Số lần đọc/download: 0 / 53
Cập nhật: 2021-05-22 19:07:47 +0700
Chương 16 - Briant Lo Lắng Về Jacques - Dựng Hàng Rào Và Làm Sân Nuôi Gia Cầm - Đường Của Cây Phong - Diệt Cáo - Quay Lại Vũng Sloughi - Chiếc Xe Kéo - Săn Hải Cẩu - Mừng Giáng Sinh - Hoan Hô Briant
M
ấy ngày Gordon đi vắng, mọi việc ở động Người Pháp đều tốt đẹp. Trại trưởng chỉ còn biết khen ngợi Briant mà thôi. Các em bé thì thật lòng quý mến cậu. Giá không kiêu kì và đố kị thì ngay Doniphan cũng phải tán thưởng những đức tính tốt của bạn, và như thế mới công bằng. Nhưng sự thể không như vậy. Do chịu ảnh hưởng của Doniphan nên Wilcox, Webb và Cross đều về hùa với cậu này mỗi khi đối đầu với chàng trai người Pháp vốn có cách xử sự và tính nết khác các bạn người Anh.
Briant chẳng để ý đến chuyện đó. Cậu làm những gì cậu cho là bổn phận của mình, ai nghĩ gì cũng mặc. Điều cậu bận tâm nhất hiện nay là thái độ không thể hiểu nổi của em trai.
Mới đây, Briant đã ép buộc Jacques nói ra, nhưng vẫn chẳng có gì khác câu trả lời:
- Không!… Anh ạ, em không sao!
- Tại sao em không muốn nói ra, Jacques? - Cậu hỏi em. - Em lầm đấy! Nói ra được thì em sẽ thấy nhẹ nhõm hơn, mà anh cũng vậy… Anh thấy càng ngày em càng ủ rũ. Em nghĩ xem!… Anh là anh của em. Anh có quyền được biết vì sao em rầu rĩ… Em tự trách mình về điều gì đó phải không?
- Anh! - Cuối cùng Jacques thốt ra như thể không cưỡng nổi nỗi hối hận thầm kín. - Em đã làm gì ư? Anh thì có thể… sẽ tha thứ… còn những người khác…
- Những người khác? Những người khác? - Briant bật kêu lên. - Em muốn nói gì vậy, Jacques?
Cậu bé giàn giụa nước mắt, nhưng mặc dầu người anh nài nỉ thế nào cũng chỉ nói thêm:
- Sau này anh sẽ biết… sau này…
Câu trả lời ấy càng khiến Briant lo lắng. Trước đây, Jacques đã phạm lỗi gì nghiêm trọng đến thế? Cậu muốn biết điều đó bằng mọi giá. Vì vậy, Gordon vừa trở về, cậu đã kể lại lời thú nhận nửa vời của chú em, thậm chí nhờ Gordon tác động thêm. Cậu này khôn ngoan nói:
- Chẳng ăn thua đâu! Tốt hơn hết là để Jacques tự hành động. Còn như chú ta đã làm gì, rất có thể chỉ là một lỗi nhỏ gì đó rồi quan trọng hóa lên thôi. Ta hãy để chú ấy tự giải quyết lấy.
Hôm sau, ngày 9 tháng 11, các trại viên tiếp tục lao động. Việc thì chẳng thiếu. Trước hết là phải đáp ứng yêu cầu chính đáng của Moko: thức ăn của nhà bếp bắt đầu vơi, mặc dầu các dò bẫy đặt ở vùng phụ cận động Người Pháp vẫn hoạt động bình thường. Thật ra, có vơi là vơi các con thịt lớn thôi. Do đó phải đặt những bẫy lớn, chắc chắn có thể bắt được vicuña, pécari… mà không tốn đạn dược chút nào. Vậy là tháng 11, tương đương tháng 5 ở Bắc bán cầu, được các trại viên sử dụng cho việc này.
