Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 16 - Lưỡi Dao Bạc
N
gay lập tức, Lyra cúi đầu xuống dưới chiếc mũ chùm đầu bằng da móc của mình và bước qua hai ngưỡng cửa cùng với những đứa trẻ khác. Cũng không còn nhiều thời gian để lo lắng về những điều cô bé sẽ nói khi họ đối mặt nhau: cô có một vấn đề khác cần giải quyết trước - đó là việc làm thế nào để giấu quần áo vào nơi có thể lấy ra mà không cần xin phép.
Nhưng thật may mắn, ở phía trong đang rất lộn xộn, người lớn đang cố gắng dồn bọn trẻ con lại để lấy chỗ cho những người trên khí cầu zeppelin, vì thế không có ai còn để tâm đến cô. Lyra cởi áo choàng, quần tất, giày ống và cuộn chúng lại nhỏ hết mức có thể trước khi len qua hành lang đông đúc đế đến ký túc xá của mình.
Cô hối hả kéo một chiếc tủ két vào góc nhà, đứng lên đó và đẩy tấm ván trần. Tấm ván được nâng lên, đúng như lời Roger đã nói, Lyra ném chiếc quần tất và giày ống vào đó. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, Lyra lấy Chân-kế ra khỏi túi và giấu vào sâu bên trong bọc áo choàng trước khi ném vào.
Cô nhảy xuống, đẩy chiếc tủ két lại vị trí cũ và thì thầm với Pantalaimon: “Chúng mình phải giả vờ đần độn cho đến khi bà ấy nhìn thấy, mình sẽ nói là bị bắt cóc. Đừng nói gì về những người Gypsy và đặc biệt là Iorek Byrnison.”
Giờ đây, Lyra đã nhận ra, nếu trước đây cô không làm được điều đó, là vì toàn bộ hãi sợ trong tâm trí cô đều hướng về bà Coulter như một chiếc kim la bàn chỉ về cực Bắc. Tất cả những điều cô từng nhìn thấy, và thậm chí là sự chia tách nhân tinh dã man độc ác, cô có thể chịu đựng được. Cô có đủ sự mạnh mẽ. Nhưng chỉ ý nghĩ về khuôn mặt xinh đẹp và giọng nói ngọt ngào, hình ảnh con khỉ vàng nghịch ngợm thôi cũng đủ làm cho cô thấy bủn rủn, choáng váng và buồn nôn.
Nhưng, những người Gypsy đang trên đường đến đây. Hãy nghĩ đến điều đó. Nghĩ đến Iorek Byrnison. Và đừng đề mình bị lộ, cô tự nói với mình, rồi quay trở lại phòng ăn lúc này đang rất ồn ào. Bọn trẻ đang xếp hàng lấy đồ uống nóng, một vài đứa vẫn đang mặc áo choàng có mũ. Tất những câu chuyện chúng đang nói đều hướng về khí cầu zeppelin và những hành khách trên đó.
“Chính bà ấy đấy… và con nhân tinh khỉ nữa…”
“Bà ấy cũng bắt cậu phải không?”
“Bà ta nói sẽ viết thư cho cha mẹ mình và mình cá là bà ta chẳng đời nào…”
“Bà ta chẳng bao giờ nói với chúng ta về chuyện những đứa trẻ sẽ bị giết. Bà ta không bao giờ nói về chuyện này cả.”
“Con khỉ đó, nó là [I]đồ tồi tệ nhấ[/]t – nó bắt Karossa của mình và gần như đã giết chết nó - mình có thể cảm thấy tất cả những đau đớn…”
Tất cả bọn trẻ đều sợ hãi giống Lyra. Cô tìm thấy Annie cùng mấy bạn khác nữa và ngồi xuống.
“Nghe này,” cô nói, “các cậu có giữ bí mật được không?”
“Có!”
Ba mái đầu quay lại chỗ cô, chờ đợi.
“Có một kế hoạch tẩu thoát,” Lyra nói khẽ, “Sắp có những người đến đây và đưa chúng ta đi, đúng thế đấy, họ sẽ đến đây trong vòng khoảng một ngày nữa. Có thể sớm hơn. Tất cả những gì chúng ta cần làm là sẵn sàng ngay khi có tín hiệu và mặc quần áo ấm ngay lập tức và chạy ra ngoài. Không chờ đợi gì cả. Chúng ta chỉ việc chạy thôi. Chỉ có điều nếu không mặc áo choàng, đeo giầy ống, các cậu sẽ chết cóng.”
