Số lần đọc/download: 226 / 7
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:11 +0700
Chương 16 - Lách Chách Và Cắn
T
ôi bị đánh thức bởi một giọng nói lách chách và cú giật tóc đau điếng.
“Để yên anh ngủ, Bells,” tôi lẩm bẩm. “Còn sớm mà.” Tôi rúc sâu hơn vào trong mớ bông gòn và nhắm nghiền mắt, nhưng con bé vẫn quấy nhiễu tôi. Nó kéo tóc, chọc vào má tôi và liên mồm nói ríu rít như thể nó là một con sóc. Tôi không hiểu được nửa lời nó nói. Tôi vả cho nó một cái. Nó ré lên và bay vút đi.
Bay ư? Sao Annabella lại biết bay?
Tôi mở choàng mắt và nhìn thấy vô vàn những tia sáng chói chang, lấp lánh lóa mắt giống như ánh mặt trời, hoặc là... vàng. Cả cái tổ ánh lên và tỏa sáng lóng lánh khi ánh nắng mai ùa vào qua lỗ cửa. Nó không hề được bện từ cỏ hay cành khô, mà được đan từ những sợi vàng vô cùng tinh xảo.
Nó cũng đang đầy ắp những sinh vật kỳ lạ - một loại ong bắp cày hay chim ruồi nào đó. Tôi không nhìn rõ, bởi bọn chúng quá đông và di chuyển quá nhanh, nhưng dù chúng thuộc về giống gì đi chăng nữa, thì rõ ràng đây cũng là tổ của chúng và chúng không vui vẻ gì khi thấy nó bị chiếm cứ. Chúng kéo tóc tôi, giật giật quần áo tôi, cào cấu chân tay tôi với những chiếc móng sắc nhọn. Chúng rít lên và lách chách những âm thanh kỳ lạ, nửa giống tiếng chim nửa giống tiếng sóc.
Tôi rút rìu ra vung loạn xạ. Đám sinh vật kia ré lên và bay dáo dác, dạt hết ra các góc xa của cái tổ. Tôi hạ rìu xuống và quan sát.
Bọn chúng không phải chim cũng chẳng phải côn trùng, mà chính là những con người có kích thước ngang ngửa tôi, với mái tóc nhiều màu sắc sặc sỡ như cầu vồng - và cánh! Cánh chuồn chuồn trong suốt lấp lánh, cánh lá cây xanh biêng biếc, cánh bướm xinh đẹp màu da trời, và cánh hồng tươi mềm mại như những cánh hoa.
Đích thị là lũ tiên tí hon.
Hay rồi.
Có lẽ đây chính là nơi tệ hại nhất mà chúng tôi có thể lựa chọn để nghỉ ngơi - một cái tổ tiên tí hon. Theo lời Tom, vết cắn của tiên tí hon có thể khiến bạn nổ tung, nhưng có lẽ nếu anh em tôi có thể chậm rãi rút lui mà không phát ra cử động đột ngột, chúng sẽ để yên cho chúng tôi.
“Annabella,” tôi thì thầm. “Bells, dậy thôi nào.”
Annabella rên rỉ và lăn sang bên. Lũ tiên tí hon chuyển sự chú ý cả sang nó, và một gã tiến đến gần điều tra. Y có một đôi cánh chuồn chuồn và mái tóc xanh biếc như đồng cỏ mùa xuân. Y mặc trang phục được làm từ cỏ, lá cây và vỏ cây - tất cả đều được khâu ráp tùy tiện lại với nhau bằng những sợi chỉ vàng. Y nghiêng nghiêng đầu ngắm nghía Annabella như một con chim nhỏ tò mò.
Tôi siết chặt cây rìu, nhưng đôi bàn tay ướt mồ hôi cứ trượt dọc theo cán rìu.
Annabella ngáp dài và vươn vai. Đôi mắt nó mở bừng. Nó trân trối nhìn gã tiên tí hon một lúc, rồi bỗng há hốc miệng và nhảy dựng lên. Gã tiên tí hon bay lùi lại một chút. Annabella nhìn quanh cái tổ, đôi mắt mở lớn đầy bỡ ngỡ.
“Anh Jack,” Annabella thì thầm. “Hẳn chúng ta đang ở trong một cung điện thần tiên!”
“Tiên tí hon,” tôi đáp. “Những người khổng lồ gọi chúng là tiên tí hon.”