Về tới động Người Pháp, con guanaco và ba mẹ con con vicuña được bố trí tạm dưới những gốc cây gần động nhất, buộc bằng những sợi thừng dài để có thể đi lại trong một bán kính nhất định. Lúc này, ban ngày dài hơn ban đêm thì như thế cũng được. Nhưng trước khi mùa đông tới thì phải làm chỗ ở tử tế cho chúng. Vì vậy, Gordon quyết định chọn một khu đất dưới chân đồi Auckland về phía hồ, cách cửa ra vào sảnh hơi xa một chút, quây lại bằng một hàng rào cao và làm chuồng trong đó.
Cả trại vào việc và một công trường thực sự được tổ chức dưới sự điều khiển của Baxter. Thật vui mắt khi được thấy các cậu bé siêng năng sử dụng ít nhiều thành thạo đồ nghề trong hòm đồ nghề thợ mộc của du thuyền. Người thì cưa, người thì đục, người thì đẽo bằng rìu, dù đôi khi cũng làm hỏng, nhưng không nản chí. Họ hạ sát gốc những cây to vừa phải, chặt hết cành đủ để rào khu đất rộng làm bãi chăn nuôi đủ cho mười hai con vật sống thoải mái. Các thân cây được chôn chặt xuống đất rồi dùng những thanh ngang nẹp khít nhau, ngăn được bất kì con thú dữ hoặc con vật có hại nào xô đổ hoặc vượt qua. Còn chuồng thì các cậu lấy ván vỏ tàu để làm, đỡ phải xẻ gỗ, một việc khó thực hiện trong hoàn cảnh hiện tại. Mái chuồng được che bằng bạt dày quét hắc ín, chống được gió bão. Nền chuồng được rải cỏ dày, thay luôn. Cỏ tươi, lá cây, rêu để làm thức ăn cho các con thú được lấy về dồi dào. Chỉ cần thế thôi là đảm bảo cho súc vật khỏe mạnh và sinh sôi. Garnett và Service đặc trách nơi này, nhanh chóng được đền công xứng đáng: con vicuña và con guanaco ngày càng thuần. Thêm nữa, chẳng bao lâu trại chăn nuôi được tiếp nhận thêm dân cư mới: một con guanaco thứ hai sa bẫy và một đôi vợ chồng vicuña do Baxter với sự cộng tác của Wilcox, lúc này cũng sử dụng bola thành thạo, bắt được. Lại thêm cả một con nandu do Phann rượt đuổi được. Nhưng cũng như con trước, mặc dầu Service đã cố gắng hết sức vẫn không thuần hóa được.
Chẳng cần nói cũng biết là khi chưa làm xong chuồng thì phải cho guanaco và vicuña vào kho. Tiếng chó rừng sủa, tiếng cáo rít, tiếng thú dữ gầm rú sát ngay bên cạnh động Người Pháp khiến các cậu không thể để chúng ở bên ngoài.
Trong khi Garnett và Service chăn nuôi súc vật thì Wilcox và mấy cậu nữa vẫn tiếp tục làm bẫy, đặt dò và đi thăm hằng ngày. Có cả việc cho hai chú Iverson và Jenkins. Những con ô tác, con trĩ, gà sao, tinamou cần có sân nuôi riêng, được Gordon bố trí ở một góc trại. Hai chú bé được giao chăm nom sân nuôi đàn chim chóc này và tỏ ra rất chịu khó. Từ nay, ngoài sữa vicuña, Moko còn có cả trứng, đủ điều kiện làm bánh ngọt, tráng miệng tùy thích. Tuy nhiên Gordon đã chỉ thị phải tiết kiệm đường. Vì thế chỉ đến chủ nhật và vài ngày lễ trên bàn mới có đĩa bánh để cho Dole và Costar ăn lấy ăn để.
Tuy nhiên nếu không làm ra đường được thì liệu có tìm ra thứ gì thay thế không? Trong tay có các truyện Robinson, Service khăng khăng cho rằng khắc tìm, khắc thấy. Vậy là Gordon đã tìm, và cuối cùng đã phát hiện ra giữa những lùm cây của rừng Hố Bẫy có một khóm cây to, ba tháng nữa, tức những ngày đầu thu thì vòm lá xanh bây giờ sẽ chuyển sang màu đỏ tía rực rỡ, cậu bảo:
- Đây là cây phong, cây cho đường.
- Cây đường! - Costar reo.
