Hãy xem mỗi trở ngại là một cơ hội.

Tiến sĩ Wayne Dyer

 
 
 
 
 
Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: diep ho
Upload bìa: diep ho
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 43
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17: Abdullah Cuối Cùng Cũng Đến Được Lâu Lài Trên Mây
HƯƠNG 17
Abdullah cuối cùng cũng đến được lâu lài trên mây
Cái rổ gối cho mèo nằm giữa phần bữa tối còn thừa ở trên bàn. Trên giường là đống chăn nhàu nhĩ và một đám mây khói thuốc đọng phía trên, như thể người lính nằm đó hút thuốc chỉ mới ngay đây thôi. Cửa sổ đóng kín. Abdullah lao tới đó, định mở ra nhìn - chẳng vì lẽ gì, có điều đó là tất cả những gì anh nghĩ ra được - và thấy mình vấp phải một cái đĩa đầy kem. Cái đĩa lật nhào, vung thứ kem đặc màu trắng vàng thành một đường dài qua tấm thảm mầu nhiệm.
Abdullah đứng nhìn xuống nó. Ít nhất cái thảm vẫn ở đây. Như thế nghĩa là gì? Chẳng thấy người lính và rõ ràng cả một đứa bé ồn ào ở bất cứ đâu trong phòng. Và anh nhận ra trong khi mắt đảo loạn về bất cứ góc nào có thể nghĩ tới, rằng cái chai linh thần cũng thế.
“Ôi không!” Sophie thốt lên khi vào tới cửa. “Lão ở đâu? Lão không thể đi xa nếu tấm thảm vẫn ở đây.”
Abdullah ước gì mình có thể chắc chắn được chuyện đó. “Tôi không muốn làm chị hốt hoảng, thưa bà mẹ của đứa bé ưa vận động nhất,” anh nói, “nhưng tôi quan sát thấy cái chai linh thần cũng biến mất rồi.”
Sophie thoáng nhíu mày. “Linh thần nào?”
Trong khi Abdullah nhớ lại rằng khi còn là Nửa Đêm, Sophie dường như lúc nào cũng không nhận ra được sự tồn tại của linh thần, thì Lettie vào đến cửa, vừa thở hổn hển, vừa một tay ôm eo. “Có chuyện gì vậy?” cô thở gấp.
“Họ không có ở đây,” Sophie nói. “Chị đoán người lính hẳn đã mang Morgan tới chỗ bà chủ quán trọ. Bà ta hẳn biết trông trẻ.”
Như chết đuối vớ được cọc, Abdullah nói, “Tôi sẽ đi xem thử.” Vẫn có thể Sophie nói đúng, anh nghĩ trong khi chạy xuống những bậc cầu thang đầu tiên. Đó là điều mà hầu hết đàn ông sẽ làm khi đột nhiên phải đối mặt với một đứa bé la hét - dĩ nhiên đó là nếu người đàn ông này không có một cái chai linh thần trong tay.
Những bậc cầu thang phía dưới chật ních những người đang đi lên, họ đi ủng đường trường và mặc đồng phục. Ông chủ nhà trọ đang dẫn họ lên tầng, vừa đi vừa nói, “Chúng đang ở tầng hai, thưa các ngài. Mô tả của các ngài phù hợp với gã người Strangia, nếu gã cắt bím tóc đi, và gã thanh niên rõ ràng là kẻ đồng phạm mà các ngài nhắc tới.”
Abdullah quay lại và nhón chân nhảy hai bậc một lúc ngược lên tầng.
“Có một thảm họa, thưa hai quý bà quyến rũ nhất!” anh vừa thở gấp vừa nói với Sophie và Lettie. “Ông chủ nhà trọ - một lão chủ phản trắc - đang đưa cảnh binh tới bắt tôi và ông lính. Giờ thì chúng ta có thể làm gì đây?”
Đây là lúc một người phụ nữ cứng cỏi cần đứng lên lãnh đạo. Abdullah thấy mừng vì Sophie chính là người đó. Cô lập tức hành động. Cô đóng cửa và cài then. “Đưa cho chị khăn mùi soa của em,” cô nói với Lettie, và khi Lettie đưa khăn, Sophie quỳ xuống lau kem khỏi tấm thảm mầu nhiệm. “Anh lại đây,” cô nói với Abdullah. “Lên tấm thảm này với tôi và bảo nó đưa chúng ta tới bất cứ đâu Morgan đang ở. Em ở lại, Lettie, và giữ chân cảnh binh. Chị không nghĩ tấm thảm chịu chở em.”
