Chướng ngại chỉ đe dọa được bạn một khi bạn rời mắt khỏi mục tiêu.

Henry Ford

 
 
 
 
 
Tác giả: Patrick White
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17
my Parker chấp nhận sự vắng mặt của con trai; thời gian qua đi thật chẳng khác gì lắm so với khi có mặt nó. Mỗi lần bà nghĩ đến nó, thì đó là một đứa bé. Một thằng bé không chạy được xa, hoặc đang ẩn nấp và bà đi tìm, trong một trò chơi. Rồi bà khiến nó chẳng nhìn thấy gì bằng những nụ hôn, và nuốt chửng cái cổ cong cong của nó. Nó chỉ có thể vẫy vùng khỏi tình yêu của bà. Bằng cách ấy quá khứ trở nên cụ thể hơn hiện tại.
Nhưng có một lần Ray cũng gửi bưu thiếp từ Albany. Nét chữ bà đã quên, dù trước kia hằng nhớ kỹ. Nó gợi lên hình ảnh một con người xa lạ, mà bà kính cẩn ngắm nhìn qua mục kỉnh, như thể đó là một tia chớp lập lòe. Hắn nói mình bận công chuyện làm ăn. Cuối cùng bà tự hào đã nhận được tấm bưu thiếp, mặc dù bà không yêu quý con người này. Bà yêu cái thằng bé đang vùng vẫy, mà bà đã dán khuôn mặt đầy đặn của mình vào nó cả một ngày hè. Bà đưa tấm thiếp cho mọi người xem, sau khi đã lau khô hai bàn tay; bà đưa cho mọi người đến thăm, hãnh diện đón nhận những lời chúc mừng của họ, rồi nói về đứa con trai vắng mặt của mình với một niềm trìu mến tự nhiên. Thế nhưng bà không yêu con người này.
Bà cũng muốn yêu. Thật khủng khiếp khi nghĩ rằng bà chẳng bao giờ yêu con trai bà khi nó thành đàn ông. Đôi khi bà vặn hai bàn tay vào nhau. Hai bàn tay mềm mại, khá mập mạp, to, và chưa khô khốc. Nhưng vặn vào nhau như thế này, chúng nom như giấy và khô cứng. Đoạn bà cố tìm một việc gì đó để làm hay nói đôi lời âu yếm với người chồng rất tốt của mình, mời ông ăn thức này thức nọ, và khâu vá lại quần áo cho ông. Bà yêu chồng. Ngay cả sau thời kỳ say đắm, bà vẫn còn có thể yêu ông. Song đôi khi bà bên mé giường mình và nói một mình: mình không yêu anh ấy trọn vẹn, chưa đâu, anh ấy chưa hề thấy bằng chứng của tình yêu. Giá bà có thể quay lại và chỉ cho ông thấy đứa con trai của hai người thì mọi chuyện sẽ đơn giản hơn, nhưng bà không làm được.
Thường thường bà có cảm giác như mình không có con, bởi vì bà không được quyền yêu con gái bà, ngoại trừ thảng hoặc có những cử chỉ âu yếm. Thế rồi bà nhớ lại đứa bé đã nhặt được ở Wullunya trong trận lụt, đưa về nhà trên chiếc xe của Peabody, rồi nó đã vội vã ra đi. Bà cảm thấy thằng bé, nếu bà thuần hóa được, sẽ là con bà. Rất có thể. Tất cả những gì không xảy ra trong thời kỳ lụt lội của đời họ, chỉ còn là hoài niệm đã cạn khô trong bà.
Vào cái độ tuổi này, bà trưởng trạm bưu điện nói, bà này từ lúc đầu đã tàn tạ, nhưng hình như chẳng thiết gì cả.
Amy Parker ghét bà trạm trưởng, nhưng vì hai người đã kết bạn với nhau nên mỗi khi đi vào làng, bà vẫn ghé lại chuyện trò giây lát. Vả lại cũng là dịp để nghỉ chân trên đồi.
Bà thường hỏi: “Bà Gage có nhà không? Chắc chẳng có, phải không?”
Và bà Gage lao vụt ra.
- Tôi vẫn chưa xem, bà chị ạ. - Bà nói - vẫn cái máy điện thoại. Thật khốn khổ với nó. Tôi không định nói là nó chẳng bổ ích gì. Tôi ngồi đây suốt ngày nghe đầu dây nói. Sáng nay chúng tôi có Lithgow gọi. Chị sẽ ngạc nhiên đấy. Nhưng dĩ nhiên tôi vẫn là một viên chức, không phải thường dân.
Thế đấy, bà Gage đang thao túng sinh mệnh của mọi người với đôi bàn tay vàng võ, do đó càng ghê tởm hơn, tuy bí hiểm, gây ấn tượng đối với bà Parker.
Nhưng ngày hôm ấy bà Gage không thao túng được đường dây hoặc nó đã bị cắt. Bà đang rối tinh lên. Bà chạy ra ngoài. Mắt bà trợn như hai quả bóng sứ và hơi thở hổn hển.
