Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Ii.8
“C
hồng chị đã về với Chúa.” Hôm ấy Hannah Roennfedlt cứ lặp đi lặp lại câu nói đó trong đầu. Grace còn sống nhưng Frank đã chết. Cô ước gì mình có thể tin được điều thứ nhất và rũ bỏ điều thứ hai. Frank. Franz. Cô nhớ lại người đàn ông lịch lãm có cuộc đời chìm nổi mà duyên phận run rủi đưa đến gặp cô.
Cú sốc đầu tiên là khi mười sáu tuổi, đang sống trong nhung lụa ở Vienna thì người cha cờ bạc nợ nần đến nỗi khiến cả nhà phải bỏ xứ ra đi. Họ đến tận Kargoorlie, nơi xa nước Áo đến độ tay chủ nợ máu me nhất cũng không thiết đuổi theo. Từ chỗ ăn sung mặc sướng đến cảnh thắt lưng buộc bụng, Frank theo học nghề làm bánh trong tiệm của cậu mợ. Hai người đã tới Australia nhiều năm trước đó, khi vừa tới đã đổi tên từ Fritz và Mitzie thành Clive mà Millie. Hòa nhập là chuyện quan trọng, cậu mợ có nói. Mẹ Frank hiểu được điều đó nhưng cha anh, với lòng tự kiêu và tính bướng bỉnh từng đưa đẩy ông đến chỗ đường cùng, kiên quyết không thích nghi với cuộc sống mới. Chỉ chưa đầy một năm sau, ông gieo người xuống đường tàu. Chuyến tàu đi Perth. Frank trở thành trụ cột gia đình.
Vài tháng sau đó, chiến tranh nổ ra, Frank bị bắt giam vì anh là người ngoại quốc có chung gốc gác với kẻ thù. Đầu tiên là ở đảo Rottnest, rồi về phía Đông. Frank như cái cây lại bị nhổ bật gốc, vừa mới chịu tang cha giờ lại bị ghét bỏ những việc ở nơi xa lắc và hoàn toàn không dính dáng gì đến anh.
Vậy mà anh không hề than vãn, Hannah nghĩ thầm. Frank luôn nở sẵn nụ cười, cởi mở hết lòng. Cô gặp anh lần đầu tiên ở Partageuse năm 1922, khi đó anh vừa đến làm việc ở tiệm bánh.
Cô còn nhớ. Ngay trên con phố chính. Sáng mùa xuân đã có nắng nhưng vẫn còn chút se sắt của tháng Mười. Anh mỉm cười, rồi đưa cho cô một chiếc khăn choàng cổ mà cô nhận ra ngay là của mình đánh rơi.
“Cô để quên trong hiệu sách, mới vừa rồi,” anh nói.
“Cảm ơn anh. Anh tử tế quá.”
“Khăn thêu đẹp quá. Ngày trước mẹ tôi cũng có một cái giống vậy. Lụa Trung Hoa rất là đắt tiền: nhỡ mà mất thì rất tiếc.” Anh gật gù rồi quay bước đi.
“Tôi chưa gặp anh ở đây bao giờ,” Hannah nói. Cô cũng chưa từng nghe một giọng nói quyến rũ như thế.
“Tôi chỉ vừa mới bắt đầu làm ở tiệm bánh. Tôi là Frank Roennfeldt. Rất hân hạnh được biết cô.”
“Vậy thì chào mừng anh đến Partageuse, anh Roennfeldt. Tôi mong là anh sẽ thích xứ này. Tôi là Hannah Potts.” Cô xếp lại mấy gói đồ trên tay rồi cố quàng khăn qua vai.
“Để tôi,” anh nói, kéo khăn phủ quanh người cô nhẹ như không. “Chúc cô một ngày tuyệt vời.” Anh lại cười, nụ cười tươi tắn. Ánh nắng đọng trên màu mắt xanh và làm mái tóc vàng của anh ánh lên.