“Được thôi,” Lettie trả lời. “Đằng nào em cũng muốn quay lại chỗ Ben trước khi đức vua đổ lỗi cho anh ấy. Nhưng em sẽ cho lão chủ quán trọ biết em nghĩ như thế nào trước. Coi như luyện tập trước khi đối mặt với đức vua.” Với phong thái cũng mạnh mẽ như chị mình, Lettie căng vai và chống nạnh làm điệu bộ hứa hẹn cả lão chủ quán lẫn đám cảnh binh sắp gặp rắc rối to.
Abdullah cũng mừng vì có Lettie ở đó. Anh ngồi xuống tấm thảm và khẽ khụt khịt. Tấm thảm rung lên. Nó rung lên một cách miễn cưỡng. “Ôi hỡi tấm vải thần kỳ, viên hồng ngọc và kim lục thạch giữa các tấm thảm,” Abdullah nói, “kẻ lỗ mãng vụng về khốn khổ này xin được hết sức thứ lỗi vì đã làm đổ kem lên bề mặt vô giá của ngươi...”
Những tiếng gõ cửa nặng nề vang lên. “Mở cửa ra, nhân danh đức vua!” ai đó hô bên ngoài.
Không còn thời gian để nịnh nọt tấm thảm thêm nữa. “Thảm bay, ta yêu cầu ngươi,” Abdullah thì thầm, “hãy đưa ta và quý bà này đến nơi người lính đang mang đứa bé đến.”
Tấm thảm rung lên khó chịu, nhưng nó nghe lời. Nó bay đi theo cách thường lệ, thẳng qua ô cửa sổ đóng chặt. Abdullah lần này đủ chú tâm để thoáng thấy lớp kính và khung cửa sẫm màu trong khoảnh khắc, hệt như mặt nước, trong khi họ bay xuyên qua nó và rồi vút lên trên những khối cầu bạc soi sáng đường phố. Nhưng anh không nghĩ Sophie nhìn thấy gì. Cô siết chặt cánh tay Abdullah bằng cả hai tay và anh trộm nghĩ chắc cô đang nhắm tịt mắt.
“Tôi sợ độ cao!” cô nói. “Hy vọng nó đừng xa quá.”
“Tấm thảm tuyệt vời này sẽ đưa chúng ta đi với tốc độ nào cũng được, thưa phù thủy đáng kính,” Abdullah nói, cố gắng trấn an cả Sophie và tấm thảm cùng một lúc. Anh không chắc lời anh nói có tác dụng với cả hai. Sophie tiếp tục bám chặt tay anh tới mức đau nhói, đoạn kinh hoàng thở gấp gáp trong khi tấm thảm, vừa mới nãy còn quay cuồng lướt vèo ngay trên những tòa tháp và các ngọn đèn của Kingsbury, nay đã bay vòng vòng tới mức chóng mặt qua những mái vòm có vẻ như của cung điện, và rồi lại lượn thêm một vòng nữa quanh thành phố.
“Nó đang làm gì thế?” Sophie thở hắt ra. Rõ ràng cô không nhắm mắt chặt lắm.
“Hãy yên tâm, thưa nữ pháp sư trầm tĩnh nhất,” Abdullah trấn an cô. “Nó đang bay theo vòng tròn để tăng độ cao, cũng giống như chim vậy.” Thực lòng anh tin chắc tấm thảm đã mất dấu. Nhưng khi những ánh đèn và các mái vòm của thành Kingsbury loang loáng trôi qua ở phía dưới lần thứ ba, anh thấy anh đã vô tình đoán trúng. Họ đã ở trên cao cả vài trăm mét. Tới vòng thứ tư, còn rộng hơn vòng thứ ba - dù cũng chóng mặt như thế - thành Kingsbury chỉ còn là một cụm sáng lấp lánh xa tít tắp phía dưới.
Sophie lúc lắc đầu khi liếc nhìn xuống dưới. Cô bám vào Abdullah thậm chí còn chặt hơn, đấy là nêu có thể chặt hơn. “Ôi trời ạ!” cô kêu lên. “Chúng ta vẫn còn bay lên! Tôi tin tên lính xấu xa đó đã mang Morgan đuổi theo ma thần!”