- Bà Parker, - bà gọi to. - Tôi chẳng bao giờ ngờ lại đến nông nỗi này. Ông Gage nhà tôi.
Amy Parker như hầu hết mọi người đã quên hẳn khỏi đầu ông chồng của bà trưởng trạm. Nhưng bà trạm trưởng bưu điện vội nắm lấy tay bà với bàn tay nóng rực, dắt bà đi bằng bàn tay khô, xương xẩu.
- Ông ấy tự tử rồi, chị ạ, - bà thông báo, xót xa về cảnh ngộ của mình. - Treo cổ trên cây ở cuối sân. Bằng hai chiếc thắt lưng. Một chiếc đã cũ, tôi chưa nom thấy bao giờ, hẳn ông đã nhặt được. Ông treo cổ ở kia. Chị ơi, nom kinh quá. Ông ấy cứ đung đưa. Rất chậm. Nhưng gương mặt thì rất thanh thản.
Vì vậy bà Amy Parker, không được chuẩn bị trước, cứ để mặc cho bà ta lôi đi. Bà nom lố bịch và nóng nực.
- Bà Adam đã đến giúp tôi với cái xác. - Bà trưởng trạm nói. - Khá tươm tất, coi được. Các bà ở đây vừa mới vào thăm, và ngồi chia buồn với tôi một lúc.
Đúng là có bà Hobson, bà Mulvaney và một bà đeo mạng.
- Ít ra bà cũng có bầu bạn, - bà Amy Parker nói. Bản thân bà chẳng muốn nhìn cái xác lúc này.
Bà Mulvaney chít răng.
- Bỏ lại vợ góa hay thật đấy, - bà Hobson nói.
- Thế đấy, - bà Gage hét to. - Thế đấy.
Mọi người đều ngạc nhiên, bởi vì cho đến lúc ấy bà vẫn tỏ ra thoải mái và nhẫn nhục.
Nhưng bà Gage cảm thấy ngạt thở vì sự tàn ác của đời bà. Bỗng nhiên bà thấy mình phải nói ra. Bà là con gái của một viên thanh tra tiểu học, ngụ ở một thị trấn duyên hải nào đó. Họ sống trong một ngôi nhà nhỏ hầu như chôn vùi dưới các bụi tú cầu, nơi khiến cha bà rất tự hào, nhưng đã biến họ thành một gia đình xanh xao vì sống giữa loài thảo mộc, nhìn ra ngoài qua những lá to và thở hít không khí ẩm ướt xanh lục. Bà đã gặp gỡ chồng mình khi ông đang câu cá với một chiếc cần bên con đê chắn sóng. Bà nhìn thấy con cá lấp lánh khi ông giật nó lên bờ, bằng một cử chỉ bậc thầy, tuy cánh tay ông gầy guộc. Con cá thật đáng yêu. Rồi cả hai đều nhìn con cá. Bà sợ rằng sẽ làm hỏng niềm vui của ông bằng bất kỳ một lời nhận xét nào, vì ông đang mải mê với con cá, hay phải chấp nhận do sự ngẫu hứng đáng sợ nào đó, ông lại tặng bà, trái với sở thích của mình, về nhà họ ăn cá, luộc lên, cho thêm nước sốt, mời chàng trai cùng ăn, nhưng chàng đã từ chối, nói rằng chàng không thích những con cá bị nấu. Sau đó chẳng bao lâu ông cưới người được tặng cá, không vì lí do gì ngoài sự không thể tránh khỏi đáng kinh sợ. Rồi hai người bắt đầu hiểu biết nhau. Họ đi đây đi đó. Như ai cũng biết, ông Gage là một người ốm yếu, ông không có cằm, đôi mắt yếu đuối nhưng tao nhã, không nhìn thẳng vào người ta. Họ đi đây đi đó, sống trong những thị trấn màu nâu nóng bức, những ngôi nhà mục nát sặc mùi khô khốc, trong những căn lều, và thậm chí, dưới vỏ cây. Trong khi đó, chồng bà nhận việc, rồi thôi việc. Ông làm thợ máy cho đến khi tay ông rã rời. Ông có tài về nghề mộc, nhưng mùn cưa ảnh hưởng tới hô hấp của ông. Đôi khi ông ngồi suốt ngày này sang ngày khác không nói một câu, để sỉ nhục một người phụ nữ. Ông cứ ngồi nhìn cái đĩa không, như thể nó là một vật quan trọng, hay ngồi trên khung giường sắt cũ dưới cây tiêu, mặc áo may-ô, như mọi người đều biết, chỉ ngồi thế thôi. Đã bao nhiêu năm, dĩ nhiên kể từ ngày người phụ nữ làm công việc bưu điện, do dũng cảm và do cần thiết. Bà đã ở Durilgai nhiều năm, và trước đó ở một thị trấn nhỏ khác. Bà những muốn kể thêm nhiều chi tiết nữa về cuộc đời của mình với người chồng quá cố, ngay cả những chi tiết vật chất, để sau này cũng được.