Khi Hannah băng qua đường đến xe ngựa đã đợi sẵn, cô để ý thấy một người đàn bà đứng gần đó liếc cô một cái thật sắc rồi nhổ nước bọt xuống vỉa hè. Hannah thấy sốc, nhưng không nói gì cả.
Vài tuần sau cô lại ghé hiệu sách của Maisie McPhee. Khi bước vào Hannah thấy Frank đứng ở quầy tính tiền, đang bị một bà khách hàng vung gậy vào mặt mắng sa sả. “Thực là quá thể, Maisie McPhee!” bà ta lên giọng. “Cô dám bán cả sách của bọn Đức. Tôi mất một đứa con trai và một đứa cháu vì lũ súc sinh đó, mà cô ở đây còn bán sách để kiếm tiền cho tụi nó, như thể người ta gửi hàng cứu trợ Hồng thập tự.”
Maisie cứng họng không nói được gì. Frank lên tiếng: “Tôi xin lỗi nếu tôi có gì phiền bà. Cô McPhee không có lỗi gì cả.” Anh mỉm cười rồi đưa cuốn sách về phía bà ta. “Bà thấy không? Chỉ là thơ thôi mà.”
“Thơ thẩn quái gì!” bà ta gằn giọng, gõ cây gậy xuống nền nhà. “Bọn đó thì có gì tử tế! Tôi đã nghe là có một tay người Hung vừa đến thị trấn, nhưng tôi không nghĩ anh trơ trẽn đến mức này! Rồi cả cô nữa, Maisie!” Bà ta quay về phía quầy tính tiền. “Cha cô dưới mồ mà biết chuyện cũng làm sao nhắm mắt nổi.”
“Xin bà, tôi vô cùng xin lỗi,” Frank nói. “Cô McPhee à, phiền cô giữ cuốn sách lại. Tôi không có ý phiền ai cả.” Anh đặt tờ giấy bạc mười shilling trên quầy rồi bước ra, lướt qua Hannah mà không thấy cô. Người đàn bà cũng hậm hực đi ra, tiếng bước chân giận dữ trên phố ngược chiều với Frank.
Maisie và Hannah nhìn nhau một lúc, rồi cô chủ tiệm kịp nở nụ cười tươi trở lại, nói. “Cô có đem theo đơn hàng không, cô Potts?”
Khi Maisie đọc tờ đơn hàng, Hannah thơ thẩn nhìn quanh, bắt gặp cuốn sách bị bỏ rơi. Cô thấy tò mò không biết làm sao một cuốn sách nhỏ nhắn bọc da màu xanh lá như thế lại khiến bà khách thấy bị xúc phạm đến vậy. Mở sách ra, đập ngay vào mắt cô là dòng chữ kiểu gothic ở trang đầu tiên: “Das Stunden Buch – Rainer Maria Rilke.” Hannah đã học tiếng Đức và tiếng Pháp, từng nghe nói đến Rilke.
“Với cả,” cô nói, lấy ra mấy tờ hai bảng, “phiền cô cho tôi lấy cuốn này luôn được không?” Khi Maisie nhìn cô đầy ngạc nhiên, Hannah nói, “Tới lúc phải quên chuyện cũ rồi, cô không nghĩ vậy sao?”
Cô chủ hiệu gói cuốn sách trong giấy nâu, buộc dây lại. “Nói thật với cô, vậy thì đỡ tốn công tôi gởi trả về Đức. Giờ đâu có ai mua.”
Một lát sau Hannah đặt gói giấy nâu xuống quầy tính tiền ở tiệm bánh. “Phiền anh gởi lại cho anh Roennfeldt. Anh ấy để quên ở hiệu sách.”
“Anh ấy đang ở đằng sau. Để đó tôi đi gọi.”
“Không cần đâu. Cảm ơn anh nhiều,” cô nói rồi bước ra ngay, trước khi anh ta kịp nói thêm gì nữa.