- Không phải! Rõ đồ tham ăn! Anh nói là cây cho đường kia mà! Đừng nói bừa nhé!
Từ khi định cư ở động Người Pháp, đây là một trong những phát hiện quan trọng nhất của các nhà di thực trẻ. Rạch một nhát vào thân cây phong, nhựa sẽ chảy ra. Để nhựa ấy đông đặc lại, sẽ được một chất ngọt. Dù chất lượng kém mía hay củ cải đường, nhựa cây phong cũng rất quý cho nhu cầu ăn uống và còn tốt hơn nhựa cây bạch dương vào mùa xuân. Có đường thì sẽ có rượu hoa quả. Theo hướng dẫn của Gordon, Moko giã nát các quả trulca và algarrobe, cho lên men làm rượu hoa quả, nhờ có đường cây phong. Còn lá “chè” pernettya thì cũng thơm gần như chè Trung Quốc, nên mỗi lần đi rừng, các nhà khảo sát đều hái về thật nhiều.
Tóm lại, nếu đảo Chairman chưa cung cấp được dư dả thì ít ra cũng đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho đám cư dân này. Cái còn thiếu - và cũng đáng tiếc - là rau tươi, cho nên phải sử dụng rau đóng hộp. Khoản này còn độ hơn một trăm hộp nên Gordon dè sẻn hết mức. Briant đã thử gây lại giống khoai từ mà nạn nhân người Pháp đã trồng, lâu ngày trở thành hoang dại, nhưng phí công vô ích. May sao còn có cần tây mọc đầy bờ hồ Gia Đình - chắc ta chưa quên thứ rau này - và vì không phải dè sẻn nên dùng thay rau xanh cũng tốt chán.
Lẽ tự nhiên là những tấm lưới hồi mùa đông chăng ở bờ lạch nay thời tiết tốt lại trở thành lưới săn. Nhờ có nó các cậu bắt được nhiều loại chim, trong đó có những con trĩ nhỏ và những con ngỗng có lẽ đến từ những vùng đất nào đó ngoài khơi bay vào.
Về phần Doniphan cậu rất muốn thám hiểm vùng truông phía Nam mênh mông phía bên kia lạch Zealand. Nhưng liều lĩnh xông vào cái đầm lầy đầy cả nước hồ lẫn nước biển trong mùa lụt là rất nguy hiểm.
Wilcox và Webb còn bắt được một số con agouti, to như thỏ rừng, thịt trắng, hơi khô, nửa như thịt thỏ, nửa như thịt lợn. Đuổi bắt loài gặm nhấm rất nhanh này là quá khó, dù có Phann giúp sức. Nhưng nó ở trong hang thì chỉ cần huýt sáo nhè nhẹ để nó thò đầu ra là chộp được ngay. Nhiều lần các thợ săn còn mang về những con chồn gulô, chồn hôi lông đen có sọc trắng rất đẹp nhưng bốc mùi hôi hám nồng nặc.
- Sao chúng lại chịu được cái mùi như thế nhỉ? - Có hôm Iverson hỏi.
- À! Vấn đề là quen đi thôi. - Service trả lời.
Con lạch cung cấp những loài cá nhỏ, còn hồ thì có cá to, trong đó có cá hồi nước ngọt, nấu chín vẫn có vị mằn mặn. Còn một nguồn lợi nữa là ở vũng Sloughi, trong đám rong rêu và tảo nâu có cơ man là cá tuyết và đến mùa cá hồi từ biển ngược theo lạch Zealand vào hồ Gia Đình thì Moko sẽ có dư dả loại cá ấy, đem muối để dành làm món ăn rất quý cho mùa đông. Cũng vào mùa này, theo yêu cầu của Gordon, Baxter dùng cành cây tần bì rất dẻo làm cánh cung, những đoạn thân sậy, một đầu cắm đinh làm tên để Wilcox và Cross, hai người bắn giỏi sau Doniphan, hạ những con mồi nhỏ.
Dù Gordon luôn luôn phản đối việc tiêu thụ đạn dược, nhưng trước một tình thế không thể đừng được, cậu phải tạm gác thói quen dè sẻn lại.