“Tiên tí hon...,” Annabella lẩm bẩm, hiểu ngay ra vấn đề. “Bọn họ đẹp quá đúng không?”
Gã tiên tí hon tóc xanh lóe xóe một tràng và nhích thêm chút nữa về phía Annabella. Tôi giơ cao lưỡi rìu, sẵn sàng bổ xuống.
“Đừng, anh Jack! Dừng lại!”
Gã tiên tí hon rít lên với tôi, nhe ra hai hàm răng sắc nhọn óng ánh nọc độc.
“Bells, chúng ta cần rời khỏi đây, ngay bây giờ.”
Nhưng cơn tức giận của lũ tiên tí hon một lần nữa lại bị áp đảo bởi sự hứng thú của chúng đối với Annabella. Có điều gì đó ở con bé dường như rất thu hút chúng.
Gã tiên tí hon xanh lá tiếp cận nó.
“Eeks Saakt ist ooch kist,” gã tiên xanh lách chách.
Annabella cúi đầu. “Rất vinh dự được biết anh. Tôi là Annabella, còn đây là anh trai tôi, Jack.”
“Gượm đã, mày hiểu lời bọn chúng?”
Annabella nhìn tôi kinh ngạc. “Anh thì không ư?”
“Đương nhiên không! Chúng toàn phát ra những lời vô nghĩa.”
“Không vô nghĩa chút nào. Anh ấy nói tên anh ấy là Saakt. Anh ấy là Hoàng tử tiên tí hon, hoặc gì đó đại khái thế.”
Gã tiên tí hon làm một cử chỉ về phía tôi và lách chách thêm một tràng vô nghĩa. “Hech tistken urch wak gotter ost vutten skkkeeet!”
“Anh ta cũng nói rằng anh đã xâm phạm vào lãnh thổ của tiên tí hon, nên giờ anh mang nợ họ.”
“Một món nợ ư?”
“Uchsa Rast gold stiks twodx uuuurtttsss!”
“Họ có nguyện vọng được trao trả bằng vàng. Nếu anh không trả, sẽ bị trừng phạt - Em nghĩ anh ta vừa nói Cú Cắn... Ngứa Vĩnh Viễn?
Hay Cú Xoắn? Hay có khi anh ta bảo chân anh sẽ rời ra? Em không hiểu lắm.”
Tôi xoa xoa cẳng chân mình. “Thế mày thì sao?”
Con bé nhếch mép cười ngạo mạn. “Anh ta thích em. Em là khách mời danh dự, anh ấy nói thế.”
“Nhưng anh là anh trai mày mà! Mày không thể bảo chúng nó thích cả anh sao?”
“Họ không làm thế đâu.”
“Ý mày là gì? Mày mới trải qua hai phút với tiên tí hon mà đã dám chắc biết tất cả về bọn chúng? Anh đã được nghe kể về lũ quái vật này! Chúng rất xấu xa, kể cả với bọn khổng lồ!”
“Đừng có lố bịch! Bọn họ không hề xấu xa! Họ là những sinh vật đặc biệt nhạy cảm. Nhìn xem họ ngọt ngào chưa kìa.” Thêm hai gã tiên tí hon nữa từ trên trần nhà đáp xuống, chiêm chiếp trò chuyện với Annabella. Bọn chúng đô con và nom hoang dã hơn hẳn những con còn lại, với những đôi cánh bướm đêm cong queo chằng chịt sẹo, nom như thể từng bị tấn công bởi móng vuốt mèo hoặc thứ gì đó.
“Anh này tên là Eetsl, còn anh này tên Kazzi. Họ là vệ sĩ của Saakt, em nghĩ vậy.”
Tôi khịt mũi. “Mày nghĩ ư?”
Một gã tiên tí hon kéo một dải tóc rối bù của Annabella lên và nghiên cứu kỹ lưỡng. “Etek ist gold!”
Thêm nhiều tiên tí hon nữa bu lấy Annabella, nắm lấy những lọn tóc của nó và kéo ra mọi hướng. Annabella cười khúc khích. “Họ nghĩ tóc em trông như vàng.”
“Vậy ra bọn nó thích vàng, hử?”