Vài ngày sau đó Frank ghé nhà để cảm ơn cô. Cuộc đời Hannah bước sang một chương mới, ngỡ như không thể nào may mắn hơn được nữa.
***
Septimua Potts chỉ vừa khấp khởi mừng vì cô con gái đã tìm được ý trung nhân là người trong vùng thì ngay lập tức tiu nghỉu khi biết người đó chỉ là một anh thợ làm bánh. Nhưng ông nhớ lại gốc gác khiêm tốn của chính mình, rồi tự nhủ sẽ không để bụng chuyện anh ta làm nghề gì. Tuy nhiên, khi Septimus phát hiện ra Frank là người Đức, hoặc cũng gần như vậy, từ chỗ tiu nghỉu ông ta trở nên ghê tởm. Những cú nhổ nước bọt khinh bỉ của người dưng sau khi Hannah bắt đầu đi lại với Frank đã khiến cả hai cha con đều trở nên cứng rắn, ai cũng khư khư ý riêng của mình.
Chỉ trong vòng hai tháng căng thẳng lên đến đỉnh điểm. Septimua Potts sốt ruột đi lui tới trong thư phòng, cố tiêu hóa tin dữ vừa nhận. “Con loạn trí rồi sao?”
“Con muốn như vậy, thưa cha.”
“Cưới một tay người Hung!” Ông nhìn bức ảnh Ellen trong khung bạc tinh xảo trên bệ lò sưởi. “Mẹ con sẽ không bao giờ tha thứ cho cha! Cha hứa là sẽ nuôi dạy con nên người…”
“Thì cha đã làm đúng vậy mà, thưa cha.”
“Hẳn phải có gì sai trái, nếu không giờ đây làm sao con dám nói chuyện lấy một tay thợ làm bánh người Đức.”
“Anh ấy là người Áo.”
“Thì khác gì? Không lẽ cha phải dắt con xuống dưới Bệnh viện An Dưỡng, chỉ cho con thấy mấy đứa con trai xứ này sau khi bị nhốt hầm khí độc giờ đây chỉ còn biết nói lắp bắp? Chính cha tài trợ cho cái bệnh viện đó chứ ai vào đây nữa!”
“Cha quá hiểu là Frank còn không đi lính – suốt thời gian đó anh ấy bị bắt giam. Anh ấy chưa bao giờ hại ai cả.”
“Hannah, tỉnh lại đi. Con cũng ưa nhìn. Xứ này thiếu gì đứa tử tế, mà cả ở Perth, rồi Sydney hay thậm chí là Melbourne nữa, thiếu gì đứa muốn lấy con.”
“Muốn lấy tiền của cha thì có.”
“Lại chuyện đó nữa sao? Con không cần tiền của cha nữa, đúng không con gái?”
“Không phải vậy, thưa cha…”
“Cha làm việc cực khổ để có được ngày nay. Cha không thấy xấu hổ về bản thân, hay về gốc gác của mình, nhưng còn con… rõ là con có cơ hội tốt hơn.”
“Con chỉ muốn có cơ hội sống cuộc đời của riêng mình.”
“Nghe đây Hannah, nếu con muốn làm việc thiện nguyện, con có thể đi theo đoàn truyền giáo, tới sống với dân bản xứ. Hay làm việc trong nhà trẻ mồ côi. Con không thể làm từ thiện bằng cách lấy chồng được.”
Gương mặt cô con gái đỏ bừng, tim cô đập nhanh khi nghe câu cuối cùng đó – không chỉ vì câu nói quá tàn nhẫn, mà còn vì, biết đâu đó, cô mơ hồ sợ hãi rằng cha đã nói đúng. Sẽ ra sao đây nếu cô đồng ý lấy Frank chỉ để trêu ngươi những kẻ cầu hôn khác, những kẻ chỉ chăm chăm vào gia tài của cô? Hay cô làm vậy chỉ vì muốn bù đắp cho những khổ đau mà anh đã chịu? Rồi cô nghĩ đến nụ cười của anh, nghĩ đến cảm giác của mình khi thấy anh cười, rồi cả cách anh ngẩng cằm lên, ngẫm nghĩ những câu hỏi của cô. Cô thấy yên lòng.