Giờ họ ở trên cao đến nỗi Abdullah sợ rằng cô nói đúng. “Hẳn là lão muốn cứu công chúa,” anh nói, “mong nhận được phần thưởng lớn.”
“Lão chẳng có lý do gì để mang con tôi theo!” Sophie tuyên bố. “Cứ chờ tới lúc tôi gặp lão xem! Nhưng sao lão làm được thế mà không có tấm thảm?”
“Lão hẳn đã ra lệnh cho linh thần đi theo ma thần, thưa ánh trăng của tình mẫu tử,” Abdullah giải thích.
Nghe thế, Sophie lại hỏi, “Linh thần nào?”
“Tôi đảm bảo với chị, thưa trí tuệ phù thủy sắc bén nhất, rằng tôi sở hữu một linh thần cũng như tôi sở hữu tấm thảm này, dù chị có vẻ chưa bao giờ thấy được hắn,” Abdullah nói.
“Thế thì tôi sẽ tin lời anh,” Sophie nói. “Cứ nói tiếp đi. Nói đi - không thì tôi sẽ nhìn xuống dưới, và nếu nhìn xuống dưới, tôi biết tôi sẽ ngã mất!”
Bởi vì cô vẫn bám rất chặt vào cánh tay Abdullah, anh biết nếu cô ngã thì anh cũng ngã theo. Thành Kingsbury giờ là một chấm sáng mờ ảo, hiện lên lúc bên này, lúc bên kia, bởi tấm thảm vẫn bay lên cao theo đường xoắn ốc. Phần còn lại của Ingary trải rộng quanh nó giống như một cái đĩa màu xanh thẫm khổng lồ. Ý nghĩ ngã xuống từ độ cao tới chừng này khiến Abdullah gần như sợ bằng Sophie. Anh vội vàng kể cho cô nghe tất tần tật về cuộc phiêu lưu của mình, anh gặp Hoa Đêm như thế nào, nhà vua giam anh vào ngục ra sao, linh thần đã được thủ hạ của Kabul Aqba - những kẻ hóa ra lại là thiên thần - vớt ra khỏi cái hồ trong ốc đảo kiểu gì và để lập một điều ước mà không bị ác tâm của linh thần bóp méo khó khăn đến thế nào.
Tới lúc này, anh có thể thấy sa mạc như biển khơi nhạt nhòa phía Nam Ingary, dù giờ họ ở cao tới nỗi khó mà nhìn rõ cảnh vật bên dưới. “Giờ tôi mới hiểu ông lính đã thừa nhận tôi thắng cược để thuyết phục tôi rằng lão trung thực,” Abdullah phiền muộn nói. “Tôi nghĩ lão lúc nào cũng muốn ăn trộm linh thần và có lẽ cả tấm thảm nữa.”
Sophie thấy hứng thú. Lực nắm của cô trên cánh tay anh thả lỏng đôi chút, khiến Abdullah thấy rất nhẹ nhõm. “Anh không thể trách linh thần vì căm ghét tất cả mọi người được,” cô nói. “Hãy nhớ anh đã cảm thấy thế nào khi bị giam trong hầm ngục đó.”
“Nhưng còn ông lính...” Abdullah nói.
“Là chuyện khác hẳn!” Sophie tuyên bố. “Cứ đợi cho tới khi tôi xử lý được lão mà xem! Tôi không thể chịu đựng được người mềm lòng với động vật nhưng rồi lại lừa gạt bất cứ con người nào lão bắt gặp! Nhưng ta hãy nói tiếp về linh thần mà anh nói anh có - tôi thấy như thể ma thần đã muốn anh có được hắn. Anh có nghĩ đây là một phần trong âm mưu tranh thủ sự giúp đỡ từ những kẻ thất tình để hắn thắng được em trai không?”
“Tôi tin là vậy,” Abdullah nói.
“Thế thì khi chúng ta tới được lâu đài trên mây, nếu đó là nơi mà ta đang tới,” Sophie nói, “ta có thể trông cậy vào cả những kẻ thất tình khác đến giúp đỡ.”
“Có lẽ,” Abdullah thận trọng nói. “Nhưng như tôi nhớ, thưa kẻ kỳ lạ nhất giữa loài mèo, chị đã chạy trốn vào bụi cây trong khi ma thần đang nói, và ma thần chỉ chờ đợi một mình tôi đến mà thôi.”