“Tín hiệu như thế nào vậy?” Annie hỏi.
“Chuông báo cháy, như buổi chiều nay. Tất cả đã được sắp đặt. Mọi đứa trẻ đều sẽ được cho biết, còn người lớn thì không. Đặc biệt là bà ta.”
Mắt chúng ánh lên niềm hi vọng và sự hào hứng. Thông điệp được truyền đi khắp cả phòng ăn. Lyra có thể thấy không khí trong phòng đã thay đổi. Khi ở bên ngoài, bọn trẻ nhanh nhẹn, hào hứng muốn chơi. Rồi chúng nhìn thấy bà Coulter, chúng như bị mắc chứng sợ hãi đến cuồng loạn, nhưng giờ chúng đã lấy lại được bình tĩnh và bắt đầu nói chuyện. Lyra ngạc nhiên trước tác động của niềm hi vọng có thể đem lại.
Cô nhìn xuyên qua cánh cửa ra vào đang mở, thật cẩn thận, lúc nào cũng sẵn sàng để cúi đầu xuống, vì có những giọng người lớn đang đến gần, rồi chính bà Coulter xuất hiện, nhìn vào và mỉm cười với những đứa trẻ đang hân hoan vui sướng bên đồ uống nóng và bánh ngọt, rất ấm áp và no đủ. Một cái rùng mình tức thì lan truyền khắp phòng ăn, tất cả bọn chúng đều cứng đờ người ra, nhìn chằm chằm vào bà.
Bà Coulter mỉm cười, đi qua không nói một lời nào. Các cuộc nói chuyện dần dần lại tiếp tục.
Lyra hỏi, “Họ nói chuyện ở đâu vậy?”
“Có lẽ là trong phòng họp.” Annie trả lời. “Có một lần họ đã đưa bọn mình đến đó.” Cô nói thêm, ý chỉ cô và con nhân tinh của mình. “Có khoảng hai mươi người lớn ở đó và một trong số họ đang giảng bài, mình phải đứng đó để làm theo điều ông ta bảo, như xem Kyrillion có thể đi xa khỏi mình bao xa, rồi ông ta thôi miên mình và làm những điều khác nữa … Đó là một căn phòng lớn, rất nhiều ghế, bàn và một bục giảng nhỏ. Này, mình cá họ sẽ nói dối là cuộc tập dượt phòng chữa cháy đã kết thúc thành công. Mình cá họ cũng sợ bà ta, giống bọn mình vậy…”
Thời gian còn lại trong ngày, Lyra ở cạnh các bạn gái khác, quan sát. Nói chuyện một chút và giữ cho mọi chuyện diễn ra kín đáo. Có những bài tập, có bài học khâu vá, có bữa ăn giữa giờ, có giờ chơi trong phòng khách: một căn phòng tồi tàn với những hình thù bằng bìa cứng, mấy cuốn sách rách bươm và một chiếc bàn đánh bóng bàn. Lyra và những đứa trẻ khác nhận thấy có một sự khẩn cấp kín đáo nào đó đang diễn ra, vì những người lớn đang hối hả qua lại ngồi thành từng nhóm lo lắng và trao đổi gấp gáp. Lyra đoán họ đã phát hiện việc các con nhân tinh trốn thoát và đang không hiểu làm thế nào chuyện này có thể xảy ra được.
Nhưng Lyra không nhìn thấy bà Coulter, việc này quả là một sự nhẹ nhõm. Khi đã đến giờ đi ngủ, cô biết mình đã tạo được sự tin tưởng trong lòng những bạn gái khác.
“Nghe này,” cô nói, “có bao giờ họ đến xem chúng ta ngủ hay chưa không?”
“Họ chỉ nhìn vào một lần,” Bella nói. “Họ chỉ chiếu đèn một lượt chứ không thực sự nhìn vào.”
“Tốt lắm. Vì mình đang định đi và xem xét xung quanh. Có một đường đi trên trần nhà mà một cậu bạn đã chỉ cho mình biết…”
Cô giải thích, và trước khi kịp nói xong, Annie nói: “Mình sẽ đi với cậu!”
“Không, tốt hơn là cậu đừng đi, vì sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ có một người vắng mặt. Tất cả các cậu chỉ việc nói là đã đi ngủ và không biết mình đi đâu.”