“Anh ấy là người tử tế, cha à. Hãy cho anh ấy một cơ hội.”
“Hannah.” Septimus đặt một tay lên vai cô. “Con biết với cha con là cả thế gian.” Ông vuốt tóc cô. “Hồi nhỏ con còn không để mẹ chải tóc, con nhớ không? Khi đó con cứ nói, ‘Không, để cha chải kia!’. Rồi cha sẽ chiều con. Con ngồi trên gối cha, ngay trước lò sưởi hằng đêm. Rồi cha chải tóc cho con, cha con mình cùng nướng bánh crumpet trên lửa lò sưởi. Rồi mình cố sao cho mẹ đừng thấy chỗ bơ chảy trên áo con. Tóc con ánh lên, trông con như công chúa xứ Ba Tư. Cứ chờ đã Hannah à, thư thư một thời gian.” Septimua nài nỉ.
Nếu cha cô chỉ cần thời gian để quen với ý nghĩ đó, cần thời gian để mà cảm thấy khác đi… Hannah sắp nhượng bộ, thì Septimus tiếp lời. “Rồi con sẽ hiểu cha, hiểu rằng giờ đây con đang phạm một sai lầm lớn…” Ông thở ra một hơi dài, như khi tính chuyện làm ăn lớn, “rồi con sẽ cảm ơn trời là cha đã khuyên con dừng lại.”
Cô rụt người lại. “Con sẽ không chịu những lời đó. Cha không cách gì cản con lấy Frank được cả.”
“Không thể cứu vớt con khỏi sai lầm đó thì đúng hơn.”
“Con đã đủ lớn để kết hôn mà không cần cha chấp thuận. Và con sẽ làm như vậy nếu con muốn.”
“Có thể con không quan tâm gì đến cha, nhưng hãy nghĩ đến em gái con. Con biết người xứ này sẽ nói gì.”
“Người xứ này là một đám đạo đức giả bài ngoại!”
“Ôi chao, cho con ăn học thật là đáng. Để bây giờ con chê bai cha bằng chữ nghĩa văn hoa như vậy.” Ông nhìn thẳng vào mắt cô. “Cha không bao giờ nghĩ mình sẽ nói câu này, nhưng con nghe đây, nếu con lấy người đó, cha sẽ không chúc phúc cho con. Và con sẽ không có một xu nào cả.”
Cũng với cái điệu bộ từng làm Septimus không thể rời mắt khỏi mẹ cô, Hannah đứng thẳng, điềm tĩnh. “Nếu cha muốn vậy, cha à, thì mọi việc sẽ y như vậy.”
***
Sau đám cưới đơn sơ mà Septimus từ chối đến dự, hai người sống trong căn nhà xập xệ của Frank ở rìa thị trấn. Cuộc sống chật vật, ai cũng biết. Hannah dạy đàn dương cầm rồi dạy chữ cho đám thợ gỗ. Nhiều tay thợ còn thấy đắc chí vì họ thuê lại (dù chỉ một tiếng đồng hồ mỗi tuần) chính con gái của người vẫn thuê họ làm việc. Nhưng nhìn chung người ta coi trọng sự tử tế và thái độ thẳng thắn của Hannah.
Hannah cảm thấy hạnh phúc. Cô đã tìm được một người chồng hiểu cô hoàn toàn, người có thể cùng cô nói chuyện triết học và văn học cổ điển, người có nụ cười làm mọi lo lắng tan biến và khiến cuộc sống khó khăn cũng trở nên dễ chịu.
