5, 6 lần hoặc bất kỳ lúc nào các tội nhân có mặt để làm cho việc cải hối được xứng đáng, với giá mỗi đầu người 5 đô la, và ngài mời George ghé đến khi có dịp thuận tiện.
Nhưng George buộc lòng phải từ chối. Hắn giải thích là hắn bắt buộc phải vội về lại New York trong vài giờ nữa, để tham dự vào công việc mục vụ của riêng hắn.
Wilson hiểu điều này ngụ ý rằng, George cũng là một người của hàng giáo sĩ. “Có đoàn thể hoặc tự do nhỉ?” Ngài hỏi.
“Ngài có thể cho là tự do đấy.”
“Đấy là cách đi tốt nhất đấy,” Wilson thừa nhận. “Đa khoa hoặc chuyên khoa nhỉ?”
George bảo rằng hắn có khuynh hướng chuyên khoa “Chủ yếu là thông dâm và những kẻ thông dâm.”
“Ông rất sáng suốt đấy,” Wilson bảo. “Một tội nguy hại nhất. Rất khó khai trừ đấy.” Và ngài lại mời George ghé đến ngôi nhà tạm của ngài để xem sự thống hối. “Miễn phí,” ngài bảo? “Lịch sự nghề nghiệp đấy. Trên nhà, nói vậy đấy. Đợt tội nhân đầu tiên thường tập trung trước độ mười giờ sáng.”
Nhưng George lại lắc đầu. Sáng hôm sau ấy hắn rất bận.
Tuy vậy hắn vẫn nấn ná lại một lúc để điểm tâm, vì Đức Cha Wilson có ý kiến về một số đề tài và khi bắt đầu, cuộc nói chuyện không có vẻ gì là muốn chấm dứt cả. George nghe kỹ, nghiên cứu kỹ thuật hùng biện của con người thánh thiện, nhận ra ngài là một tay xuất sắc về cách diễn đạt hùng hồn và cách dùng từ rỗng tuếch. Tất cả sẽ đi vào tập nhật ký của George sau này trong ngày.
Họ bắt tay nhau ở cửa. “Cách nói chuyện của Ngài hùng hồn thật đấy, thưa Đức Cha,” George khen ngài.
“Hẹn gặp lại ông, ông bạn ạ,” Đức Cha Wilson cất tiếng.
George ra đường phố và rảo bước đi. Ánh nắng sa mạc đã nóng. Như thường lệ chẳng có cơn gió thoảng nào cả. Hắn đang mặc một chiếc sơ mi thể thao trắng hở cổ và ánh nắng làm nóng bỏng đôi tay trần của hắn. Một lần nữa, sáng hôm ấy hắn lại lưu ý rằng Las Vegas đầy dẫy xe đón khách, quá đầy dẫy. Cách thức vận chuyển của một người thực là quan trọng, vì nó cho bạn bè hắn nhận dạng từ xa. Nếu phương thức vận chuyển này lại là một chiếc xe đón khách, điều ấy ghi nhận một người như là thiếu tinh tế. Bằng ngôn ngữ trắng trợn, nó đồng hóa hắn như là một kẻ man rợ hoặc một tên hốt phân.
Khi đến cửa hiệu nơi hắn đã gởi rửa phim, George vào bên trong. Người ta đã hứa rửa ảnh xong hôm nay nhưng người ta không thể tin mấy ông thợ hình ấy được và hắn giao biên lai cùng với một vẻ khẩn trương. Hắn sợ bị thất vọng. Nhưng khi người thợ hình lục qua ngăn kéo, các tấm ảnh đã có ở đấy. Người thợ hình trao cho hắn chiếc phong bì đầy đựng ảnh. George trả tiền rồi bước ra ngoài nắng.
Hắn quá nôn nóng. Hắn không thể chờ tìm ra một nơi kín đáo để quan sát công trình của hắn. Hắn đến gần bức tường của tòa nhà, xa người qua lại và lật qua các tấm ảnh cỡ bưu thiếp, kết quả thật tuyệt vời. Từng tấm ảnh hiện ra và hắn dừng lại để tự khen mình về tài chụp ảnh. Hắn hài lòng với mình cũng như với các tấm ảnh và hắn xem lại lần này theo thứ tự ngược lại. Đây là ba tấm hắn đã chụp vợ hắn bên ngoài điện Xêda trên sông Strip. Nàng không giống sự ngọt ngào được nhân hóa ư? Và tấm ảnh mà nàng đã chụp hắn trong phòng của họ, mang kính mát và chĩa súng thẳng vào máy ảnh. Rồi đến nửa chục ảnh phong cảnh chụp những khách sạn nổi tiếng, tiếp theo là một bức chân dung của cả hai đang đứng chung gần công trình nghệ thuật điêu khắc La Mã trong vườn Dunes - một cậu bé ngẫu nhiên đi ngang qua chụp giùm.