- Chỉ để cho các chị thấy, - bà nói - người đàn bà có thể chịu đựng những gì.
Tóc bà bắt đầu nom rối tung.
Nhưng Amy Parker nhớ lại người chồng của bà trưởng trạm bưu điện quỳ gối bên bụi cây mạng nhện, hy vọng ông ấy không bị phơi trần một cách nhẫn tâm như thế.
- Bây giờ ông ấy chết rồi, bà Gage ạ. - Bà nói.
- Thế tôi thì sao? - Bà trưởng trạm rít lên. - Tôi còn sống. Hay chỉ ngắc ngoải.
Bà gây ra những tiếng động khô khốc, như lòng bàn tay.
- Tôi không bảo bị tổn thương, hay phanh phui nhưng tôi được giúp đỡ để hiểu rõ là tôi chẳng hiểu gì về mình cả, - bà nói - chẳng hiểu bất kỳ cái gì.
Bà Mulvaney chút răng.
- Này, - bà trưởng trạm nói, vừa gỡ mái tóc tuyệt vọng trên trán đã bắt đầu ẩm ướt, - tôi sẽ cho các bà xem một thứ giải thích được điều tôi định nói. Xin đi lối này, - bà nói, dịch cái đai lưng của chiếc váy đen. - Nó sẽ minh họa được, - rồi bà cười vang.
Mọi người đều sợ, nhưng đều đi theo, bà Mulvaney, bà Hobson, bà Parker, và người đàn bà đeo mạng.
Trước khả năng có thể có một hồn người đâu đó trong một cái hộp hay được ghim vào giấy, người ta đã quên là có một người chết nằm trong nhà. Có tiếng thở của các bà khi bà trưởng trạm mở cửa một phòng. Trong gian phòng có những đồ đạc thuộc loại mọi người đều biết, và tiếng đồng hồ gõ nhịp thời gian. Có lẽ cũng có mùi một người đàn ông đang nằm ở đấy. Mùi vẫn còn vương lại, sau khi người ấy đã ra đi, thậm chí sau khi người ấy chết.
- Xem này, - bà trưởng trạm bưu điện nói với một giọng khách quan hơn, gần như trịnh trọng. - Hãy nghe đây! Tôi chẳng bao giờ thổ lộ với bất cứ ai, đương nhiên là thế, bất kỳ một việc nào như thế này đang xảy ra. Nhưng vì bây giờ ông ấy đã đi rồi, - bà nói rất cung kính, bởi vì dẫu sao cái chết cũng phải được kính trọng, bất kể là con sâu cái kiến, - và nghĩ rằng chúng ta là bạn cả, tôi muốn công bố lần đầu, cũng hy vọng là lần cuối.
- Đó là gì thế? - Bà Hobson hỏi.
- Đây là bức tranh sơn dầu, - bà trưởng trạm nói vẫn cái giọng trịnh trọng đều đều.
Bà trỏ ngón chân vào những vật đang tựa vào đám đồ đạc, xếp chồng vào nhau hoặc bày riêng lẻ. Rồi bà chạy đến bên chúng như một cô gái, rất nhẹ nhàng và bắt đầu hăng hái sắp xếp các bức họa thành hàng dài xấu hổ. Bà muốn bộc lộ tận cùng của đời mình cho những người phụ nữ mà bà đã đưa vào. Bà hoàn toàn bị kích động bởi triển vọng sẽ tiết lộ tất cả.
- Đấy, - bà nói, quỳ gối, quay lại nhìn các bạn, chìa cho họ khuôn mặt vàng võ, như để biến thành đá hay giải tội, bởi lúc này bà dửng dưng với chúng, một trong hai đều đáp ứng sự mong mỏi của bà. - Đây là câu chuyện cuộc đời chúng tôi.
Bà Mulvaney chút răng.
- Thế ông ấy điên à? - Bà Hobson hỏi, chẳng rõ chuyện gì đang xảy ra.
- Tôi không biết, - bà trưởng trạm nói với một giọng khủng khiếp, như muốn nói toạc ra, cho chính mình nhiều hơn là cho người nghe.
Người phụ nữ che mạng tiến lên trước để xem cho dễ hơn. Sau khi đưa đầu lưỡi liếm môi và vướng phải cái mạng, bà nâng nó lên, nó đã lỗi mốt, hoặc giả đã lỗi mốt rồi lại thành hợp thời.
Bà nói:
- Rất thú vị. Nhưng dĩ nhiên các công trình nghệ thuật thật sự chẳng chứng minh điều gì cả. Chúng phải được đánh giá do chính chúng mà thôi.
Bà Hobson và bà Mulvaney căm thù nhìn người lạ mặt, nhìn cái mà họ chẳng hiểu được. Đó là một khuôn mặt đen sẫm vừa mới nói, và tệ hơn nữa, có lẽ là người ngoại quốc.