Năm tháng qua đi, dần dần người ta cũng dễ chịu hơn phần nào với người thợ làm bánh có chất giọng ngoại quốc không thể nào phai. Vài người, như vợ của Billy Wishart hay hai mẹ con Joe Rafferty vẫn còn kiểu đi băng qua đường mỗi khi thấy Hannah và Frank, nhưng hầu hết cũng đã yên ổn. Đến năm 1925 Hannah và Frank thấy cuộc sống đã có phần chắc chắc hơn, tiền nong cũng ổn để sinh con. Tháng Hai năm 1926 con gái họ chào đời.
Hannah vẫn nhớ giọng hát cao, du dương của Frank mỗi khi anh đưa nôi. “Schlaf, Kindlein, schlaf. Dein Vater hüt’ die Schaf, Die Mutter schüttelt’s Bäumelein, Da fällt herab ein Träumelein. Schlaf, Kindlein, schlaf!”[1]
[1] Bài hát ru con bằng tiếng Đức: “Ngủ ngoan, con yêu, ngủ ngoan. Cho con giữ bầy cừu. Mẹ con rung cành cây. Rụng xuống cho con một giấc mơ nho nhỏ. Ngủ ngoan, con yêu, ngủ ngoan” (ND)
Trong căn phòng nhỏ bé, bên ngọn đèn dầu, mặc cho lưng đau, Frank ngồi trên ghế đã tơi tả. Anh nói “Thực tôi không thể nghĩ đời mình lại may mắn đến vậy, mình à.” Gương mặt anh ửng lên, không phải vì ngọn đèn bên cạnh mà vì hình hài bé nhỏ đang nằm trong nôi, đang hít thở nhịp nhàng, từ từ chìm vào giấc ngủ.
***
Tháng Ba năm đó, trên ban thờ ở nhà thờ có thêm những bình hoa cúc và hoa nhài hái từ vườn nhà Frank và Hannah. Mùi hương ngọt ngào bay bổng suốt từ những hàng ghế trống trơn ra phía sau nhà thờ. Hannah mặc áo màu xanh nhạt, đội một chiếc mũ dạ rộng vành cùng tông. Frank mặc bộ complet từ hồi đám cưới, sau bốn năm vẫn vừa vặn. Bettina chị họ của Frank cùng với chồng là Wilf từ Kargoorlie đến dự, “nhận chức” cha mẹ đỡ đầu. Hai người cứ cười dịu dàng với đứa trẻ bé bỏng trong tay Hannah.
Cha Norkells đứng bên cạnh bồn nước rửa tội, tay hơi lóng ngóng kéo tua rua sặc sỡ đánh dấu sách, giở tìm đến trang có nghi lễ rửa tội. Chút vụng về đó hẳn là có liên quan đến hơi thở nồng mùi rượu của Đức cha. “Em nhỏ này đã được rửa tội hay chưa?” Cha Norkells bắt đầu.
Hôm đó là một buổi chiều thứ Bảy nóng như thiêu đốt. Một con ruồi xanh to mẩy bay vo ve, thỉnh thoảng lại đến uống nước từ bồn rửa tội, mỗi lần vậy cha mẹ đỡ đầu lại xua nó đi. Rồi nó cứ bay lại mãi, khiến Wilf ra tay đập bẹp dí bằng chiếc quạt của Bettina. Con ruồi lao mình xuống bồn nước thánh như một tay say rượu sa chân xuống mương.
Cha Norkells không hề dừng lại, vừa lấy con ruồi ra vừa hỏi tiếp. “Anh chị, nhân danh em nhỏ này, có chịu từ bỏ ma quỷ và mọi việc của ma quỷ hay không...?”
“Thưa từ bỏ,” cha mẹ đỡ đầu đồng thanh đáp lại.