“Nhưng nếu mình đi với cậu…”
“Thì sẽ dễ bị bắt hơn.” Lyra nói.
Hai con nhân tinh của họ nhìn nhau, Pantalaimon là một con mèo hoang, Kyrillion của Annie là một con cáo. Pantalaimon khẽ rít lên với âm điệu thấp nhất, êm nhất và nhe răng, còn Kyrillion thì khoác lên mình vẻ lãnh đạm thờ ơ.
“Vậy thì được rồi.” Annie nói, từ bỏ ý định của mình.
Việc tranh cãi của bọn trẻ được giải quyết thông qua nhân tinh của mình như thế này khá thường xuyên, một trong hai chấp nhận sự chiến thắng của bên kia. Chủ nhân của chúng chấp nhận kết quả mà không hề bực bội, thực tế là, Lyra biết Annie sẽ làm theo lời cô.
Chúng gom các thứ đồ lại đặt lên giường Lyra để trông như thể cô vẫn đang nằm đó, rồi thế là sẽ nói chúng không biết chút gì về việc này. Sau đó Lyra nghe ngóng ở cửa để chắc chắn không có ai đang đến, nhảy lên chiếc tủ két, đẩy tấm ván trần lên và chui vào.
“Chỉ cần không nói gì là được,” cô thì thầm với ba khuôn mặt đang nhìn lên.
Rồi cô nhẹ nhàng thả tấm ván trần vào chỗ cũ và nhìn xung quanh.
Cô đang ở trong một đường hầm kim loại hẹp được chống bằng khung giầm và thanh chống. Những tấm ván trần hơi trong, vì thế chút ánh sáng ở bên dưới hắt lên. Dựa vào thứ ánh sáng lờ mờ đó mà Lyra có thể nhìn thấy khoảng không gian chật hẹp này (chỉ cao khoảng một mét) dẫn ra tất cả các hướng xung quanh cô. Nó chằng chịt những ống kim loại tránh đè nặng lên tấm ván trần và không gây ra tiếng động, cô có thể đi từ đầu này đến đầu kia của Trạm.
“Thật giống như trở lại Jordan, Pan ạ,” cô thì thầm, “nhìn trộm vào Phòng nghỉ.”
“Nếu cậu không làm thế, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả.”
“Vậy thì mình phải làm thế mới đúng, phải không?”
Cô xác định phương hướng, tính toán xem phòng hội thảo ở hướng nào và bắt đầu khởi hành. Đó hoàn toàn không phải là một chuyến đi dễ dàng. Cô phải di chuyển bằng tay và đầu gối, vì nơi này quá thấp để bò, chốc chốc cô lại phải nép mình dưới những ống dẫn nước hình vuông hay uốn mình qua những đường ống dẫn nhiệt. Đường kênh kim loại cô đang bò trong đó dẫn theo đỉnh của những bức tường phía trong. Cô cảm thấy một sự yên ổn dễ chịu phía dưới mình; nhưng chúng rất hẹp, và có cạnh sắc đến nỗi làm xước các đốt ngón tay và đầu gối cô. Không bao lâu sau Lyra đã xây xát khắp người, mỏi nhừ và đầy bụi.
Nhưng cô biết chính xác mình đang ở đâu, và có thể nhìn thấy đống quần áo khoác màu đen của mình nằm phía trên ký túc xá. Cô có thể biết phòng nào đang trống vì các tấm ván trần có màu tối, có lúc cô lại nghe thấy tiếng người vọng lên từ phía dưới, dừng lại để lắng nghe, nhưng đó chỉ là những người nấu ăn trong bếp, hay các y tá, mà theo cách suy luận thông thường của cô ở Jordan, đang trong phòng riêng của mình. Họ chẳng nói điều gì thú vị, cô lại tiếp tục.
Cuối cùng cô đến nơi có lẽ là phòng hội thảo, theo cách tính toán của cô. Không nghi ngờ gì nữa, có một khoảng không gian không có đường ống nào, nơi những chiếc máy điều hoà và đường ống dẫn nhiệt được thiết kế dạt về một bên, cùng những tấm ván trần có hình chữ nhật kích thước lớn và được chiếu sáng đều nhau. Lyra áp tai vào tấm ván và nghe thấy tiếng những người lớn đang thì thầm, cô biết mình đã đến đúng nơi cần tìm.