- Bà thì sao cũng xong, bà Schreiber ạ, - bà trưởng trạm nói, đang quỳ bỗng đứng lên. - Bà có thể phán xét những gì bà không trải qua. Còn tôi, cứ mỗi nét bút là tôi rớm máu, - bà thét lên - những thứ này.
Và bà đá một bức tranh.
Bà Mulvaney và bà Hobson mồm há hốc, rụt lại trước sự táo bạo của bà trưởng trạm. Bởi vì bà ta đã quật Chúa Ki-tô báng bổ mà ông chồng quá cố của bà đã vẽ, rõ ràng là ở cạnh một hòm đựng trà, lúc này đã hơi vênh. Lúc đầu đó là một loại Chúa Ki-tô khốn khổ, như một tay thợ gầy gò, một con người như một con gà đã vặt lông chưa chịu đựng đến tột cùng của sự sỉ nhục, nhưng sẽ cam chịu thêm nữa, đến mức rạch dài và sâu bằng một cái chai vỡ, thứ vũ khí ti tiện nhất, rồi để mưng mủ dưới đàn ruồi nâu, bên cạnh đường xe lửa.
- A…a… - Bà Mulvaney và bà Hobson thở dài. - Khủng khiếp quá.
Họ vô cùng sửng sốt và sợ hãi. Họ muốn quay lưng lại, chạy ra khỏi căn phòng điên loạn, không nghĩ đến nó nữa.
Nhưng Amy Parker, người nãy giờ vẫn trầm lặng, bởi vì bà mở lòng tiếp nhận sự trìu mến hết sức và cái đẹp, không hề nghi ngờ những đồ trang sức bằng máu mà ông chồng bà trưởng trạm đã đeo vào tay Chúa Ki-tô. Rồi da thịt bỗng làm bà xúc động, chất gỉ đồng co rúm và mỡ nhờn rỉ ra của nó. Bà biết rõ điều này, như thể giấc ngủ đã kể cho bà. Những chân lý vĩ đại chỉ được hiểu thấu một nửa khi ngủ.
Bà nhìn bức tranh Chúa Ki-tô, và biết rõ về nó. Không phải xê dịch nhiều, bà nhìn quanh các bức tranh khác mà chồng bà trưởng trạm đã để lại. Hình như ông đã vẽ rất nhiều cây cối, trong những tư thế khác nhau, cành lá xếp lại như đang ngủ hay đang trầm tư, hay di chuyển trong sự quằn quại. Và những cái cây chết. Hình dáng màu trắng của những thân cây xem chừng chẳng khô khốc và ngờ vực tý nào, không như xương cốt trên cánh đồng. Như thế là một nét vẽ cũng có thể biểu hiện tình yêu. Trước giờ bà chẳng hề nom thấy một nét vẽ có vẻ đẹp thỏa đáng. Cái này xui bà yêu thương người hàng xóm.
Rồi những người đàn bà đang ngắm nhìn bỗng cười vang.
- Thế cái này là gì? - Bà Mulvaney cười vang.
- Ồ, kìa! Hử? - Bà Hobson cười ầm lên, đằng sau ngón tay đeo nhẫn cưới.
Các bà bỗng rít lên, lắc lư thân hình to béo và nách sạm đi.
- Vâng, - bà trưởng trạm nói, sẵn sàng chịu đựng, - đó là thứ xấu xa nhất.
Bà sẵn sàng hoan nghênh một cú đấm vào lưng. Bản thân bà cũng muốn cười một cách cay độc nhất, vì người đàn bà thô kệch ấy như tạc từ trong tranh, điều này Amy Parker thấy rõ.
Hình dáng này vừa tỉnh giấc. Trong con mắt hạnh nhân có một mầm hiểu biết đang lớn dần và chẳng bao lâu sẽ đâm chồi nảy lộc. Mặt khác hình dáng người phụ nữ đang tỉnh giấc thật trần trụi, ngoại trừ chòm lông bảo vệ cho những phần kia của thân thể một cách thi vị ngây thơ. Sự giản dị của bà là sự giản dị của im lặng và đá. Đôi vú của bà vững chắc như hai hòn đá, và với hai bàn tay nặng nề nhưng có xúc cảm, bà đang cố với tới mặt trời, cái mặt trời bản thân nó cũng trở thành hòn đá, nếu nó không ánh lên chói chang như thế.
Suốt thời gian đó bà Mulvaney và bà Hobson cứ đung đưa và nhạo báng. “Cái gì nữa nào?” Họ thét lên trong khi nước mắt trào ra từ khuôn mặt da thuộc của họ.
Cái mùi vui vẻ của họ đã trở nên ngột ngạt.
Rồi Amy Parker, nãy giờ đang đứng giữa sự náo động, bỗng nhận thấy trong góc, dưới chân người phụ nữ, cái gì giống như xác một con kiến mà chồng bà trưởng trạm đã cào trên sơn bằng một vật sắc nhọn, từ bên trong cái xác đó một ngọn lửa le lói, bằng sơn màu sáng, đang đua về cường độ với cái mặt trời mà người phụ nữ đang vươn tới.