Khi những lời đó vang lên, cánh cửa nhà thờ kêu kẽo kẹt, như có ai vừa đẩy vào. Hannah thấy lòng lâng lâng khi trông thấy người cha ruột đi cùng với em gái Gwen đang chậm rãi tiến vào. Hai người quỳ gối ở hàng ghế cuối cùng. Hai cha con chưa từng nói chuyện lại với nhau kể từ ngày cô bỏ nhà đi lấy chồng. Khi gởi giấy mời dự lễ rửa tội, Hannah nghĩ cha mình sẽ phản ứng như thường lệ – im lặng. “Em sẽ cố, Hanny à,” Gwen hứa với cô. “Nhưng chị cũng biết cha cứng đầu ra sao rồi đó. Dù vậy em hứa với chị. Em sẽ đến dự, mặc cho cha nói gì đi chăng nữa. Việc đã quá lâu rồi.”
Lúc đó frank quay sang nhìn cô. “Mình thấy không?” Anh thì thầm. “Rồi cuối cùng Chúa cũng khiến mọi sự êm ấm cả.”
“Lạy chúa nhân từ, xin cho người Adam trong em được chôn cất mãi, để con người mới trỗi dậy...” Tiếng nói của cha Norkells vang dội khắp các bức tường, đứa trẻ ngo ngoe co duỗi người trong tay mẹ. Khi nó vừa chớm khóc, Hannah đút khuỷu ngón tay vào giữa cặp môi nhỏ xíu. Đứa nhỏ mút lấy say sưa. Nghi lễ tiếp tục, Cha Norkells đỡ lấy đứa bé rồi nói với cha mẹ đỡ đầu. “Hãy đặt tên cho em.”
“Grace Ellen.”
“Grace Ellen, ta rửa tội cho em nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”
Trong suốt phần còn lại của nghi lễ rửa tội, đứa bé cứ mải nhìn những mảnh kính màu rực rỡ trên cửa sổ nhà thờ, cũng thích thú y như hai năm sau đó, khi nó lại một lần nữa ngắm kính cửa bên bồn nước rửa tội, nhưng trong tay một người đàn bà khác.
Khi nghi lễ đã xong, Septimua vẫn ở yên dưới hàng ghế. Hannah chậm rãi bước xuống lối đi. Đứa trẻ vẫn ngọ nguậy trong chiếc chăn quấn, hết quay đầu về bên này rồi lại trở sang bên kia. Hannah dừng lại ở chỗ cha ngồi. Septimus đứng dậy khi cô con gái đưa đứa cháu ngoại về phía ông. Ông ngập ngừng một lúc rồi đưa tay đón lấy đứa bé.
“Grace Ellen. Mẹ con hẳn sẽ rất cảm động,” ông chỉ nói được chừng đó rồi giọt nước mắt rơi xuống. Septimus nhìn đứa bé, xúc động dạt dào.
Hannah nắm tay cha. “Ra với Frank đi cha,” cô nói, rồi dẫn ông đi theo lối giữa hai hàng ghế.
“Cha vào đi, đi mà cha.” Hannah lên tiếng khi cha cô đứng bên cổng với Gwen, ngập ngừng bối rối. Căn nhà nhỏ lợp ván đơn sơ, chỉ tươm hơn một cái lán khiến ông nhớ đến cơ ngơi tạm bợ của vợ chồng Flindells, nơi ông lớn lên. Bước qua cánh cửa, chỉ bằng mấy bước chân mà ông như quay về năm mươi năm trước đó.
Trong phòng khách, Septimus nói năng cứng nhắc nhưng lịch sự với những người bà con của Frank. Ông mở lời với Frank, khen chiếc bánh rửa tội thật hay quá, mấy món ăn dù nhỏ nhưng rất tinh tế. Nhưng thỉnh thoảng, ông lại tình cờ thấy những khe nứt trên vữa tường, rồi mấy lỗ thủng trên thảm nhà, cái sau lớn hơn cái trước.