Hôm ấy, tức ngày 7 tháng 12, Doniphan kéo cậu ra nói riêng:
- Gordon này, chó rừng và cáo quấy phá dữ quá. Đêm nào chúng cũng kéo hàng đàn đến phá dò bẫy của chúng ta, cướp những con vật đã mắc bẫy. Phải chấm dứt ngay chuyện này!
Thừa biết bạn muốn dẫn mình tới đâu, Gordon nêu ý kiến:
- Có thể đặt bẫy không?
- Bẫy à? - Chưa hết coi rẻ các dụng cụ săn bắt tầm thường, Doniphan đáp - Bẫy à? Bọn chó rừng ngu ngốc thì đôi khi còn mắc đấy. Nhưng lũ cáo thì khác, chúng quá ranh mãnh, Wilcox đã thận trọng hết mức mà chúng vẫn ngờ vực. Một đêm nào đó, trại chăn nuôi của chúng ta sẽ bị tàn phá và mất hết gia cầm.
- Thôi được! Nếu cần đến thế thì mình đồng ý xuất vài tá đạn, - Gordon trả lời - cần nhất là phải bắn cho trúng.
- Hay lắm, Gordon! Cậu cứ tin tưởng ở bọn mình. Tối mai sẽ tổ chức phục kích đàn cáo trên đường qua lại của chúng. Bọn mình sẽ tiêu diệt đến mức còn lâu mới thấy chúng xuất hiện.
Việc diệt cáo quả thật là cần kíp. Cáo Nam Mỹ dường như khôn ngoan hơn đồng loại ở châu Âu. Chúng không ngừng tàn phá vùng kế cận các trang trại. Chúng tinh ma đến mức cắn đứt dây da buộc ngựa hay các súc vật khác ở ngoài đồng cỏ.
Đêm ấy, Doniphan, Briant, Wilcox, Baxter, Webb, Cross, Service ra nấp sẵn ở rìa một trảng cỏ có những bụi cây lúp xúp giáp với rừng Hố Bẫy về phía hồ. Phann không được đi vì có thể làm lũ cáo cảnh giác và bởi cũng không cần đánh hơi tìm con mồi. Thêm nữa, ngay cả khi chạy nhanh, cáo cũng không để hơi lại, hoặc là có hơi nhưng nhạt đến mức những chú chó tinh mũi nhất cũng không phân biệt được.
11 giờ đêm, Doniphan và các bạn đã ẩn nấp giữa các bụi thạch nam ở rìa trảng cỏ. Đêm tối đen, im lặng như tờ, không có một chút xao động vì gió rất nhẹ, cho phép nghe tiếng lướt trên cỏ khô của bầy cáo. Quá nửa đêm, Doniphan báo hiệu một đàn cáo đang qua trảng để xuống hồ uống nước. Các tay súng nóng ruột chờ cho bầy cáo khoảng hai mươi con tụ lại. Khá mất thời gian vì dường như chúng linh cảm bị phục kích nên đi rất dè dặt. Đột nhiên, theo lệnh Doniphan, nhiều tiếng súng nổ ran và đều trúng đích. Năm, sáu con cáo lăn ra đất. Các con khác cuống cuồng chạy tán loạn, nhiều con bị đập chết.
Sáng ra, thấy mười con vật ấy nằm trên các bụi cỏ. Cuộc diệt cáo diễn ra ba đêm liên tiếp. Trại di thực đã thanh toán được những cuộc viếng thăm nguy hại cho khu chăn nuôi. Ngoài ra họ còn sở hữu khoảng năm mươi bộ da đẹp màu xám bạc, làm thảm hay may áo cũng là tăng thêm tiện nghi cho động Người Pháp.