Cô nghe thật chăm chú, rồi nhích lại gần phía người nói. Rồi cô nằm duỗi thẳng người trong đường hầm, nghiên đầu để nghe được rõ nhất.
Có tiếng lách cách của dao nĩa, tiếng cốc tách chạm vào nhau khi rót đồ uống, chắc họ vừa ăn tối vừa nói chuyện. Có bốn giọng nói tất cả, cô nghĩ, trong đó có bà Coulter. Ba người còn lại là nam giới. Có vẻ họ đang nói chuyện về đám nhân tinh bỏ trốn.
“Nhưng ai là người có trách nhiệm trông coi bộ phận đó?” Giọng bà Coulter nhẹ nhàng và ngân nga như tiếng nhạc.
“Một sinh viên nghiên cứu tên là McKay,” một trong những người đàn ông trả lời. “Nhưng ở đó có những thiết bị tự động để tránh cho những chuyện như thế này xảy ra…”
“Chúng đã không làm việc.” Bà ta nói.
“Chúng có làm việc, thưa bà Coulter. McKay cam đoan với chúng tôi rằng anh ta đã khoá tất cả các lồng khi rời toà nhà lúc mười một giờ hôm nay. Cửa phía ngoài tất nhiên không được mở trong bất kì trường hợp nào, vì anh ta vào và ra bằng cửa trong, như vẫn làm. Có một mật mã cần nhập vào chiếc máy điều khiển cửa, và có một bản ghi chép lại việc anh ta có làm như vậy. Nếu không làm như thế, chuông báo động sẽ reo.”
“Nhưng chuông báo động đã không reo.” Bà ta nói.
“Nó đã reo, nhưng không may là nó reo khi tất cả mọi người ở ngoài trời, tham gia vào buổi tập phòng cháy chữa cháy.”
“Nhưng khi anh quay trở lại bên trong -”
“Không may là cả hai chuông báo đều nằm chung một mạch, đây là lỗi thiết kế cần sửa lại. Có nghĩa là khi chuông báo cháy tắt sau khi thực hành, chuông báo động của phòng thí nghiệm cũng bị tắt theo. Thậm chí có như vậy nó cũng có thể được đặt lại vì công việc kiểm tra thông thường được thực hiện rất thường xuyên; nhưng lúc đó, thưa bà Coulter, bà đến rất bất ngờ không báo trước, nếu bà còn nhớ, bà đã yêu cầu được gặp nhóm thí nghiệm ngay lập tức, trong phòng của bà. Kết quả là, không ai đến phòng thí nghiệm ngay sau đó.”
“Tôi hiểu,” Bà Coulter lạnh lùng nói. “Trong trường hợp này, chắc hẳn các con nhân tinh đã tự giải thoát suốt trong buổi thực hành phòng cháy chữa cháy. Điều này làm rộng thêm danh sách những người lớn khả nghi trong Trạm. Ông đã cân nhắc đến điều đó chưa?”
“Bà có nghĩ đến chuyện vụ này là do một đứa trẻ làm không?” Ai đó hỏi.
Bà ta im lặng, rồi người đàn ông thứ hai lên tiếng.
“Mỗi người lớn đều có một nhiệm vụ riêng, và nhiệm vụ nào cũng cần họ tập trung hoàn toàn, nhiệm vụ nào cũng cần được thực hiện. Không có khả năng nào để bất cứ nhân viên nào tại đây có thể mở cửa. Không ai cả. Vì thế hoặc là những người bên ngoài đột nhập vào với mục đích làm chuyện đó, hay một trong số những đứa trẻ cố gắng tìm đường đến đó, mở cửa rồi mở cửa chiếc lồng rồi quay trở lại phía trước của toà nhà chính.”
“Ông đang làm gì để điều tra vụ này?” Bà nói. “Mà thôi; tôi nghĩ lại rồi, không cần nói với tôi. Xin hãy hiểu, thưa tiến sĩ Cooper, không phải tôi ác mồm đi chất vấn. Chúng ta phải vô cùng cẩn thận. Thật là một sai sót trầm trọng khi đặt hai chiếc chuông báo động chung một mạch. Chúng phải được sửa lại ngay lập tức. Có thể nhân viên Tartar phụ trách việc canh gác có thể giúp ích cho cuộc điều tra của ông? Tôi chỉ nhắc đến điều này như một khả năng thôi. Nhân thể, tôi muốn hỏi, những người Tartar đã ở đâu trong suốt thời gian thực hành phòng chữa cháy? Tôi cho rằng ông đã cân nhắc chuyện đó?”