Và cuối cùng là các tấm ảnh của Mary Hearn và Loftus. Lúc hắn nghiên cứu các tấm ảnh ấy, George nhận ra rằng hắn đã dán băng keo trên mắt, trên miệng họ chặt thế nào ấy. Họ trông như những phi hành gia đang bị lực G tác động. Tất cả da thịt của họ bị kéo ngược ra sau. Nhưng xét về tính chất ảnh, mỗi người đã hiện ra thật rõ. Vì chụp bằng Flash, màu sắc hơi lộ hẳn ra, nhưng tay chân và những đường nét của các đối tượng được mô tả sắc sảo. Điều này đặc biệt đúng với các bức ảnh chụp gần. Những tấm mà hắn nghĩ đến như là những bức chân dung. Những tấm ảnh chụp hạ bộ của Mary chẳng hạn: mỗi sợi lông của nàng đều dựng đứng lên và có một nốt ruồi ở phía trong một bắp đùi của nàng mà lúc ấy hắn đã không lưu ý.
George hài lòng. Hắn chắc chắn rằng các đối tượng trong các tấm ảnh này sẽ được nhận ra ngay đối với bất kỳ ai biết rõ họ. Bạn không nghĩ rằng chồng của Mary Hearn sẽ không nhận ra cái nốt ruồi ấy ư? Hắn nghĩ thế. Vì là ảnh, nó hoàn toàn tốt đẹp cho những mục đích của hắn. Vừa cười hài lòng hắn vừa nhét tất cả vào lại chiếc phong bì và rảo bước trở về khách sạn.
Khi hắn lên đến phòng, vợ hắn đang mặc đồ và hắn ngồi lên chiếc giường chưa dọn dẹp và ngắm nàng. Họ đã lấy nhau được hai năm, nhưng việc ngắm nàng hoặc tốt hơn nữa là cởi đồ tạo cho hắn một niềm mê đắm. Hắn nghĩ rằng hắn sẽ không bao giờ quen được với điều ấy.
Tên vợ hắn là Maude. Nàng đến gần giường và xoay lưng lại để cho hắn cài khuy áo. “Hôm nay mình làm gì?” nàng hỏi.
George đập vào mông nàng để ra hiệu hắn đã cài xong.
“Trở về New York lại đấy, em”.
“Sớm vậy ư?”
Hắn bảo, “Thế giới thương mại ghê tởm gọi anh trở lại đấy”.
Hắn trao cho nàng mười đô la. “Hãy xuống chơi máy xổ số lần cuối cùng đi,” hắn khuyên nàng. “Anh có công việc phải lo trước khi đi với em.”
Vừa nhìn tờ bạc mười đô la với vẻ ngờ vực, nàng vừa hỏi, “Anh ở lâu không?”
“Có ít bức thư để viết. Chỉ hai thôi - kèm theo một tờ hóa đơn cho công việc của anh, có thể nói như thế.”
Khi cánh cửa đã dập lại sau lưng nàng, George Lyttle bật mở chiếc cặp da của hắn ra và rút ra hai tờ giấy viết thư thường, kèm theo hai chiếc phong bì mà hắn đã mua ở bưu điện - loại có tem in sẵn. Kế đó hắn viết hai bức thư tương tự như sau: “Tôi đã có được một số ảnh tội lỗi của một cặp tội lỗi nào đấy tại một chỗ tội lỗi nào đấy. Với những thứ này, mà tôi sẽ sao ra và phân phối cho người quen và thân quyến của các người và cả trường học nữa, tôi định bôi xấu nhân cách và làm mất uy tín các người tại bất kỳ nơi nào mà các người đang sống bây giờ và trong tương lai. Nhưng đừng tuyệt vọng. Tôi thường hay để ý thức thông cảm của tôi điều khiển sự tàn nhẫn của tôi. Tôi có một sự chọn lựa khác. Thứ ba tới, tôi sẽ điện thoại cho các người để thảo luận về vấn đề ấy. Hãy ở đấy. Đừng trả lời là không đấy.”