Ngày 15 tháng 12, cuộc xuất quân lớn tới vũng Sloughi bắt đầu. Thời tiết tuyệt đẹp. Gordon quyết định mọi người đều tham gia, khiến các chú bé mừng rơn. Ra đi từ sáng sớm thì rất có thể trở về trước khi trời tối, mà có chậm trễ thì hạ trại dưới tán cây cũng chẳng hề gì. Mục tiêu chính của cuộc dã ngoại này là săn hải cẩu thường đến bãi biển Mắc Cạn vào mùa rét. Những buổi tối và đêm đông dài dằng dặc phải sử dụng nhiều ánh sáng đã khiến lượng dầu thắp đèn gần cạn. Nến do nạn nhân người Pháp làm cũng chỉ còn khoảng vài ba tá. Điều đó khiến con người lo xa Gordon hết sức bận tâm. Vì cuộc xuất quân lần này rất quan trọng nên đã được chuẩn bị chu đáo để đạt kết quả tốt và cũng phải tiến hành gấp rút vì chẳng mấy nữa là lũ hải cẩu sẽ tìm về những vùng biển gần Nam cực.
Ít lâu nay, Service và Garnett đã rèn được hai con guanaco thành vật kéo xe. Baxter đã làm cho mỗi con vật một vòng cổ bằng vải buồm dày nhồi cỏ khô. Nếu chúng chưa cho cưỡi thì ít ra cũng có thể kéo xe. Như thế hay hơn là con người phải tự kéo. Hôm ấy trên xe xếp nào là đạn dược, nào là thức ăn và nhiều đồ dùng khác, trong đó có một chậu kim loại lớn và sáu thùng rỗng để chứa dầu hải cẩu lúc trở về. Đúng thế, xả thịt những con vật săn được tại chỗ tốt hơn là đưa chúng về động Người Pháp làm ô nhiễm không khí vì những mùi xú uế.
Ra đi từ lúc mặt trời mọc, hành trình trong hai giờ đầu không khó khăn gì. Xe không đi nhanh được là do bờ bên phải con lạch gập ghềnh. Nhưng khi phải vòng tránh rừng Vũng Lầy thì khá vất vả vì phải len lỏi giữa rừng cây. Những đôi chân bé bỏng của Dole và Costar thấy rõ điều đó ngay. Vì thế theo đề nghị của Briant, Gordon cho các chú nhóc lên xe nghỉ chân. Khoảng 8 giờ sáng, khi xe đang nhọc nhằn lăn bánh trên đoạn cuối của bờ vũng lầy thì nghe tiếng Cross và Webb, đang đi trước một quãng, kêu to. Đầu tiên là Doniphan, theo sau là những người khác chạy lên.
Giữa bùn lầy của rừng Vũng Lầy, cách bờ khoảng trăm bước chân, một con vật đồ sộ đang đầm mình. Chàng thợ săn nhận ra ngay. Đó là một con hà mã béo núc, đỏ hồng. May cho con vật là nó đã vội vàng trốn biệt vào những đám cây lá rậm rạp của đầm lầy trước khi có thể bị ăn đạn. Kể ra cũng chẳng cần phải thế, bắn phí đạn thì bắn làm gì!
- Con vật to đùng ấy là con gì hả các anh? - Dole hỏi, khá lo ngại dù mới chỉ nhác thấy con vật.
- Là con hà mã! - Gordon trả lời.
- Hà mã, tên gì mà ngộ quá!
- Nghĩa là con “ngựa sông” ấy mà. - Briant đáp.
- Nhưng em thấy nó chẳng giống ngựa chút nào cả! - Costar nhận xét rất đúng.
- Phải đấy! - Service nói như reo - Theo mình gọi nó là “hà trư” mới đúng!
Một ý nghĩ chí lí làm các chú nhóc cười vang.
Quá 10 giờ một chút thì tới bãi cát vũng Sloughi, đoàn dừng lại bên bờ lạch, nơi đã cắm trại khi phá du thuyền.
Khoảng một trăm con hải cẩu đang ở kia, con thì lồm cồm di chuyển giữa các mỏm đá, con thì sưởi nắng. Có cả những con đang đùa giỡn ngay trên bãi cát ở bên này dải đá ngầm.
Những con vật lưỡng cư này hẳn là ít quen với sự có mặt của con người, thậm chí chưa từng thấy người nào cũng nên - nạn nhân người Pháp mất cũng đã trên hai mươi năm rồi. Vì thế, mặc dầu là giống vật bị săn bắt ở cả Nam cực và Bắc cực, đã quen cảnh giác mà đàn hải cẩu này không thấy có những con già canh gác để báo động cho đồng loại khi thấy nguy hiểm. Dù sao cũng phải rất thận trọng, đừng làm chúng hoảng sợ sớm, vì nếu thế chỉ vài phút là chúng biến khỏi nơi này.