A, - Amy Parker thốt lên, sực nhớ ra và đỏ mặt.
- Bây giờ các bà sẽ hiểu, - bà trưởng trạm nói quay về phía mọi người. - Tôi không còn gì nữa để giấu. Chẳng qua tôi cần phải cho người nào đó xem. Tuy nhiên, chúng tôi nhiều khi cũng hạnh phúc. Tôi nấu cho ông ấy ăn những thức ông thích. Ông rất thích ăn bầu dục. Tối tối, chúng tôi thường cùng ngồi ngoài trời. Ông ấy biết tên các vì sao.
Đoạn bà đưa tay phủi bậu cửa sổ, và xác mấy con ruồi rơi xuống, cùng ít bụi.
Lúc này chẳng ai đặc biệt lắng nghe. Hoặc giả họ đã nhìn thấy nhiều quá rồi nên không thể nhìn thêm nữa, hoặc giả họ sốt ruột muốn trèo trở về căn phòng tâm tư của họ. Thế là họ bắt đầu lẻn ra.
- Bà tốt quá, bà Schreiber ạ, - bà Gage nói, với cái giọng uốn éo người ta thường hay dùng khi nói chuyện với một người giàu và có quyền lực.
Bởi vì bà Schreiber, là người nước ngoài, cũng giàu có. Bà đã mua ít tài sản ở những vùng nọ, cũng đôi khi làm bơ, để cảm thấy nó trên bàn tay.
- Quả là rất thú vị, - bà Schreiber nói giọng khàn khàn, vừa đưa tay kéo cái mạng đen xuống. - Tôi phải quên cái chuyện này đi một tí, bà Gage ạ. Rồi thì nó sẽ khác.
- Nhưng nó sẽ chẳng bao giờ rời tôi. - Bà trưởng trạm thét lên, trong khi bà đeo mạng trầm tư bước đi.
Những người khác cũng ra về.
- Bà Parker thân mến, - bà trưởng trạm gọi với và bước theo bà Parker trong tiếng váy sột soạt. - Tôi sẽ không nói gì về chuyện ấy với bất kỳ người nào khác.
Amy Parker cúi đầu và nói rằng bà cũng sẽ không nói.
Khi bà bước vào, chồng bà hỏi:
- Amy, từ nãy giờ em đi đâu đấy?
- Đến với bà trưởng trạm, - bà nói. - Ông Gage đã tự tử. Ông ấy treo cổ lên cây ở trong sân.
Stan Parker, giống như những người khác, không quen biết ông chồng của bà trưởng trạm, nhưng nghĩ rằng cái chết có thể đến với bất cứ người nào ông biết tên.
- Nói tiếp đi. - Ông nói.
Và hỏi tại sao, trước khi ông nhận ra.
Amy Parker mang chén và đĩa ra.
- Bà Gage cho chúng em xem mấy bức tranh ông ấy vẽ, - cuối cùng bà nói.
- Loại tranh gì? - Ông chồng hỏi.
- Loại tranh sơn dầu - bà nói. - Nhưng chúng ta đừng nói gì về chuyện ấy cả.
Bà bắt đầu bày bát đĩa. Bà bỗng run lên trước vẻ lạ lẫm của chính ngôi nhà mình. Đôi bàn tay bà như những con chim lạ đang bay chập choạng giữa những chén tách.
Và Stan Parker thắc mắc không hiểu tại sao chẳng bao giờ mình có ý định tự tử. Đến lúc nào thì cần thiết phải làm thế? Ông cắt bánh mì. Ông băn khoăn. Không khí loãng của buổi sáng trôi lững lờ quanh nhà quệt vào giấy dán tường và lay chuyển chúng. Đến độ nào thì sự vững chắc sẽ tan rã? Nhưng điều này vẫn chưa được quyết định.
Sau khi thi hài đã được chôn cất bên bụi cây ở nghĩa trang, Stan Parker quên bẵng đi, nhưng vợ ông vẫn còn bận tâm, về chuyện chết chóc ít hơn là về quan hệ giữa bà và người đã khuất. Bà nhớ mãi khuôn mặt xám xịt của ông khi quỳ trên đá sỏi ngày hôm đó. Khuôn mặt ấy nhìn bà, nhưng có thể là với một vẻ mặt bà không nắm bắt được. Hoặc giả có cái gì đó bà không nhớ nổi? Bà lục lọi trong đầu dữ dội, nhưng nó tuột mất, cho đến khi bà trên thực tế giống như người phụ nữ huênh hoang đang vươn tới mặt trời sáng rực. Thân thể của bà là cái bà có được.