Dù sao, anh vẫn ngước lên trên. Giờ trời càng lúc càng lạnh hơn, và những ngôi sao dường như ở gần tới khó chịu. Bầu trời tối xanh lóng lánh ánh bạc, chứng tỏ ánh trăng đang cố gắng lọt qua từ đâu đó. Quang cảnh rất đẹp. Trái tim Abdullah phập phồng với ý nghĩ rằng có lẽ cuối cùng anh cũng được cất bước trên con đường giải cứu Hoa Đêm.
Thật không may, Sophie cũng ngước lên. Cô siết chặt cánh tay anh. “Nói chuyện đi,” cô nói, “tôi sợ quá.”
“Thế thì chị cũng phải nói chuyện, thưa người niệm phép can đảm,” Abdullah nói. “Hãy nhắm mắt lại và kể với tôi về hoàng tử xứ Ochinstan, người mà Hoa Đêm được hứa hôn.”
“Tôi không nghĩ chuyện hứa hôn của cô ta sẽ thành,” Sophie lắp bắp nói. Cô thực sự hoảng sợ. “Con trai của đức vua chỉ là một cậu bé. Dĩ nhiên đức vua còn có em trai, hoàng thân Justin, nhưng anh ta đáng lẽ sẽ kết hôn với công chúa Beatrice của Strangia - mỗi tội cô ta từ chối nghe theo và bỏ trốn. Anh nghĩ ma thần đã bắt được cô ta chưa? Tôi nghĩ nhà vua của các anh chỉ thèm muốn một số vũ khí các pháp sư của chúng tôi chế tạo ở đây - và lão sẽ không có được chúng đâu. Họ không cho đám lính đánh thuê mang theo vũ khí khi chúng đi về phía Nam. Thực ra, Howl bảo họ thậm chí không nên cử lính đánh thuê tới. Howl...” giọng cô nhỏ dần. Bàn tay cô trên cánh tay Abdullah run lẩy bẩy. “Nói chuyện đi!” cô rền rĩ.
Đến thở cũng dần trở nên khó khăn. “Tôi khó mà làm được, thưa công nương tay khỏe,” Abdullah hổn hển. “Tôi nghĩ không khí ở đây rất loãng. Chẳng lẽ chị không thể làm phép gì đó giúp ta hít thở được hay sao?”
“Có lẽ không. Anh cứ gọi tôi là phù thủy, nhưng tôi thực sự chỉ mới quen với chuyện này thôi,” Sophie phản đối. “Anh thấy rồi còn gì. Khi tôi là mèo, tôi làm được mỗi một việc là hóa lớn.” Nhưng cô buông Abdullah ra trong chốc lát để run rẩy phác những cử chỉ mau mắn trên đầu. “Ôi trời, không khí!” cô nói. “Thế này thật đáng hổ thẹn! Ngươi phải cho chúng ta thở tốt hơn thế này một chút, nếu không chúng ta sẽ không chịu nổi. Hãy tới đây và để cho chúng ta hít thở ngươi!” cô lại bám chặt vào Abdullah. “Có tốt hơn tí nào không?”
Đúng thực là giờ dường như có nhiều không khí hơn, dù cũng giá lạnh hơn bao giờ hết. Abdullah thấy ngạc nhiên bởi cách Sophie làm phép khiến anh cảm thấy chẳng giống phù thủy tí nào - thực ra nó không khác lắm với cách riêng của anh để thuyết phục tấm thảm di chuyển - nhưng anh phải thừa nhận là nó có tác dụng. “Có. Rất cảm ơn, thưa người niệm phép.”
“Nói chuyện đi!” Sophie đòi hỏi.
Giờ họ ở trên cao đến nỗi thế gian bên dưới mất hút khỏi tầm mắt. Abdullah không khó để hiểu được nỗi kinh hoàng của Sophie. Tấm thảm đang lướt qua không gian trống rỗng tối tăm để lên cao hơn, cao hơn nữa, và Abdullah biết nếu chỉ có một mình, có lẽ anh đã hét toáng lên. “Chị nói đi, thưa quý bà hùng mạnh có phép thuật,” anh run rẩy. “Hãy kể cho tôi về pháp sư Howl chồng chị.”
Răng Sophie đánh lập cập, nhưng cô kiêu hãnh nói. “Anh ấy là pháp sư giỏi nhất ở Ingary, hay ở bất cứ nơi nào khác. Giá như có đủ thời gian, anh ấy hẳn đã có thể đánh bại gã ma thần. Anh ấy ranh mãnh, ích kỷ, tự phụ như một con công, hèn nhát và không để ai trói buộc mình vào bất cứ chuyện gì.”