“Họ yêu chúng. Em nghĩ vàng cung cấp cho họ một loại quyền năng nào đó, em không chắc là gì. Khả năng bay chăng? Này, có thể họ sẽ giúp chúng ta tìm được bố! Chẳng phải tuyệt vời lắm sao? Nếu chúng ta có những người bạn biết bay, chúng ta có thể tìm được bố dễ dàng hơn.”
“Không, Bells,” tôi nói. “Anh không nghĩ đó là một ý kiến hay đâu.” Tôi thật sự không muốn nhận sự giúp đỡ từ những sinh vật từng buông lời dọa dẫm sẽ khiến chân cẳng tôi đứt lìa.
“Đừng ngốc nghếch thế!” Con bé quay qua gã tiên tí hon chuồn-chuồn-xanh-lá. “Saakt, anh giúp chúng tôi được không? Chúng tôi đang cố tìm kiếm bố mình ở tòa lâu đài khổng lồ.”
Nghe thấy điều này, vô số tiên tí hon nhảy nhót và ré lên.
“Gold! Gold! GOLD! Gold! Gooooold!”
“Họ cứ ngân nga về vàng hết lần này qua lần khác,” Annabella phiên dịch.
“Ừ, tao hiểu lắm mà! Vàng là tất cả những gì bọn chúng quan tâm, mà tòa lâu đài thì có đầy rẫy. Đi thôi, Bells, chúng ta đang lãng phí nhiều thời gian quá rồi.”
“Không, gượm đã. Em nghĩ vẫn còn nữa.”
Gã tiên tí hon xanh lá đang ra dấu kịch liệt, đồng thời ré lên vừa nhanh vừa ầm ĩ đến mức tôi phát điếc cả tai.
“Hắn ta đang nói gì vậy?”
“Em không chắc lắm, nhưng anh ấy rất phấn khích. Anh ấy cứ nói đi nói lại điều gì đó về vàng, và rằng anh ấy sẽ mang chúng ta bay. Hoặc ít nhất là em.”
“Cái gì? Không, Bells. Chúng ta không thể tin chúng.”
“Nhưng anh Jack...”
“Không, không, không! KHÔNG! Anh vừa cứu mày khỏi tay một con cóc, và chúng ta chẳng còn nhiều thời gian mà lãng phí nữa đâu.” Tôi chụp lấy bàn tay Annabella và lôi nó về phía lỗ cửa. Gã tiên tí hon xanh lá lách chách thốt ra những mệnh lệnh giận dữ, và hai tay vệ sĩ của gã chặn đường tôi. Chúng xòe đôi cánh lởm chởm và gầm gừ, nhe ra hai hàm răng sắc như dao cạo.
“Họ nghĩ anh đang cố gắng bắt em,” Annabella nói.
“Con bé là em gái của tôi,” tôi nói, “và chúng tôi phải đi tìm bố.”
Hai tay vệ sĩ, Schnitzel và Catsy, hay cái quái gì cũng được, vẫn đứng lù lù chắn lối, rít lên như mấy con dơi.
“Jack, anh đang khiến họ nổi giận đấy... Anh sẽ không muốn làm thế đâu.”
“Chà, chúng đang khiến tao nổi giận thì có!” Tôi quay về phía gã hoàng tử tiên tí hon. “Tôi xin lỗi vì đã ngủ ở trong tổ của các người. Nếu anh bạn muốn biết, thì đó chính là ý của con bé, nhưng giờ thì chúng tôi muốn lên đường. Tôi xin lỗi vì không có vàng để trả cho anh. Trông có vẻ như ở đây anh cũng có đủ rồi. Chúc một ngày tốt lành.”
Nói đến đó, tôi nhảy xổ về phía trước, vung vẩy cây rìu như một gã điên, còn lũ tiên tí hon lại bắn vọt lên không trung.
“Jack! Anh đang làm gì thế?”
“Thoát khỏi chốn điên rồ này.”
“Jack, nếu anh cứ...”
“Bells, đi ngay!”
Tôi chộp lấy Annabella và đẩy con bé về phía lỗ cửa. Nó thét lên khi ngã lộn nhào ra khỏi cái tổ. Vài gã tiên tí hon bay sau con bé, nhưng lũ còn lại vây quanh tôi. Tôi vung vẩy lưỡi rìu, không cho chúng tới gần hơn. Gã tiên tí hon xanh lá gầm gừ và táp táp hàm răng nhọn, đôi mắt đen long lên đầy dã tâm.