Vì thế bà bỗng bồn chồn. Bà có thể đóng xe ngựa và đánh xe đi, dây cương nằm trong tay. Bầu trời, màu xanh biếc, đang di động với những vòng xoắn nhỏ nóng vội. Toàn bộ cánh đồng ngô cứ theo đuổi bà một cách trắng trợn với những điều bí mật cần phải đoán ra. Rồi bà bỗng nổi giận, làm cho con ngựa đang bình tĩnh phải hoảng sợ. Trong dịp như thế này, - bà tự nhủ, vừa quất roi da, - mình sẽ đi thăm gia đình O’Dowd, phải rồi. Và bà đánh xe đi tiếp, đôi bàn tay trở nên vững chãi hơn, giờ bà hài lòng là cái mục tiêu vững chắc này đã được cụ thể hóa. Tinh thần bối rối chẳng len vào được sự có mặt của nhà O’Dowd. Vì thế bà tiếp tục cho xe chạy, trong tiếng leng keng, trong cỗ xe nhỏ lịch sự thời đó bà có, với một chú ngựa con ngoan và chắc nịch. Cây cối chạy dài. Mình không nên suy nghĩ gì cả, - bà nhủ thầm, - về những gì mình không hiểu.
Khi Amy Parker đánh xe lên con đường mòn về phía nhà O’Dowd với lòng tin và tấm lưng rộng, không có dấu hiệu có người ở. Cái nhà kia, cả lợn nữa, và một con lợn con vàng còi cọc, vừa mới ốm, bệnh giun hay bệnh gì đó, đang khịt khịt đánh hơi một cọng bắp cải, vẻ không hăng hái lắm. Đã lâu lắm rồi Amy Parker chưa gặp lại bà bạn, bà hàng xóm O’Dowd, dù chẳng có vụ cãi vã thật sự nào, mà thật ra vì không người nào cần cầu cạnh người kia điều gì. Bây giờ bà nhìn quanh, nhìn ngôi nhà xa lạ mà bà đã quen biết và đã quên đi. Nó vẫn đứng đấy, vững vàng, như nhờ một kết cấu đặc biệt của trọng lực. Những mảnh của nó treo lên. Những mảnh đã bị lôi xuống, cho tiện vào một ngày ướt át để nhóm một ngọn lửa nhỏ, để cứu một linh hồn phiền muộn với một chiếc rìu trong lán.
Bây giờ, trên thực tế, có một ngọn lửa ở giữa sân, hay là một đống tro đen ảm đạm có khói bên trên, khi bốc lên khi thụt xuống, nom bẩn thỉu. Có lửa và cả mùi hôi thối. Mùi xông ra, dưới hai lỗ mũi - không chút lầm lẫn chúng là hai ống trong sọ não, phải chịu sự tra tấn phi lý.
Amy Parker mò mẫm trong mùi hôi thối ấy, buộc chú ngựa con đang khịt khịt.
Sau khi bà hàng xóm nhìn ra ngoài, tra vào hàm răng giả đã cất trên giá bếp, và ra ngoài bậc thềm, sửa lại chiếc váy một chút, Amy Parker nói, như thể bà mới gặp bạn ngày hôm trước, biết làm sao, đã lâu quá mà:
- Chị đang đốt cái gì đấy, chị O’Dowd?
- Ồ, - bà hàng xóm nói, che miệng, - một đống lửa nhỏ thôi.
- Một đống lửa nhỏ. Một mùi hôi thối khủng khiếp, - bà bạn Parker nói.
- Ồ, - bà O’Dowd che miệng nói, - chúng tôi đang đốt cao su cũ đấy mà.
- Cao su gì đấy?
- Lốp xe cũ ông ấy mua rẻ được.
- Thế ra hai người có xe riêng à? - Bà Parker hỏi.
- Ông ấy không chịu lái bất cứ thứ gì chạy bằng rượu, - bà O’Dowd che miệng nói. - Ông ấy sẽ uống sạch ngay. Không, đó là lốp xe cũ ông ấy mua đầu cơ, rồi chán, nên chúng tôi mang đốt.
- Cũng là một cách, - bà Parker nói.
- Mấy thứ bẩn thỉu, - bà O’Dowd nói, đưa chân đá đống lửa.
Bởi vậy hàm răng bắn ra từ phía sau bàn tay và may mắn mắc vào ve áo choàng của bà.
- Những cái này mới, - bà nói bằng đôi lợi. - Đây là hàm răng tôi gửi thư đặt hàng, thế mà quân chết tiệt lại bật ra.
Nó giống như một chiếc khóa giày bóng loáng mà bà gắn lại.
- Thật là đồ quỷ sứ, - bà nói đằng sau bàn tay. - Nhỡ mà nó rơi vỡ thì thật phí tiền. Cho nên lúc nào tôi cũng phải để tay trước mặt, chắc chị cũng thắc mắc rồi.
- Tôi thì tôi sẽ bỏ nó ra. - Bà bạn nói.
- Đúng đấy, - bà O’Dowd nói - cũng là một ý kiến. Tôi chẳng đeo vì xã giao đâu. Chẳng qua mình đã mua thì phải dùng thôi.