“Thật ấy à?” Abdullah hỏi. “Thật lạ là chị lại tự hào như thế khi liệt kê cả một danh sách những tính xấu, thưa quý bà đáng yêu nhất.”
“Ý anh là sao, tính xấu ấy à?” Sophie tức giận hỏi. “Tôi chỉ đang mô tả Howl. Anh ấy đến từ một thế giới hoàn toàn khác, anh biết không, nơi đó gọi là xứ Wales, và tôi từ chối tin rằng anh ấy đã chết - Ôi!”
Cô không kịp nói hết mà thốt lên rên rỉ bởi tấm thảm lao vụt lên vào một nơi giống như tấm màn mây mờ ảo. Bên trong đám mây, hóa ra chính băng tuyết đã mang đến cảm giác mờ ảo đó, chúng đổ xuống họ từng mẩu lớn nhỏ như trong một cơn mưa đá. Họ đều thở gấp khi tấm thảm lao vút khỏi màn mây. Rồi họ lại cùng thở gấp, lần này là vì kinh ngạc.
Họ đang ở trong một miền đất mới tắm trong ánh trăng - ánh sáng nhuốm sắc vàng của vầng trăng tròn mùa thu. Nhưng khi Abdullah dành ra một khắc để ngắm mặt trăng, anh không nhìn thấy nó ở đâu cả. Ánh sáng dường như đến từ chính nền trời xanh bạc đính đầy những ngôi sao vàng trong trẻo. Nhưng anh chỉ có thể liếc mắt một lần ấy thôi. Tấm thảm đã bay ra cạnh một biển nước trong mờ, và đang nặng nề lướt đi bên những con sóng mềm mại thường vỡ tan mỗi khi xô vào các phiến mây. Dù họ có thể nhìn qua từng đợt sóng như thể nó làm từ lụa xanh ánh vàng, làn nước ướt át của nó vẫn đe dọa lật nhào tấm thảm. Không khí ấm áp. Còn tấm thảm, cũng như quần áo và tóc của họ, dính đầy những mẩu băng đang tan. Trong vài phút đầu tiên, Sophie và Abdullah hoàn toàn tập trung vào việc phủi băng ra khỏi rìa tấm thảm xuống đại dương mờ ảo, chúng chìm vào bầu trời bên dưới và biến mất.
Khi tấm thảm lướt đi nhẹ nhàng hơn, họ có cơ hội nhìn quanh và lại lần nữa kinh ngạc. Bởi nơi đây có những hòn đảo, doi đất và bờ vịnh ửng vàng mà Abdullah đã thấy lúc hoàng hôn, chúng vươn ra từ bên cạnh họ vào khoảng không bàng bạc xa xôi, nằm yên ắng im lìm và mê ảo như cảnh thiên đường. Những con sóng trong veo vỗ lên bờ mây chỉ khẽ khàng như những tiếng thì thầm, và điều đó dường như càng chỉ làm bầu không khí thêm tĩnh lặng.
Nơi này khiến người ta cảm thấy dường như cất tiếng nói là không phù hợp. Sophie huých Abdullah và chỉ tay. Ở đằng kia, trên mũi mây gần nhất là một lâu đài, gồm những tòa tháp cao kiêu hãnh với các ô cửa sổ ánh bạc mờ mờ. Nó được làm từ mây. Và khi họ nhìn tiếp, vài tòa tháp cao nhất tản ra các bên và tan đi, trong khi những tòa tháp khác hoặc thu nhỏ hoặc biến lớn. Trước mắt họ, nó biến hóa như một chấm mực loang thành tòa pháo đài to lừng lững đáng ngại, và rồi lại bắt đầu thay đổi. Nhưng nó vẫn ở đó, và vẫn là một tòa lâu đài, và có vẻ là nơi tấm thảm đang đưa họ tới.
Tấm thảm đang bay ở tốc độ của người rảo chân đi bộ, nhưng nó lướt nhẹ nhàng, sát theo bờ mây như thể chẳng lo bị phát hiện chút nào. Có những lùm mây bên kia các con sóng, ửng đỏ bàng bạc như sau buổi hoàng hôn. Tấm thảm lượn lẩn khuất giữa chúng, cũng như nó đã lẩn khuất sau những thân cây ở vùng đồng bằng Kingsbury, trong khi nó bay vòng qua vũng vịnh để tới mũi mây.