Tuy nhiên, vừa tới đây, đối mặt với vũng Sloughi thì trước hết các nhà di thực trẻ đưa mắt nhìn ngay về phía chân trời hiện ra rõ nét trên một không gian rộng suốt từ mũi Mỹ đến mũi Lầm Biển. Biển hoang vắng tuyệt đối. Thêm một lần nữa họ nhận ra rằng vùng biển này nằm ngoài mọi đường hàng hải. Nhưng biết đâu có tàu thuyền nào đó đi qua ở ngoài xa nhìn thấy đảo thì sao? Trường hợp đó, giá mà có một trạm gác trên đỉnh đồi Auckland hoặc trên đỉnh mũi Lầm Biển cùng một khẩu đại bác của du thuyền thì dễ được người ta chú ý hơn cột cờ tín hiệu. Nhưng lại phải có người ngày đêm thường trực xa động Người Pháp, nên Gordon cho là bất khả thi. Cả Briant, ngày đêm nghĩ đến hồi hương, cũng phải công nhận như vậy. Đáng tiếc là động Người Pháp lại không ở phía bên này đồi Auckland, phía trông ra vũng Sloughi.
Sau khi ăn nhanh bữa sáng, vào lúc mặt trời như mời mọc lũ hải cẩu tắm nắng trên bãi cát thì Gordon, Doniphan, Briant, Cross, Wilcox, Baxter, Webb, Garnett và Service chuẩn bị cho cuộc săn. Còn Iverson, Jenkins, Jacques, Dole và Costar thì ở lại chỗ cắm trại do Moko coi sóc. Phann cũng được giữ lại đây vừa để không làm kinh động đàn hải cẩu, vừa góp phần trông nom hai con guanaco đang gặm cỏ dưới các tán cây ven rừng.
Tất cả súng ống của trại - súng trường và súng ngắn - đều được huy động đầy đủ đạn dược mà vì lợi ích chung, Gordon không kì kèo mặc cả gì. Trước hết phải chặn đường rút lui ra biển của đàn hải cẩu. Doniphan được tín nhiệm chỉ huy chiến dịch, cho các bạn lợi dụng bờ phải để ẩn mình tiến ra bờ lạch. Tới đó các cậu sẽ dễ dàng tản ra dọc theo dải đá ngầm bao vây bãi cát. Kế hoạch được thực hiện rất thận trọng. Các tay súng, người nọ cách người kia ba, bốn mươi bước, nhanh chóng tạo thành một vành bán nguyệt chặn giữa bãi cát với biển. Thế rồi, theo hiệu lệnh của Doniphan, tất cả cùng nhô người lên, đồng loạt nổ súng, mỗi phát hạ một con mồi. Những con hải cẩu chưa trúng đạn, hoảng sợ vì tiếng nổ, cất đầu, quẫy đuôi và chân bơi nhào về dải đá ngầm. Các tay săn bắn súng ngắn đuổi theo. Doniphan say sưa theo bản năng, đã làm nên thành tích phi thường, các bạn cũng noi theo cậu. Cuộc săn bắn chỉ diễn ra trong vòng mấy phút, kể cả lúc truy kích tới những tảng đá cuối cùng. Những con hải cẩu sống sót biến mất dưới làn nước biển, để lại khoảng hai chục con chết và bị thương. Cuộc ra quân thắng lợi hoàn toàn. Các tay súng trở lại nơi cắm trại bố trí dưới các tán cây để có thể ở lại đây ba mươi sáu giờ.