“Vâng, chúng tôi có xét đến.” Một người đàn ông nói với giọng mệt mỏi. “Những người bảo vệ đều đứng ở vị trí tuần tra, tất cả mọi người. Họ có ghi chép rất tỉ mỉ.”
“Tôi chắc rằng ông đã làm hết sức mình.” Bà ta nói. “Thôi được rồi, giờ thì chúng ta đang ở đây. Thật là vô cùng đáng tiếc. Nhưng việc này đến đây là đủ rồi. Hãy nói cho tôi biết về chiếc máy tách mới.”
Lyra rùng mình trước điểu bà ta đề cập tới.
“À,” ông tiến sĩ nói, thở phào vì câu chuyện đã chuyển sang hướng khác, “đã có những tiến bộ thực sự. Với mẫu máy đầu tiên chúng tôi chẳng bao giờ vượt qua được rủi ro bệnh nhân tử vong do sốc, nhưng giờ thì khắc phục được rồi.”
“Người Skraeling đã làm điều này tốt hơn bằng tay không.” Một người đàn ông từ đầu đến giờ chưa lên tiếng nói.
“Sau hàng thế kỷ tập luyện.” Người còn lại phản bác.
“Nhưng đôi khi chia cắt đơn giản lại là lựa chọn duy nhất,” người trình bày chính nói. “Tuy nhiên, những ca mổ đau đớn thế này là dành cho người lớn. Nếu bà còn nhớ, chúng ta đã phải bỏ đi một lượng kha khá vì nguyên nhân lo âu liên quan đến căng thẳng. Nhưng thành tựu lớn đầu tiên là sử dụng thuốc mê kết hợp với dao mổ Maystadt bằng điện anbaric. Chúng ta đã có thể giảm tỉ lệ tử vong vì sốc gây ra sau phẫu thuật xuống dưới năm phần trăm.”
“Còn về thiết bị mới thì sao?” Bà Coulter hỏi.
Lyra run lên. Máu đang dồn hết đến tai cô, Pantalaimon đang nép sát thân hình chồn ecmin vào người cô, thì thầm: “Suỵt, Lyra, họ sẽ không làm thế đâu - chúng mình sẽ không để họ làm thế -”
“Vâng, chính khám phá kì quặc của Ngài Asriel đã cho chúng ta chìa khoá đến với một phương pháp mới. Ông ấy phát hiện ra một hỗn hợp mangan và titanium có khả năng cách ly cơ thể con người khỏi nhân tinh. Nhân tiện tôi muốn hỏi, chuyện gì đã xảy ra với Ngài Asriel?”
“Có lẽ ông chưa nghe nói,” bà Coulter trả lời. “Ngài Asriel đang lơ lửng dưới án tử hình. Một trong những điều kiện để ông ấy được đày đến Svalbard là chấm dứt hoàn toàn công việc nghiên cứu khoa học của mình. Không may là, ông ấy đã xoay xở có được sách và các tư liệu, và ông đã đẩy những điều tra dị giáo của mình đến mức sẽ là nguy hiểm nếu để ông ta sống sót. Bằng mọi giá, có vẻ như Toà án Tôn Giáo đã cân nhắc mức án tử hình và có khả năng bản án sẽ được thực hiện. Mà cái thiết bị mới của ông, Tiến sĩ, nó hoạt động như thế nào?”
“À - vâng - án tử hình, bà vừa nói thế đúng không? Chúa nhân từ… Tôi xin lỗi. Thiết bị mới. Chúng tôi đang tìm hiểu điều gì sẽ xảy ra khi việc chia cắt được thực hiện với bệnh nhân trong tình trạng tỉnh táo, tất nhiên điều này không thể thực hiện được theo phương pháo Maystadt. Vì thế chúng tôi đã chế tạo ra một loại dao mổ. Lưỡi dao được chế tạo bằng hợp kim mangan và titanium, đứa trẻ được đặt trong một ngăn kín, giống một cabin, con nhân tinh đặt trong một ngăn kín tương tự thông sang đó. Khi thông như thế, tất nhiên, sự liên kết vẫn còn. Sau đó lưỡi dao bập xuống giữa chúng, cắt mối liên hệ ngay tức khắc và chúng trở thành những thực thể bị chia tách.”