Tôi mở đường máu nhảy khỏi cái tổ, nhưng lũ tiên tí hon chẳng mấy chốc đã tụ lại. Chúng bay lơ lửng phía trên, chọi đá vào người tôi. Tôi cần đất. Tom đã nói rằng đối với tiên tí hon, chỉ có duy nhất một cách phòng vệ thực sự. Tôi mò trên mặt đất đầy bùn và ném đất vào chúng. Chúng ré lên và bay vút đi, nhưng vài giây sau chúng lượn theo vòng tròn và triển khai một đợt ném bom bổ nhào. “Bells! Ném đất vào chúng đi!”, tôi gào lên.
“Tại sao?”
“Cứ làm đi!”
Tôi ném thêm một vốc đầy đất, nhưng một gã tiên tí hon đã tránh được và xô tôi ngã ngửa, khiến không khí bị ép hết khỏi phổi tôi. Y giật tóc và cào cấu vào mặt tôi, và cuối cùng tôi thấy một cảm giác buốt nhói ở chân.
Vậy ra chính là đây. Thời khắc của tôi đã cận kề, nhưng nó không đến bởi tay người khổng lồ mà từ một gã tiên tí hon với mái tóc hồng và đôi cánh bướm màu vàng.
Đất và đá cuội bỗng dưng trút xuống như mưa, khiến lũ tiên tí hon la thét và bay dạt ra. Thêm vô số đất đá nữa dội xuống tôi. Tôi cả gan hé nhìn qua hai cánh tay và thấy Annabella đang dốc hết sức bình sinh rung lắc một cành cây đầy bùn. Lũ tiên tí hon rút lui thành bầy, cho đến khi chúng chẳng còn gì khác hơn ngoài một đốm đen di động trên bầu trời xanh. Tôi ngồi dậy. Annabella chùi đôi bàn tay bê bết bùn vào chiếc tạp dề. Rồi nó quay qua tôi.
“Sao anh phải làm thế?” Con bé nạt.
“Không cần cảm ơn đâu. Chúng nó định cắn mày!”
“Không, bọn họ sẽ không làm thế! Họ chỉ tò mò thôi. Lẽ ra em đã có thể nhờ họ giúp đỡ chúng ta, nhưng anh cứ thích đóng vai anh hùng và tấn công họ cơ, nên giờ thì họ đi mất rồi.”
Tôi cảm nhận mặt mình nóng bừng lên. “Chà, nếu như mày không trèo lên cây đậu đó ngay từ đầu, thì tao đã chả bao giờ phải tới đây, và có khi còn tìm thấy bố rồi cũng nên.”
Mắt Annabella mở lớn. Nó bịt miệng như thể chuẩn bị khóc hoặc nôn ọe.
“Bells, anh xin lỗi, anh chỉ...” Tôi không cố tình làm con bé cảm thấy tổn thương đến thế.
Nhưng Annabella lắc đầu và trỏ. “Ôi, Jack, chân anh...” Nó nhăn mặt và nhắm nghiền mắt.
Tôi nhìn xuống và la lên. Chân trái tôi đã sưng phồng lên to gấp đôi so với chân phải. Nom nó giống như một gốc cây chứ không phải một cẳng chân nữa. Vết cắn của tiên tí hon. Trong cơn nhộn nhạo và giận dữ của mình với Annabella, tôi đã quên béng mất nó, nhưng giờ sau khi đã nhận ra, bộ não tôi ghi nhận một cơn đau nhức nhối truyền từ hông xuống đầu ngón chân. Bàn chân tôi đang sưng tấy lên rất nhanh, kéo giãn căng lớp da giày. Tôi lồm cồm tháo giày ra và quan sát bàn chân mình tròn xoe như một quả bóng với năm cục u gắn ở chóp.
Ngực tôi thắt lại, hơi thở trở nên gấp gáp. Liệu chân tôi có rời ra không? Tôi có bị nổ tung không?
Annabella nhìn quanh, rồi nó chạy về phía sau tôi, biến mất trong tầm mắt.
“Mày đi đâu thế? Đừng bỏ anh lại!” Nhưng vài giây sau nó quay trở lại, bàn tay vốc đầy bùn đen ngòm, nhầy nhụa. Nó bốc mùi như khoai tây ủng.
“Vết cắn ở đâu, anh Jack?”