Trên đường bay tới đó, cảnh biển hoàng kim mới xuất hiện với những hình thù sương khói xa tít tắp chuyển động như thể những con tàu, hay những sinh vật mây đang bận bịu việc riêng. Vẫn trong bầu im lặng tuyệt đối, tấm thảm len lén lướt tới mũi đất, nơi không còn lùm bụi nào nữa. Ở đây, nó bay sát mặt đất bằng mây, cũng giống như nó đã bám sát theo những mái nhà ở Kingsbury. Abdullah không trách nó. Phía trước họ, tòa lâu đài lại thay đổi, trải dài ra cho tới khi trở thành một tòa sảnh đường hùng vĩ. Khi tấm thảm bay vào con đường dài dẫn tới cổng lâu đài, những mái vòm vươn cao vút và phồng to lên, và một tòa tháp vàng nhạt nhô ra như thể lâu đài đang quan sát họ tiến đến.
Những hình thù bằng mây xếp chật con đường, dường như chúng cũng đang quan sát họ đi vào. Những hình thù ấy mọc ra từ thềm mây như người ta thường thấy một túm nhỏ cuồn cuộn vươn ra khỏi đám mây lớn. Nhưng không như tòa lâu đài, chúng không thay đổi hình dạng. Mỗi hình thù bằng mây cao ngạo rướn mình lên như con hải mã, hoặc quân mã trên bàn cờ vua, có điều mặt chúng trống trơn và bẹt hơn mặt hải mã, và tỏa ra những tua cong cong chẳng phải mây cũng chẳng phải tóc.
Sophie nhìn từng hình thù mây khi họ bay qua chúng, càng lúc càng không thích. “Tôi không đánh giá cao thẩm mỹ của hắn về tượng,” cô nói.
“Ôi khẽ nào, thưa quý bà ăn nói bộc trực!” Abdullah thì thào. “Đây không phải là tượng, mà là hai trăm thiên thần theo hầu mà ma thần đã nhắc đến!”
Giọng nói của họ đánh động sự chú ý của hình mây gần nhất. Nó cựa mình mơ hồ, mở đôi mắt to lớn như nguyệt thạch và cúi xuống quan sát khi tấm thảm lẻn qua.
“Đừng nghĩ đến việc ngăn cản chúng tôi!” Sophie nói với nó. “Chúng tôi chỉ đến để đón con tôi.”
Đôi mắt khổng lồ chớp chớp. Rõ ràng thiên thần không quen bị nói vào mặt gay gắt như thế. Cặp cánh mây trắng bắt đầu dang ra hai bên.
Abdullah vội vàng đứng lên trên tấm thảm và cúi chào. “Xin chào, thưa vị sứ giả cao quý nhất của thiên đường,” anh nói. “Điều mà quý bà đây nói rất bộc trực chính là sự thật. Xin hãy tha lỗi cho chị ấy. Chị ấy đến từ phương Bắc. Nhưng chị ấy, cũng giống như tôi, đến đây trong hòa bình. Các ma thần đang trông nom con chị ấy, và chúng tôi chỉ đến để đón bé và gửi lời cảm ơn sâu sắc khiêm nhường nhất tới họ mà thôi.”
Điều này có vẻ xoa dịu thiên thần. Đôi cánh của hắn tan ra hai bên, và dù cái đầu kỳ quặc của hắn vẫn quay theo quan sát họ trong khi tấm thảm rón rén bay tiếp, hắn không cố ngăn họ lại. Nhưng giờ thiên thần ở bên kia đường cũng mở mắt, và hai thiên thần tiếp theo cũng quay đầu nhìn.
Abdullah không dám ngồi xuống. Anh dằn chân xuống giữ thăng bằng và cúi chào từng đôi thiên thần mà họ bay qua. Điều này không dễ làm. Tấm thảm cũng biết rõ như Abdullah rằng những thiên thần này nguy hiểm, và nó di chuyển càng lúc càng nhanh hơn.
Ngay cả Sophie cũng nhận ra rằng một chút lịch sự sẽ hữu ích. Cô gật đầu với mỗi thiên thần mà họ vụt qua. “Chào buổi tối,” cô nói. “Hôm nay hoàng hôn thật đẹp. Chào buổi tối.” Cô không có thời gian nói nhiều hơn, vì tấm thảm đã hối hả bay tới đoạn cuối con đường. Khi tới cánh cổng lâu đài đang đóng chặt, nó luồn như chuột lên một ống thoát nước. Người Abdullah và Sophie ướt đẫm hơi ẩm sương giá trước khi vút ra vào ánh sáng vàng hiền hòa.