“Tôi muốn được nhìn tận mắt.” Bà ta nói. “Nhanh thôi, tôi hi vọng như vậy. Nhưng giờ thì tôi mệt rồi. Tôi nghĩ tôi nên đi nghỉ. Ngày mai tôi muốn được gặp tất cả bọn trẻ. Chúng ta sẽ ra tìm kẻ nào đã mở cánh cửa đó.”
Có tiếng kéo ghế, những lời nói khách sáo, tiếng đóng cửa. Rồi Lyra nghe thấy những người còn lại tiếp tục thảo luận, nhưng khẽ hơn.
“Ngài Asriel sẽ thế nào đây?”
“Tôi nghĩ ông ấy có một ý tưởng hoàn toàn khác về tính chất của Bụi. Đó mới là mấu chốt của vấn đề. Điều này là vô cùng dị giáo. Ông biết đấy, kỉ luật của Toà án Tôn Giáo không thể cho phép bất cứ một cách hiểu nào ngoài cách đã được công bố. Hơn nữa, ông ấy muốn thử nghiệm—”
“Thử nghiệm? Với Bụi à?”
“Suỵt! Đừng nói to quá…”
“Ông có nghĩ bà ta sẽ làm một bản báo cáo không có lợi cho chúng ta không?”
“Không, không. Tôi nghĩ ông đối phó rất giỏi với bà ta.”
“Thái độ của bà ấy làm tôi lo lắng.”
“Chính xác là như vậy. Một sự thích thú mang tính cá nhân. Tôi không muốn dùng từ này, nó gần như đến mức ghê tởm.”
“Nó hơi mạnh bạo quá.”
“Nhưng ông có nhớ lần thí nghiệm đầu tiên không khi bà ta rất thích thú xem người ta kéo rời—”
Lyra không thể chịu đựng thêm được nữa: một tiếng kêu bật khỏi miệng cô, và cũng đúng lúc người cô run lẩy bẩy, chân cô đạp phải cột chống.
“Cái gì vậy?”
“Trên trần nhà…”
“Nhanh lên!”
Có tiếng xô ghế, tiếng chân người chạy, tiếng một chiếc bàn được kéo ra giữa phòng. Lyra cố bò đi, nhưng chỗ này chật chội quá, trước khi cô kịp bò đi vài mét, tấm ván trần bên cạnh cô bất ngờ bị kéo giật xuống, và cô nhìn thấy khuôn mặt một người đàn ông đang hoảng hốt. Cô ở gần tới mức có thể nhìn thấy từng sợi râu quai nón của ông ta. Ông ta cũng hoảng hốt giống cô, nhưng do có thể di chuyển thoải mái hơn, ông ta có thể giơ tay qua khoảng hờ và kéo tay cô.
“Một đứa bé!”
“Đừng để nó chạy thoát…”
Lyra cắn bập răng vào bàn tay cháy nắng to bè của ông ta. Người đàn ông hét lên nhưng không buông tay, ngay cả khi tay bị cô cắn đến chảy máu. Pantalaimon gào thét và phun phì phì, nhưng chẳng giúp được gì, người đàn ông khoẻ hơn cô rất nhiều, ông ta kéo cho đến khi cánh tay kia của cô, đang bám chặt vào cây cột chống lỏng ra. Và nửa người cô tụt xuống.
Đến lúc này, cô vẫn không kêu một tiếng. Cô ngoắc chân vào gờ sắc của tấm kim loại bên trên, giãy giụa trong tư thế lộn ngược, cào cấu, cắn xé và phun phì phì trong cơn tức giận điên cuồng. Những người đàn ông thở hổn hển, càu nhàu vì đau đớn và phải gắng sức, nhưng họ vẫn tiếp tục kéo.
Đột nhiên tất cả mọi sức lực thoát hết khỏi cơ thể Lyra.
Nó như thể có một bàn tay ngoại lai đã thò vào được nơi không cánh tay nào được quyền chạm vào. Tim cô như bị bóp nghẹt.
Cô cảm thấy choáng váng, chóng mặt và mệt mỏi, lả đi vì sốc. Một trong số họ đang giữ Pantalaimon.