Rồi bà cho nó vào túi, và hai người cười vang. Họ vui mừng thấy nhau mỗi khi gặp gỡ. Người này nhắc nhở cho người kia rằng mình đang tồn tại. Bà nhận ra rằng bà đang phải chịu đựng.
Vì thế cả hai cười thoải mái, quên mọi chuyện trên đời, cho đến khi khói xông vào họ.
- Khói đen cả bụng, - bà O’Dowd ho. - Lỗi không phải tại chúng tôi, mà tại ông cảnh sát.
- Ông cảnh sát làm gì? - Bà Parker quay ra sau ho, suýt chết ngạt vì khói đen.
- Bà là bạn cố tri nên tôi mới nói, - bà O’Dowd nói vừa cầm tay bạn, - và chỉ cho chị xem. Nhưng chị Parker, chị hứa là sẽ không bao giờ kể cho ai nghe cả, không bao giờ nhé?
Amy Parker hứa, vì bà háo hức muốn nghe, hai người quay trở lại ngôi nhà ọp ẹp.
- Bởi vì bọn họ, họ không muốn để yên cho những người yêu tự do, cảnh sát và tất cả, - bà O’Dowd nói, - họ luôn chõ mũi vào. “Được rồi,” ông ấy bảo tôi, “cứ để chúng bám, rồi chúng ta sẽ cho chúng ngửi một thức gì đó.” Và thế là chúng tôi mang lốp này ra đốt.
Lúc này hai người đi đến một cái chạn thức ăn nhỏ, có thể hoặc chưa từng có ở đó trước đây, qua một lớp màn làm bằng vải bao được căng ra vì một lý do nào đó. Mọi thứ đều tăm tối và mùi trở nên phức tạp hơn. Trong khi mò mẫm đi Amy Parker đá phải một tảng mỡ cừu đặt ở đấy, dùng để đánh bóng mấy đôi bốt hoặc thứ tương tự thế, mà lũ chuột hay gặm nhấm.
- Ông ấy bảo: “Ngọn lửa này sẽ làm chúng khổ đây.” - bà hàng xóm nói - “Cái mùi của nó thì ghê gớm phải biết, tuy không ghê gớm như mùi kia.”
Cái mùi kia thực sự đã bắt đầu chiếm thế thượng phong khi hai người lò dò về phía bếp, đạp lên những tấm ván hăm dọa và thật sự làm cho người ta ngã xuống.
- A, - bà O’Dowd nói, - bước dài một tí bà chị ơi. Bọn kiến trắng đấy. Chúng khủng khiếp lắm. Chúng tôi sẽ trị chúng khi nào ông ấy có thì giờ.
Thế là họ tiếp tục đi, vào bếp, nơi cái mùi ghê gớm đập vào mũi họ, và bà O’Dowd mỉm cười.
- Bia đấy à? - Bà Amy Parker hỏi, mồm há hốc vì khói.
- Chúng tôi chẳng bao giờ gọi nó bằng tên. - Bà O’Dowd nói với một nụ cười duyên.
Bà quấy chiếc xoong, từ đấy một luồng hơi biếng nhác lướt qua khuôn mặt của bà, làm cho nó có màu sắc ấm áp mà thông thường không có; mặt bà mang màu của vỏ cây, da thuộc và những thứ màu nâu khô khốc cũ kĩ, vì mặt trời chiếu vào bà khá lâu.
- Chúng tôi buộc phải làm thế, - bà giải thích, - kể từ ngày ông ta bị cấm không được dùng rượu nặng và chi phí cũng là điều phải xét đến. Thế cho nên tối tối, chúng tôi ngồi và uống một cốc thứ nước vô hại này. Có khi cả buổi trưa nữa. Uống một vài cốc cũng chẳng hại gì mà lại linh lợi hơn.
- Vậy chị cũng dính vào ư? - Amy Parker hỏi.
- Chị nói “dính” là thế nào? - Bà O’Dowd dừng lại. - Nếu một linh hồn khốn khổ bị đau đớn đến thế, thì điều chí ít có thể làm được là bầu bạn với người ta, trong phạm vi có thể. Tôi không rượu chè gì, chị Parker ạ. Chẳng qua tôi muốn chồng mình bớt khổ, bằng cách cảm thông với ông một tí.
Bỗng có tiếng ợ, tiếng ngôi nhà lắc lư và tiếng kéo chuông, khiến bà đánh rơi cái thìa.
- Lại lão ta rồi, - bà nói. - Lão dùng bữa xế chiều.
Tiếng chuông rung dữ dội. Mấy buồng phổi căng lên.
- Mụ già, mụ già! - Tiếng O’Dowd vang lên, giọng ảm đạm và tàn nhẫn.
- Ông ta ấy đùa thôi, - bà giải thích, mở nút một chai bia cũ và rót thứ nước giải hòa ấy vào một thứ gì đó đựng được trong tầm tay. - Ông ấy đã nghĩ ra được một kiểu chuông báo, như chị đã nghe, và sẽ thấy, nó tài tình lắm.