Buổi chiều phải làm phần việc đúng là rất kinh tởm. Vì không thể không làm nên Gordon trực tiếp tham gia và các bạn đều đóng góp phần mình. Đầu tiên phải kéo những con hải cẩu chết đang mắc vào đá ngầm về bãi cát. Tuy đó chỉ là những con to vừa phải nhưng việc này cũng khá vất vả. Trong lúc đó, chậu kim loại đã đổ nước ngọt kín ở lạch khi thủy triều xuống tới mức vừa phải được đặt lên bếp lửa làm bằng hai hòn đá. Những súc thịt hải cẩu, mỗi súc khoảng năm, sáu livre được bỏ vào chậu. Nước chỉ sôi một lúc là thứ dầu trong nổi lên mặt chậu, chỉ việc hớt ra đổ đầy các thùng đã mang theo.
Việc chế biến làm cho nơi đây sặc mùi hôi hám. Ai nấy bịt mũi nhưng để hở tai nghe những câu bông đùa về cái nhiệm vụ không mấy thơm tho này mà đến hôm sau vẫn còn phải làm tiếp. Ấy thế mà khó tính như “ngài” Doniphan cũng chẳng trách móc gì.
Hết ngày thứ hai, Moko đã lấy được mấy trăm gallon dầu. Như vậy có thể ngừng công việc vì đã đủ dầu để thắp sáng suốt mùa đông tới. Vả chăng, hải cẩu cũng chẳng thấy trở lại dải đá ngầm hay bãi cát nữa. Chắc chắn là chừng nào chưa hết sợ thì chúng chưa quay lại vũng Sloughi.
Sáng hôm sau, bình minh mới hé thì nhổ trại, có thể nói là trong niềm vui của mọi người. Chiều hôm trước, các thùng dầu và mọi dụng cụ đã được xếp lên xe. Xe nặng hơn khi đi, đường về lại lên dốc, chắc chắn là hai con guanaco không đi nhanh được. Sắp khởi hành thì không gian náo động vì những tiếng kêu điếc tai của hàng nghìn con chim ăn thịt, nào diều hâu, nào cắt… chắc là từ trung tâm đảo bay ra, tranh nhau những mảnh xác hải cẩu còn lại. Chẳng mấy chốc nơi đây đã sạch sẽ chẳng còn dấu vết nào.
Chào lá cờ Anh đang phấp phới trên đỉnh đồi Auckland lần cuối, nhìn lại chân trời phía Thái Bình Dương lần sau cùng, nhóm người nhỏ bé men theo bờ phải lạch Zealand ngược lên. Không có sự kiện gì đáng kể xảy ra. Mặc dầu đường đi khó, hai con guanaco đều cố gắng làm tròn phận sự, tới những đoạn quá gay go, các trại viên lớn kịp thời giúp sức nên trước 6 giờ chiều cả đoàn đã về tới động Người Pháp.
Từ hôm sau, hoạt động của trại trở lại nề nếp quen thuộc. Dầu hải cẩu đốt thử trong các đèn hiệu chất lượng xoàng thôi nhưng cũng đủ chiếu sáng sảnh và kho, không sợ phải chìm ngập trong bóng tối của những tháng dài mùa đông nữa.
Lễ mừng Thiên Chúa Giáng sinh, một ngày lễ rất vui vẻ của người Anh, đang tới gần. Gordon có lí khi muốn ngày lễ này được tổ chức trang trọng. Đó sẽ là một kỉ niệm về quê hương đã thất lạc, một thông điệp của trái tim gửi về gia đình xa xôi! Ôi! Giá người thân nghe được tiếng nói của các cậu thì tất cả sẽ hét lên:
- Chúng con đây!… Tất cả chúng con đều còn sống, còn sống hẳn hoi… Mọi người rồi sẽ gặp chúng con!… Chúa sẽ đưa chúng con trở về!…
Phải, các cậu vẫn còn nuôi hi vọng, trong khi ở Auckland, cha mẹ và người thân đã hết hi vọng ngày nào đó sẽ gặp lại họ!
Vậy là Gordon tuyên bố rằng hai ngày 25 và 26 tháng 12 sẽ là hai ngày nghỉ ở động Người Pháp. Trong hai ngày ấy, mọi việc đều gác lại. Lễ Giáng sinh đầu tiên ở đảo Chairman là ngày đầu năm mới ở nhiều nước châu Âu. Ta dễ dàng hình dung lời tuyên bố được hoan nghênh ra sao. Đương nhiên ngày 25 tháng 12 phải có một bữa tiệc thịnh soạn, theo lời hứa của Moko sẽ có những món tuyệt diệu. Vì lẽ đó chú ta và Service không ngừng bàn bạc với nhau, còn Dole và Costar chưa chi đã thấy thèm ăn thì rình rập lén nghe xem họ bàn bạc những gì. Bếp ăn lúc này lại đang dồi dào mọi thứ nguyên liệu cho một bữa tiệc linh đình.