Khi sắp ra về, ông kéo Hannah lại một phía, rút ví tiền ra. “Cha cho con chút ít để…”
Hannah nhẹ nhàng đẩy tay ông lại. “Ổn cả mà cha. Con biết cha lo cho tụi con nhưng tụi con tự lo được. Cha nhớ ghé qua chơi nữa.”
Ông mỉm cười, hôn lên trán đứa nhỏ, rồi đứa con gái. “Cảm ơn Hanny.” Rồi gần như lẩm bẩm, ông nói. “Ellen hẳn muốn cháu ngoại của bà ấy được chăm chút. Mà cha… cha nhớ con lắm.”
Chỉ trong một tuần sau đó, quà tặng cho đứa bé liên tục được gởi đến từ Perth, từ Sydney và xa hơn nữa. Một chiếc cũi, một chiếc tủ có ngăn kéo bằng gỗ gụ. Áo đầm, mũ đội đầu và cả những món tắm gội. Cháu ngoại của Septimus Potts chỉ xứng với những thứ tốt nhất.
***
“Chồng chị đã về với Chúa.” Từ khi có lá thư Hannah như thêm một lần để tang, rồi lại có thêm hy vọng mới. Chúa đã mang chồng cô đi, nhưng đã cứu đứa con gái bé nhỏ. Cô khóc, không chỉ với sầu thương, mà còn với nỗi tủi nhục khi nghĩ về cái ngày hôm đó.
Thị trấn xứ Mũi như luôn biết cách phủ màn che chuyện cũ. Trong một cộng đồng nhỏ, ai cũng hiểu rằng đôi khi nghĩa vụ phải quên đi cũng quan trọng như những lời hứa sẽ nhớ mãi. Trẻ con thị trấn lớn lên không hề biết tới những chuyện nọ kia của cha chúng thời trẻ, không hề hay gì đến người anh em ngoài giá thú đang sống cách đó chỉ năm mươi dặm, lấy họ của một người khác. Suy cho cùng lịch sử cũng chỉ là những thứ đã được người ta cùng đồng ý ghi nhớ.
Đời cứ như thế trôi đi – được che chắn bởi sự im lặng có khả năng làm dịu đi những tủi nhục. Những người lính trở về, mang theo những câu chuyện về nỗi sợ hãi của đồng đội trước khi lìa đời, nhưng chỉ nói rằng họ đã hy sinh dũng cảm. Với thế giới bên ngoài, không có chuyện người lính đi chơi gái, cư xử lỗ mãng hay chạy trốn khi kẻ thù tìm đến. Ra chiến trường đã là một sự trừng phạt rồi. Khi người vợ phải giấy đi món tiền mới vay, hay mớ dao kéo trong bếp trước tay chồng điên dại, họ làm vậy mà không nói một lời, thậm chí còn không thừa nhận điều đó với cả chính mình.
Với Hannah Roennfeldt, cô biết mình không thể chia sẻ với ai ký ức về cái ngày đau khổ đó. “Bới lại chuyện cũ – để làm gì chứ?” người ta sẽ nói vậy, nôn nóng muốn trở lại với hình ảnh cuộc sống văn minh chỉn chu ở Partageuse. Nhưng Hannah thì nhớ mãi.
Lễ Anzac. Các quán rượu đều đông nghẹt, những người đàn ông đã từng đi lính, hay mất đi anh em vì chiến tranh, những người trở về từ Gallipoli và từ Somme, vẫn chưa quên cú sốc bom đạn và hơi cay, mặc dù chuyện đã mười năm. Ngày hai mươi lăm tháng Tư năm 1926. Người ta dấm dúi chơi trò cá cược tung hai đồng xu ở gian sau quán. Trong ngày đó cảnh sát cũng sẽ làm lơ. Mà thực ra cảnh sát cũng sẽ dự phần – cuộc chiến đó cũng là của họ kia mà. Bia Emu Bitter cứ được rót mãi, người uống mỗi lúc một to tiếng, những bài hát cũng trở nên thô thiển hơn. Người ta phải quên đi rất nhiều thứ. Họ trở về để làm việc trên nông trại, ở bàn giấy, trên bục giảng, cứ thế mà làm – khốn kiếp, cứ thế mà làm vì còn có cách nào khác. Họ càng uống, càng thấy khó quên, càng muốn đập phá một thứ gì đó, một tay nào đó, một chọi một, công bằng như hai người đàn ông đánh tay đôi với nhau. Bọn Thổ khốn nạn. Bọn Hung khốn kiếp. Lũ chó đẻ chết tiệt.