Chân tôi đã sưng to đến mức cái ống quần rách toạc, vì vậy tôi xé cho nó rách nốt, để lộ vết cắn ngay bên trên đầu gối. Bản thân nó thì chỉ như một vết xước da, nhưng cả khu vực đã sưng tấy và đỏ ối lên. Annabella đắp một vốc bùn lên vết thương. Lúc đầu rất buốt, nhưng rồi cảm giác trơn mượt mát lạnh thấm sâu vào vết cắt và cơn đau dịu đi. Annabella xé một dải vải khỏi chiếc quần rách của tôi và buộc nó quanh ống chân, giữ cố định đám bùn.
“Phải mất nhiều giờ chỗ sưng tấy mới xẹp đi được,” con bé nói. “Nhưng chúng ta không thể ở lại đây. Đám tiên tí hon có thể quay lại và thanh toán anh. Bọn họ không phải là những sinh vật giàu lòng vị tha đâu.” Nó nói như thể vẫn tiếp xúc với lũ tiên tí hon hằng ngày. “Anh có di chuyển được không?”
Tôi cố gắng nhấc mình lên khỏi mặt đất, nhưng gần như không thể cảm nhận cái chân mình nữa. Nếu tôi phải sử dụng một cái chân gỗ giống ông thợ hàn nồi Jaber thì sao? “Anh không co chân lại được,” tôi nói.
“Anh phải cố lên,” Annabella nói. Nó vòng ra sau lưng tôi và dùng hai cánh tay xốc nách tôi. “Em sẽ nâng anh đứng lên, rồi anh vòng tay phải quanh cổ em nhé.”
“Bells, mày không đủ khỏe đâu,” tôi nói. “Anh quá to đối với mày.”
“Tào lao,” Annabella nói, nghe giống mẹ một cách kỳ lạ. “Anh có thể cao, nhưng cũng chỉ gầy nhẳng như em thôi. Nào, đếm đến ba. Một, hai, ba.” Annabella vừa lôi vừa kéo. Tôi cố gắng nâng mình lên nhưng lại ngã xuống gần như ngay lập tức, lôi theo cả Annabella.
“Anh đã bảo là anh không thể co chân mà.”
“Không phải chân trái, anh vẫn có thể gập chân phải cơ mà, đồ ngốc ạ. Sao anh cứ duỗi nó thẳng đơ thế?”
“Ồ.” Tôi quên béng mất là chân phải mình vẫn có thể hoạt động. Tôi co đầu gối, và Annabella lại đứng đằng sau tôi lần nữa. “Cố gắng lại nhé. Đếm đến ba, dồn sức vào cái chân lành và bám vào em. Một, hai, ba.” Con bé lại lôi và kéo, còn tôi chống lên cái chân phải và rú lên trước cơn đau lan dọc theo chân trái, nhưng tôi đã đứng lên được và quàng cánh tay qua vai Annabella. Con bé hơi lảo đảo trước sức nặng của tôi nhưng đứng vững lại được. Tôi cố đi cà thọt, kéo lê cái cẳng- chân-gốc-cây đằng sau mình. Mỗi bước chân là một cơn đau dữ dội. Tôi bắt đầu toát mồ hôi và thở hồng hộc mặc dù hai anh em di chuyển chậm như sên.
“Anh không đi xa thêm được nữa đâu,” tôi rên rỉ.
“Cố đi tới bụi cây đằng kia đã. Chúng có lá để che phủ cho chúng mình. Chúng mình sẽ được an toàn hơn.”
Bụi cây mà con bé đang nhắc tới là một cụm cây thì đúng hơn, và nó cách xa hàng dặm. Chỉ nhìn nó tôi cũng đủ chóng mặt, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục bước thấp bước cao tiến lên phía trước, mỗi lần bước là một lần hành xác. Annabella bắt đầu sụm xuống dưới sức nặng của tôi, nhưng nó vẫn ráng hết sức và kéo tôi đi theo, như nó vẫn kéo lê những đống cỏ khô trong suốt cuộc đời mình.
Cơn đau nơi chân trái của tôi tăng lên gấp bội, và nửa bên phải cũng ê ẩm do nỗ lực gánh hết trọng lượng của cả hai bên. “Bells, anh không đi được nữa đâu.”
“Chúng ta gần tới nơi rồi.” Annabella vừa dồn sức vừa rên rỉ khi chúng tôi cố gắng tiến lên phía trước. “Gần... đến... rồi!”