Ông ta đã chộp lấy con nhân tinh của Lyra bằng bàn tay của con người, Pantalaimon đáng thương đang run rẩy, gần như mất trí vì hoảng sợ và ghê tởm. Trong thân hình mèo hoang, bộ lông của nó lúc thì nhợt nhạt đi vì yếu sức, lúc lại phản chiếu ánh sáng lấp lánh… Nó lao người về phía Lyra khi cô vươn cánh tay về phía nó…
Họ không cầm cự được nữa. Họ đã bị bắt.
Cô cảm thấy những bàn tay… Điều này là không được phép... không được chạm vào… sai trái…
“Nó chỉ có một mình phải không?”
Một người đang ngó vào lỗ hổng trên trần nhà.
“Có vẻ nó chỉ đi một mình…”
“Nó là ai vậy?”
“Đứa trẻ mới đến.”
“Đứa trẻ… những thợ săn Samoyed…”
“Đúng thế.”
“Ông có cho rằng… những con nhân tinh…”
“Có thể lắm. Nhưng không thể một mình nó được, chắc chắn như thế đúng không?”
“Chúng ta có nên nói…”
“Tôi nghĩ như thế sẽ làm mọi chuyện tồi tệ hơn, ông có nghĩ vậy không?”
“Tôi đồng ý. Sẽ tốt hơn nếu bà ta không nghe gì về chuyện này cả.”
“Nhưng chúng ta làm gì bây giờ?”
“Nó không thể quay lại chỗ những đứa trẻ khác được.”
“Không thể được!”
“Có một cách chúng ta [I]có thể[/] làm, tôi cho là như vậy.”
“Ngay bây giờ sao?”
“Phải như vậy thôi. Không thể để đến sáng mai được. Bà ta muốn xem.”
“Chúng ta có thể làm một mình. Không cần nhờ đến ai khác nữa.”
Người đàn ông có vẻ là người chịu trách nhiệm, người đang nắm giữ cả Lyra hay Pantalaimon, lấy móng ngón tay cái cậy răng. Đôi mắt ông ta không lúc nào nhìn thẳng; chúng ánh lên và liếc hết bên nọ sang bên kia. Cuối cùng ông ta gật đầu.
“Được rồi, làm luôn đi.” Ông ta nói, “nếu không nó sẽ kêu lên đấy. Cơn sốc sẽ ngăn cản nó làm chuyện đó, ít nhất là như vậy. Nó sẽ không nhớ mình là ai, nhìn thấy gì, nghe thấy gì… nhanh lên.”
Lyra không thể mở miệng. Cô đang thở rất khó nhọc. Cô đành để mình bị mang đi dọc Trạm, dọc những hành lang màu trắng trống không, qua những căn phòng kêu o o chạy bằng năng lượng anbaric, đi qua những ký túc xá bọn trẻ con đang ngủ, những con nhân tinh trên gối bên cạnh chúng, chia sẻ những giấc mơ cùng chủ nhân. Chốc chốc Lyra lại theo dõi Pantalaimon, nó nhướn người sang cô, mắt chúng không bao giờ rời nhau.
Rồi một cánh cửa mở ra thông qua một bánh xe lớn. Không khí rít lên, một căn phòng sáng rực với đá lát sàn nhà sáng lóa và thép không gỉ. Sự sợ hãi mà bản thân cô đang cảm thấy gần như là nỗi đau thể xác—đó là cơn đau khi họ kéo cô và Pantalaimon về phía một cái lồng rất lớn đan theo kiểu lưới bằng bạc xanh xám, phía trên đó treo một lưỡi dao lớn bằng bạc xám. Để chia cắt họ vĩnh viễn.
Cô lấy lại được giọng và hét lên. Âm thanh rất to đập vào các bức tường, nhưng cánh cửa nặng nề đã ngăn nó lại, dù cô có hét to đến mấy, không có âm thanh nào lọt được ra ngoài.
Như để trả lời, Pantalaimon đã vùng vẫy thoát ra khỏi những bàn tay đáng ghê tởm kia… nó biến thành một con sư tử, một con đại bàng. Nó lao vào họ bằng những móng vuốt dữ dội, đôi cánh điên cuồng, rồi nó biến thành con chó sói, con gấu, con chồn pu-toa… lao vào, gầm gừ, gào thét, biến hình nhanh đến mức không thể đoán bắt được. Pan liên tục nhảy, bay, chạy từ chỗ này sang chỗ khác trong khi những bàn tay lóng ngóng vụng về vồ trượt trong không khí.