Vì hắn nghĩ rằng lời lẽ như thế đặc biệt cô đọng, thích hợp và đi thẳng vào đề, George lấy tập nhật ký của hắn ra và chép lại đoạn văn này vào trong đấy. Sau khi cất tập nhật ký vào lại cặp da khóa lại, hắn ghi địa chỉ trên cả hai phong bì, một của Mary Hearn, một của Martin Loftus, sau khi cẩn thận chép lại đúng địa chỉ trong bằng lái xe của họ. Cuối cùng hắn cho hai bức thư vào hai phong bì dán kín và đi xuống tầng dưới, nơi có một hộp thư gắn vào tường ngay bên trong cửa trước của khách sạn. Hắn bỏ các bức thư vào trong đó.
Vợ hắn đang chơi máy xổ số ở một bên hành lang. Nàng có một tách cà phê giấy bìa đựng đầy những đồng tiền và đang di chuyển từ chiếc máy này đến chiếc máy khác, giật các chiếc cần xuống, làm các hàng số báo kết quả xoay tròn. Hắn ngắm nàng một lúc. Hắn thấy nàng tuyệt đẹp và muốn nàng có quần áo đẹp và một chiếc xe đẹp, hắn muốn nàng có ngay bây giờ. Hắn cũng muốn có những thứ đẹp như thế cho mẹ hắn. Hắn không thấy lý do tại sao những kẻ khác có đầy đủ những thứ như thế nhưng những người hắn yêu thương lại không. Hắn cũng cần tiền cho hắn nữa, tất nhiên. Vì rằng, nếu hắn phải lãnh đạo dân tộc hắn thoát khỏi cảnh lầm than, trước tiên hắn cần phải hoàn tất việc học hành của hắn; chẳng bao lâu nữa một phiếu học phí sẽ gởi đến. Hắn biết rõ hắn cần ngay bao nhiêu tiền và hắn có thể hy vọng cần bao nhiêu một cách hợp lý trong một khoảng thời gian được qui định và hắn đã nghĩ ra, hắn tin như thế, một phương pháp tinh vi để đạt được điều ấy. Không như Đức Cha Wilson, hắn không lừa đảo những người anh em, hắn chỉ lừa đảo những kẻ áp bức thôi, những kẻ xứng đáng với điều ấy.
Vợ hắn hình như có biệt tài điều khiển những chiếc cần: Nàng làm cho số tiền 10 đô la kéo dài được gần một tiếng đồng hồ. Hắn đứng nhìn với vẻ trìu mến trong lúc nàng giải trí. Mỗi lần dòng suối tiền từ thùng tuôn ra, nàng kêu ré lên như một cô bé. Cuối cùng khi chiếc tách giấy bìa của nàng cạn sạch, hắn đưa nàng lên lầu để thu xếp đồ đạc.
Một giờ sau họ đi ra qua hành lang khách sạn. Lúc đi qua thùng thư, George nghĩ đến hai bức thư mà hắn đã bỏ vào. Có lẽ những bức thư ấy đang trên đường đi. Tại các bãi đậu xe của khách sạn, George ném túi xách của họ vào thùng sau chiếc xe Avis hắn thuê nhờ thẻ tín dụng của Martin Loftus và hắn lái xe ra khỏi thành phố đi vào sa mạc về hướng phi trường.
“Ồ, George, em thật hạnh phúc,” vợ hắn thì thầm.
“Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ trở lại, em ạ,” hắn hứa với nàng. “Em hãy tin điều ấy đi.”
Lúc họ đã ở trên không, George lại nghĩ đến những bức thư của hắn có lẽ đang nằm trong bụng của chính chiếc phi cơ này, hoặc nếu không thì trong bụng của một chiếc phi cơ khác cạnh đấy trên không, bay theo với tốc độ tương đương. Với phi cơ này, những bức thư được nhắm thẳng qua một khoảng không bao la, vào đúng tim của hai kẻ thông dâm xứng đáng với chúng, những kẻ chắc chắn đã chờ đợi chúng một thời gian, và những kẻ, lúc mở phong bì, sẽ không còn ngạc nhiên nữa, có lẽ còn cảm thấy đỡ căng thẳng nữa vì cơn hồi hộp kéo dài đã qua và cơ hội đền tội đang ở rất gần.