Tôi cố gắng huy động từng giọt sức lực cuối cùng. Đám cây đã ở gần lắm rồi, nhưng càng lúc chúng càng nghiêng sang một bên.
“Anh Jack, đừng bỏ cuộc! Chỉ còn vài bước chân nữa thôi!” Annabella dựng tôi dậy, và những thân cây đứng thẳng trở lại.
“Gần... đến... rồi! Giờ thì đã đến!” Annabella thở hổn hển. “Chúng ta đã làm được!”
“Làm được,” tôi lẩm bẩm. Hàng cây hoàn toàn lộn ngược khi tôi ngã thẳng cẳng xuống mặt đất. Tôi nghe thấy Annabella gọi tên mình, nhưng âm thanh nghe rất nhỏ và xa xôi, rồi nó hoàn toàn biến mất.
o O o
Khi tôi tỉnh dậy, trời vẫn sáng rõ. Chân tôi vẫn sưng vù và buốt nhói như hàng ngàn vết ong đốt, nhưng giờ tôi đã có thể co duỗi nó nhẹ nhàng. Tôi tóm lấy một cành cây và kéo người lên. Mọi vật mờ nhòa và quay cuồng, khiến tôi phải ngồi phịch xuống trở lại.
Annabella đâu rồi! Tôi nhìn khắp nơi không thấy nó. Tim tôi bắt đầu đập dồn trong lồng ngực. Lẽ ra tôi không nên ngủ thiếp đi! Lũ tiên tí hon có thể đã bắt nó. “Bells?”, tôi gọi.
Thứ gì đó kêu sột soạt trên những cành cây, và tôi cúi khom người lại, sợ hãi một cuộc oanh kích mới của tiên tí hon. Giờ thì tôi đã hiểu lý do Bruno sợ bọn chúng đến vậy.
“Anh tỉnh dậy rồi!” Annabella ríu rít. Con bé trèo xuống từ chỗ ngồi của mình. Lá giắt vào lưng nó, cái váy thì tả tơi và bê bết bùn. Nó đi chân trần, còn mái tóc thì rối như tổ quạ đến mức trông nó đủ hoang dại để trở thành một ả tiên tí hon. Nó đang cầm trong tay một sợi dây thừng bện từ những sợi cỏ khô khổng lồ màu nâu.
“Cái đó để làm gì?”
“Ồ. Lúc anh ngủ em thấy chán quá. Em nghĩ nó có thể sử dụng để làm gì đó. Em cũng không biết nữa.” Con bé cuộn sợi dây lại, lẳng nó qua vai và nhìn xuống đôi bàn chân.
“Em đánh rơi mất đôi giày trong ao,” nó vừa nói vừa ngọ nguậy mấy ngón chân. “Nhưng em thích thế này hơn.”
Chân trái tôi cũng đã văng mất giày. Vết sưng đã xẹp dần, do đó thay vì một quả bóng, giờ nó nom giống như một ổ bánh mì tròn đang nở. Tôi sút nốt chiếc giày còn lại. Giờ cả hai đứa tôi đều chân đất, rách rưới và bẩn thỉu.
Tôi ngước lên nhìn trời. Mặt trời đang ở giữa đỉnh đầu.
“Anh ngủ bao lâu rồi?”
“Một giờ, có thể là hai.”
Dạ dày tôi réo ùng ục. Tôi đã không có gì bỏ bụng trong suốt một ngày qua.
“Em cũng đói,” Annabella nói. “Nhưng em chờ anh tỉnh rồi mới ăn.”
“Đồ ngớ ngẩn,” tôi làu bàu. “Đang có nạn đói, nhớ chưa? Chúng ta sẽ phải xoay xở mà không có thức ăn cho đến lúc tới được lâu đài.”
“Phải có loại thức ăn nào đó chứ. Thế các loài muông thú ăn gì?”
“Giun dế, ruồi muỗi, sâu bọ... bọn con gái nhỏ.”
Annabella thở dài. “Thật đáng tiếc. Em vẫn hy vọng vết cắn của tiên tí hon có thể tống khứ khỏi anh một số quan điểm lệch lạc cơ đấy. Đây!” Annabella móc một hạt đậu khổng lồ khỏi tạp dề.
“Í ẹ! Anh không muốn ăn đậu!”