Tất nhiên họ cũng có nhân tinh của mình. Đó không phải là hai chống ba, mà là hai chống lại sáu. Một con lửng, một con cú và một con khỉ đầu chó chỉ rình để nghiến Pantalaimon xuống. Lyra đang hét lên với chúng: “Tại sao? Tại sao chúng mày lại làm như vậy? Hãy cứu chúng tôi đi! Bọn mày không nên giúp đỡ họ.”
Cô đá và cắn dữ dội hơn bao giờ hết, cho đến khi người đàn ông giữ cô thở hổn hển rồi thả cô ra trong một tích tắc—và cô được tự do. Pantalaimon lao đến với cô như một tia chớp, cô áp chặt nó vào bộ ngực đang thở dữ dội của mình, nó cắm những cái móng vuốt của loài mèo hoang dã vào da thịt cô, mỗi vết xước đối với cô đều vô cùng thân thương.
“Không bao giờ! Không bao giờ! Không bao giờ!” Cô hét lên và lùi sát vào tường để bảo vệ nó.
Nhưng họ lại lao vào cô, ba người đàn ông hung dữ, còn cô chỉ là một đứa trẻ choáng váng và đầy hãi sợ. Họ giằng Pantalaimon ra rồi ném nó vào một bên chiếc lồng đan lưới rồi đưa Lyra vẫn đang giãy giụa sang phía bên kia. Có một tấm chắn đan mắc lưới đặt giữa họ, nhưng Pan vẫn là một phần của cô, họ vẫn hoà vào nhau. Trong một giây hoặc hơn thế, nó vẫn là linh hồn thân thương của chính cô.
Nổi bật lên trong mớ hỗn độn âm thanh của những người đàn ông, của tiếng khóc của chính mình và tiếng gào thét hoang dại của Pan, Lyra nghe được một âm thanh o o, Lyra nhìn về hướng đó và thấy một người đàn ông (máu rỉ ra từ mũi ông ta) đang vận hành một bàn phím các công tắc. Hai người kia nhìn lên, cô dõi mắt theo hướng đó. Lưỡi dao bạc màu xám to bè đang từ từ được nâng lên, phản chiếu ánh đèn sáng rực. Khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc đời trọn vẹn của cô sắp trở thành điều tồi tệ nhất từ trước đến nay!
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Một giọng nói nhẹ nhàng ngân nga: giọng bà ấy. Tất cả mọi thứ dừng lại.
“Các ông đang làm gì ở đây vậy? Và đứa trẻ này là—”
Không cần phải nói hết chữ ai, bà ta đã lập tức nhận ra Lyra. Qua đôi mắt giàn giụa nước nhòe nhoẹt, cô nhìn thấy bà ta lảo đảo bám vào thành chiếc ghế dài. Khuôn mặt xinh đẹp luôn điềm tĩnh kia, trong nháy mắt trở nên phờ phạc và kinh hãi.
“Lyra—” Bà ta thì thầm.
Con khỉ vàng bên cạnh bà lao xẹt tới, lôi Pantalaimon ra khỏi lồng trong khi Lyra tự nhào mình ra. Pantalaimon bứt mình khỏi những móng vuốt đầy lo lắng của con khỉ, lao vào vòng tay của Lyra.
“Không bao giờ! Không bao giờ!” Cô bé vùi mặt vào bộ lông của Pan trong khi nó áp tim mình vào tim cô.
Chúng ôm chặt lấy nhau như những người sống sót sau một trận đắm tàu, run rẩy trên đảo hoang. Cô loáng thoáng nghe tiếng bà Coulter nói chuyện với những người đàn ông, nhưng thậm chí bà ta còn không diễn đạt nên lời. Rồi họ ra khỏi căn phòng đáng sợ đó, bà Coulter nửa bế nửa dìu cô đi dọc một hành lang. Sau đó tới một cánh cửa, một chiếc giường ngủ, mùi không khí, ánh sáng nhẹ nhàng.
Bà Coulter nhẹ nhàng đặt cô xuống giường. Vòng tay Lyra ghì chặt Pantalaimon đến nỗi cô run rẫy trước tác động của nó. Một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên trán cô.
“Cháu yêu, cháu yêu quý của ta,” giọng nói ngọt ngào cất lên. “Làm thế nào mà cháu đến đây được?”