Frank Roennfeldt hẳn là đối thủ xứng đáng. Người Đức duy nhất trong thị trấn, mặc dầu thực ra anh ta là người Áo. Frank là thứ gần nhất với kẻ thù mà họ có thể tìm được ở xứ này. Vậy là khi thấy Frank và Hannah rảo bước trên đường trong buổi hoàng hôn, họ bắt đầu huýt gió bài “Tipperary”[2]. Hannah thấy sợ hãi, bước chân va vấp. Frank ngay lập tức đỡ lấy Grace, giật lấy chiếc áo len mỏng trên cánh tay vợ để che cho con. Hai người bước đi vội vã, cúi đầu.
[2] Bài hát It’s a long way to Tipperary – một bài hát rất phổ biến trong Thế Chiến thứ nhất, nói về nỗi nhớ thương quê nhà của người lính.
Những tay sâu rượu trong quán hẳn nghĩ trò vui đây rồi, ngay lập tức đổ ra đường. Người từ những quán khác dọc theo đường chính cũng đổ ra, rồi một tay nào đó quyết định bày trò giật lấy mũ của Frank và ngay lập tức ra tay.
“Thôi đi, để tụi tôi yên, Joe Rafferty!” Hannah cằn nhằn. “Trở lại quán đi, để tụi tôi yên,” hai người tiếp tục bước nhanh.
“Để tụi tôi yên!” Joe giả giọng the thé, rên rỉ. “Bọn Đức khốn nạn! Đều cùng một giuộc, lũ hèn nhát!” Anh ta quay lại phía đám đông. “Nhìn hai đứa này đi, có cả đứa con xinh vậy.” Anh ta nhịu cả giọng. “Tụi mày biết không bọn Đức chuyên ăn thịt con nít. Nướng sống mà ăn, bọn chó đẻ ác độc.”
“Các người đi ngay, nếu không tụi tôi sẽ gọi cảnh sát!” Hannah hét lên, rồi sững người khi thấy Harry Garstone và Bob Lynch – hai viên cảnh sát thị trấn đang đứng trên ban công khách sạn, tay cầm vại bia, miệng nhếch cười sau hàng ria mép chải chuốt.
Đột nhiên, như có cây diêm vừa được châm lửa, khung cảnh nhốn nháo lên: “À ha, vậy thì trêu bọn thân Hung này đi anh em!” có tiếng la lên. “Cứu lấy đứa nhỏ khỏi bị ăn thịt,” rồi một tá người say xỉn chạy đuổi theo Hannah và Frank. Hannah bị bỏ lại phía sau vì chiếc thắt lưng của cô hôm đó quá chặt, khiến cô khó thở. Cô gọi với theo, “Grace, Frank! Cứu lấy Grace!”. Anh ôm đứa nhỏ chạy khỏi đám đông, vẫn mải đuổi theo anh như bầy thú hoang ra đến tận cầu tàu. Tim anh đập mạnh, loạn nhịp, cánh tay anh đau tê dại khi anh chạy trên những tấm ván rung lắc trên mặt nước. Anh nhảy xuống chiếc xuồng đầu tiên rồi nhanh chóng chèo ra biển, lánh nạn. Chờ đến khi đám đông kia tỉnh táo lại và mọi việc đằm xuống.
Thật ra cũng chưa là gì so với những chuyện anh từng gặp trước đó.