Ngày trọng đại đã tới. Trên cửa ra vào và bên trong đại sảnh, Baxter và Wilcox đã rất khéo chăng các lá cờ đuôi én, cờ lệnh, cờ hiệu của tàu Sloughi, làm cho không khí lễ hội tràn ngập động Người Pháp.
Sáng sớm, một phát đại bác vang rền làm cả dãy đồi Auckland bừng tỉnh, đáp lại là những tiếng reo vui. Đó là một trong hai khẩu đặt ở lỗ châu mai của sảnh do Doniphan điểm hỏa để chào mừng lễ Giáng sinh. Ngay sau đó, các em bé đến chúc mừng các anh lớn và được các huynh trưởng đàng hoàng đáp lễ. Riêng vị trưởng đảo Chairman còn có một bản chúc từ do Cross đọc khá trôi chảy.
Ai cũng diện bộ cánh đẹp nhất dành cho ngày lễ. Thời tiết tuyệt đẹp. Trước bữa ăn, có cuộc đi dạo ven hồ, các trò chơi khác nhau ở Bãi Tập, ai cũng muốn tham gia. Các cậu đã mang từ du thuyền lên mọi dụng cụ thể thao của các môn chơi rất thịnh hành ở nước Anh như bi sắt, bóng đá, tạ, vợt… Một ngày vui chơi thỏa thích khiến các chú bé rất vui vẻ. Mọi thứ đều ổn, không có tranh luận, không có cãi lộn. Chỉ có điều, Briant dù đặc biệt chú ý làm vui cho Dole, Costar, Iverson và Jenkins vẫn không sao lôi cuốn được Jacques hòa nhập với các bạn. Còn Doniphan với cánh hẩu của mình là Wilcox, Cross, Webb lại vẫn tách thành một nhóm riêng, phớt lờ những lời nhắc nhở khôn khéo của Gordon. Cuối cùng, phát đại bác thứ hai nổ vang, báo hiệu đã tới bữa ăn. Các thực khách nhanh chóng vào tiệc được dọn trong phòng ăn ở kho. Chính giữa chiếc bàn lớn phủ khăn đẹp, trắng tinh là một cây Noel trồng trong một chậu to, chung quanh kết lá xanh và hoa. Trên cành có treo nhiều lá cờ nhỏ các nước Anh, Mỹ và Pháp.
Đúng là Moko đã tiến bộ vượt bậc trong nghệ thuật ẩm thực. Cậu rất tự hào được nghe những lời khen mình và người cộng sự Service đáng mến. Agouti hầm, tinamou ra-gu, thỏ rừng nhồi lá thơm quay, một con ô tác hai cánh giương cao, mỏ nghếch lên như công múa, ba hộp rau, một bánh pudding hình tháp rắc nho khô Corinthe truyền thống, trộn với quả algarrobe đã ngâm rượu hơn một tuần lễ, rồi vài cốc vang đỏ, sherry, rượu ngọt, chè và cà phê tráng miệng. Đúng là lễ Giáng sinh ở đảo Chairman được tổ chức thật trọng thể.
Tới lúc đó, Briant nâng cốc thân ái chúc mừng Gordon. Cậu này nâng cốc đáp lễ và chúc sức khỏe toàn trại di thực nhỏ bé và tưởng nhớ các gia đình ở quê hương.
Cuối cùng, thật cảm động khi Costar đứng lên, thay mặt các bạn bé nhất, cảm ơn Briant vì đã nhiều lần tận tâm chăm sóc các em. Briant không khỏi xúc động sâu xa khi tiếng hoan hô cậu vang lên, mặc dù những tiếng hoan hô ấy không tìm được sự đồng vọng trong trái tim Doniphan.