“Vậy thì em đồ rằng em có thể kiếm cho anh một con giun. Hay anh nói thích ăn bọ cánh cứng hơn nhỉ?”
“Ha, ha,” tôi đáp. “Anh sẽ chờ. Trong tòa lâu đài có rất nhiều thức ăn ngon.”
“Jack, anh đang bị thương và đói lả. Ăn đi.” Con bé huơ huơ hạt đậu trước mặt tôi. Nó đã trương phềnh lên vì bị ngâm trong nước đầm lầy hôi thối. Tôi nhắm nghiền mắt và nhăn nhó, nhưng cái dạ dày vẫn không ngừng gào thét với tôi, nên tôi đón lấy hạt đậu và gặm nó. Ặc! Như thể đậu thôi vẫn chưa đủ tệ, cái hạt này còn được nêm thêm vị cóc và đầm lầy. Tôi cố nuốt trôi vài miếng, vừa đủ để đẩy lùi cơn đói cồn cào.
“Đi thôi,” tôi nói.
“Jack, chân anh...”
“Anh ổn,” tôi bẻ một cành cây dài và sử dụng nó như cây nạng, kéo lê cái chân bị thương trên mặt đất đầy bùn. Mỗi bước lại gây đau đớn tựa hồ một nhát rìu bổ thẳng vào chân, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục đi.
Chúng tôi di chuyển lên phía trước, trượt ngã trên bùn trơn nhẫy và vấp dúi dụi trên các cành gãy và lá mục.
“Vậy nạn đói...,” Annabella nói. “Đó chính là lý do những người khổng lồ cướp đi mùa màng của chúng ta?”
Tôi gật đầu. “Tom nói đó là một lời nguyền.”
“Tom là ai?”
“Một thằng bé sống trong nhà bếp lâu đài. Nó rất vui tính, nhưng khi cần lại chẳng giúp đỡ được gì.”
“Giống anh thật đấy nhỉ?” Annabella nói với một nụ cười mỉa mai.
Tôi ném phần còn lại của hạt đậu vào đầu con bé. “Dù sao thì, nó nói rằng đất đai của người khổng lồ đang phải gánh chịu một loại lời nguyền, và đó chính là nguyên nhân của nạn đói.”
“Một lời nguyền,” Annabella trầm ngâm. “Chà, chúng ta sẽ phải hóa giải nó,” nghe đơn giản như thể dùng hai ngón tay mà bẻ gãy một cành cây vậy.
Tôi thuật lại cho Annabella toàn bộ cuộc phiêu lưu của mình, từ việc bị săn đuổi bởi một con mèo, ngã vào chiếc bánh pút-đinh đến vụ tẩu thoát trong một chiếc giày. Con bé cười khúc khích, há hốc miệng và la lên ở những tình huống nhất định, khiến tôi thấy mình giống hệt như bố, đang kể lại những câu chuyện về cụ tổ Jack. Khác biệt duy nhất là tính đến thời điểm này, có lẽ cụ tổ Jack đã chinh phục được dăm gã khổng lồ, còn tôi thậm chí còn chưa bắt đầu. Tôi mới chỉ xoay xở đủ để không bị giết và việc này chẳng hề dễ dàng chút nào.
“Tên lão ta là Vua Barf ư?!” Annabella cười ngặt nghẽo khi tôi kể cho nó về Đức vua khổng lồ.
“Lão ta có rất nhiều vàng. Hàng đại dương vàng. Và một con gà cưng có thể đẻ ra những quả trứng vàng bất cứ khi nào lão ta muốn.”
“Vàng thật á?”
“Ừ. Tất cả những gì Đức vua cần chỉ là hô lên ‘Đẻ!’ và con gà sẽ đẻ ra một quả trứng vàng to như cái thùng ton-nô!”
“Thật nực cười nhỉ.”
“Cái gì nực cười?”
“Ồ, có vẻ như trong một nạn đói, những quả trứng bình thường sẽ phục vụ cho nhà vua tốt hơn.”
“Nhưng vàng có thể mua được rất nhiều thức ăn chứ,” tôi cãi.
“Mua được cái gì nếu như không có gì để bán? Mua được cái gì nếu như chẳng có gì mọc nổi?”