Họ thấy mình đang ở trong một khu vườn. Ở đây, cái thảm đậu xuống nền đất, thõng thượt như cái giẻ rửa bát, và nằm lại đó luôn. Nó run khe khẽ dọc chiều dài, như một tấm thảm có thể run lên vì sợ hãi, hoặc đang thở gấp, hoặc cả hai.
Vì mặt nền khu vườn cứng cáp và có vẻ không làm từ mây, Sophie và Adbullah thận trọng đặt chân xuống. Đó là một thảm cỏ xanh chắc chắn, mọc dày cỏ màu lục ánh bạc. Ở phía xa, giữa những bờ giậu ngay hàng thẳng lối là một đài phun nước bằng cẩm thạch. Sophie nhìn nó, rồi nhìn quanh, và bắt đầu cau mày.
Abdullah khom xuống và chu đáo cuộn tấm thảm lại, vỗ lên nó và trấn an. “Can đảm lắm, hỡi tấm thảm thêu táo bạo,” anh nói với nó. “Nào, nào. Đừng sợ hãi. Ta sẽ không cho phép bất cứ ma thần nào, dù hùng mạnh đến đâu, làm hư hại dù chỉ một sợi chỉ trên lớp vải quý giá của ngươi, hay một sợi tua rua ở viền của ngươi.”
“Anh nói nghe cũng giống như gã lính nhặng xị lên về Morgan khi nó còn là Đuôi Vụt,” Sophie nói. “Lâu đài ở đằng kia.”
Họ đi về phía nó, Sophie cảnh giác nhìn quanh và khịt mũi một hai tiếng, Abdullah nhẹ nhàng vác tấm thảm qua vai. Anh thỉnh thoảng vỗ lên nó và cảm thấy cơn run rẩy tan biến dần trong khi họ đi. Họ đi khá lâu, vì khu vườn cứ thỉnh thoảng lại thay đổi và mở rộng, mặc dù nó không làm từ mây. Những bờ giậu trở thành những bờ hoa màu hồng nhạt đẹp đẽ, và đài phun nước mà họ luôn nhìn thấy rõ ràng ở đằng xa, giờ trông như thể làm từ pha lê, hoặc có thể là hoàng ngọc. Thêm một vài bước nữa, và mọi thứ đều được trồng trong chậu cây khảm châu báu, và dây leo lá lược vươn lên quấn quanh những cây cột quét sơn. Tiếng khịt mũi của Sophie trở nên to hơn. Theo như họ thấy từ xa, đài phun nước được làm từ bạc khảm ngọc bích.
“Gã ma thần đó quả đã quá tự tiện với lâu đài của người khác,” Sophie nói. “Nếu tôi chưa lú lẫn, thì đây từng là phòng tắm của chúng tôi.”
Abdullah cảm thấy mặt mình nóng bừng. Dù có phải phòng tắm của Sophie hay không, đây chính là khu vườn mà anh đã từng tưởng tượng. Hasruel đang chế nhạo Abdullah, cũng như hắn đã luôn chế nhạo anh. Khi đài phun nước phía trước trở thành vàng ròng, lấp lánh màu rượu sẫm vì được khảm hồng ngọc, Abdullah cũng bực mình y như Sophie.
“Vườn tược không nên sắp đặt thế này, bất chấp những thay đổi khó hiểu đó,” anh tức giận nói. “Vườn thì phải trông tự nhiên, với những bụi cây dại, và cả một khu hoa chuông rộng lớn nữa.”
“Đúng lắm,” Sophie nói. “Cứ nhìn cái đài phun nước kìa! Đúng là đối xử chả ra sao với một cái phòng tắm!”
Đài phun nước giờ làm từ bạch kim, khảm ngọc lục bảo. “Hào nhoáng đến ngớ ngẩn!” Abdullah nói. “Khi tôi thiết kế khu vườn của tôi...”
Tiếng hét của một đứa trẻ cắt ngang lời anh. Cả hai bắt đầu chạy.
Lâu Đài Trên Mây Lâu Đài Trên Mây - Diana Wynne Jones Lâu Đài Trên Mây