Tôi toan há miệng phản đối nhưng rồi lại ngậm miệng. Những gì Annabella vừa nói thật giản đơn và chính xác. Khi nhìn thấy vàng của Đức vua, tôi từng cho rằng lão có thể mua bất cứ thứ gì lão muốn, nhưng bạn không thể mua được lương thực nếu như nó không có ở đó. Bạn không thể mua được lương thực nếu như nó không thể gieo trồng được. Đó chính là lý do bọn họ trộm cướp lương thực của chúng tôi. Nhưng chúng tôi biết làm gì với nó đây? Nếu như có một lời nguyền trên mảnh đất này, làm thế nào để gỡ bỏ?
Chân tôi lại đau nhức dữ dội. Tôi hụt hơi và vã mồ hôi.
“Có lẽ chúng ta nên tạm dừng và tiếp tục nghỉ ngơi,” Annabella nói.
“Không. Hai đứa mình đã lãng phí quá nhiều thời gian rồi.” Đường đi vẫn còn xa tít tắp. Chúng tôi thậm chí còn chưa đi được nửa đường lên tới đỉnh đồi, và tôi không thể nào ngừng hình dung đến những điều xấu có thể xảy đến với bố từ khi ông rời đi trong chiếc giày của Đức vua.
Tôi nghiến răng và dấn bước. Annabella tự giải khuây bằng cách chạy vượt lên trước và trèo lên những cái cuống úa vàng của mấy bông hoa chết héo trong lúc tôi khập khiễng cố bắt kịp. Nó ngồi trên đỉnh cuống hoa, điều chỉnh xống váy sao cho nom nó y hệt như một bông hoa vậy.
“Thật là một mảnh đất cằn cỗi,” con bé tuyên bố. “Không chỉ có cây lương thực mà tất cả mọi thứ đã ngừng sinh sôi. Cây cỏ, thậm chí cả hoa lá. Quả là một nạn đói kinh khủng nếu như cả hoa cũng không mọc được. Anh nghĩ có gì bất ổn với nơi này?”
“Anh bảo mày rồi. Có một lời nguyền.”
“Nhưng lời nguyền kiểu gì kia chứ?”
“Có lẽ là lời nguyền tiên tí hon,” tôi đáp. “Có thể chúng đang hủy hoại toàn bộ mùa màng bằng những tiếng rú rít và răng nanh có độc của chúng.”
“Đừng có xấu tính thế, anh Jack. Em chắc chắn không phải do tiên tí hon.”
Một làn gió hiu hiu thổi tới, và Annabella đung đưa trên cái cuống hoa của nó. Lá khô bị cuốn theo cơn gió và reo xào xạc xung quanh, khiến tôi không nghe thấy tiếng người đi tới. Tôi không nghe thấy bất kỳ tiếng bước chân nào cho tới khi một bàn chân khổng lồ nện xuống, ngay trước mặt tôi. Nó đi một chiếc giày nom rất quen, mới được vá lành và đánh xi lại từ tiệm sửa giày.
Bà Martha! Ồ, thật may mắn làm sao! Tôi sẽ được trở lại nhà bếp trong nháy mắt! Nhưng hôm nay vận may không đứng về phe tôi. Tôi quên béng mất cái cẳng-chân-gốc-cây của mình và ngã sấp mặt khi cố gắng tiến thêm một bước. Nhưng bà Martha đã nhìn thấy Annabella.
“Ôi, một bông hoa!” Bà Martha trầm trồ. “Đã nhiều năm rồi ta chưa từng nhìn thấy bông mao lương nào. Mong rằng đây là một điềm lành.” Bà cúi xuống thật thấp để hít ngửi bông hoa, trên thực tế chính là Annabella. “Ôi! Trời đất ơi, cái gì đây?” Tôi vùi đầu vào hai lòng bàn tay khi bà Martha ngắt bông “hoa” và nâng nó lên. Bà ré lên vui mừng. “Một người tí hon! Một cô bé xinh đẹp! Ôi, ta đã ước ao có một cô con gái nhỏ biết chừng nào, và giờ con đã tới, sinh ra ngay từ một bông hoa. Thật đúng là điềm lành mà!”
Annabella la lên khi bà Martha bắt đầu bước đi.
“Bà Martha, đợi đã!” Tôi gọi với theo. “Là con, Jack... Ý con là Tim đây! Đợi con với!” Nhưng giọng nói của tôi chìm nghỉm trong cơn gió, và chẳng mấy chốc tôi không còn thấy tăm hơi họ đâu nữa.