Dẫu Amy Parker không muốn nhìn thì tình thế cũng bắt buộc bà phải chứng kiến, cái tình thế đã khiến bạn bà - bà hàng xóm đi vào một lối hẹp với một khay thiếc. Chẳng mấy chốc hai người nhanh chóng sang phía bên kia của ngôi nhà, nơi O’Dowd ngồi, trên hiên, cạnh những bụi hoa vân anh.
- Đừng có mà rung chuông nữa, - vợ ông nói. - Có bà khách đến thăm chúng ta đây.
- Bà nào? - Ông hỏi và quả có dừng lại, mặc dù cái chuông được điều khiển bằng sợi dây buộc vào ngón chân ông vẫn tiếp tục lúc lắc leng keng một hồi nữa.
- Tôi chẳng bao giờ xúc động vì những cuộc viếng thăm của đàn bà cả, - O’Dowd nói. - Nhưng nếu đã xảy ra thì cứ xảy ra. Bà Parker, bà dùng một cốc với chúng tôi. Tôi sẽ gánh mọi hậu quả. Nếu nó không hại tì vị của bà thì nó sẽ làm bà phấn chấn lên.
- Cám ơn. Tôi không cần thứ đó. - Amy Parker nói.
Lúc này bà hối hận về việc cao hứng đến thăm gia đình O’Dowd. Sự đúng mực khiến bà có vẻ đứng đắn.
- Chị ấy trên tầm thứ ấy. - Bà O’Dowd nói, cái mũi bà không hẳn là không muốn dí vào trong cốc.
- Tôi không phải thế đâu. Chị cũng biết đấy. - Bà Parker nói.
- Chị ấy là người sang trọng, - bà O’Dowd nói tiếp, gạt một vài con ruồi ra khỏi cốc bia.
- Tôi không phải như chị nói, chẳng qua tôi không rượu chè, và kiên quyết giữ như thế mãi.
- Đời như thế thì khủng khiếp quá, - ông O’Dowd run lên. - Lạnh như đá. Tôi không thể nhìn hình ảnh phản chiếu của mặt mình trong gương nếu nó không nóng bừng lên.
Nhưng Amy Parker đang mải nhìn mấy bụi vân anh. Bà thắc mắc tại sao mình lại đến đây.
- Bách nhân bách tính. - Bà O’Dowd phân giải. - Thế nhưng chuyện trò với bạn bè cũng thích, nhất là có bạn ghé thăm.
Bà bắt đầu xoay xoay cái cốc và khẽ đung đưa cổ chân, nghiêng đầu sang một bên, như các bà mệnh phụ vẫn thường làm.
Bà nói:
- Chị Parker à, con trai chị, cậu Ray ấy, có khỏe không, tôi hy vọng thế? Đã lâu chúng tôi không nghe tin gì về cậu ấy.
Bà ta đang nhìn, Amy Parker thấy rõ.
- Ray, - bà mẹ nói giọng dứt khoát, thản nhiên - đi miền Tây rồi. Nó có thư về. Nó đang có công việc.
- Công việc? Thế thì hay quá. Thế công việc gì đấy? Tạp hóa hay kim khí?
- Nó không nói, - bà mẹ lại nói, cũng với giọng dứt khoát, tự tin. - Không phải lúc nào cũng dễ dàng giải thích công việc làm ăn được, một công việc quan trọng, nói tóm lại thế.
- Đúng thế, - bà O’Dowd nói.
Nhưng bà vẫn nhìn. Đôi mắt bà khá nhỏ. Bà đang tìm một khe hở, qua đó có thể xoay một lưỡi dao vu vơ vào một buổi chiều nào đó.
- Ồ, công việc, - ông O’Dowd rầu rầu nói. - Đáng lẽ ra tôi đã làm một công việc gì rồi, nếu tôi không bị một tên tôi quen ở Forbes lừa, về một phát minh mà tôi nghĩ ra cách đây mấy năm, vặt lông một con gà trống choai bằng phương tiện cơ khí. Đó là một cái máy thay thế giống như cái này, - ông nói, xòe bàn tay thành những chữ V và nhổm người lên, để giải thích những cái rắc rối của chiếc máy.
- Bà cứ tóm lấy con gà ở đằng cổ, như thế này, rồi vặn một cái. Rõ chưa? Rồi vò lông nó cho đến lúc nó chẳng còn hy vọng gì mà phải rụng hết. Bà hiểu chưa? Đó là cái máy đơn giản nhất, bà Parker ạ, thế là anh chàng xoáy luôn, rồi chẳng bao giờ quay lại từ ngày ấy, người ta bảo tôi thế.
- Cái máy cổ lỗ sĩ ấy! Bà O’Dowd nói. - Thế còn Thelma, chúng tôi nghe nói con bé làm ăn khá lắm.
Bà mẹ hắng giọng:
- Vâng, - bà đáp lại ngay - Thelma đã đính hôn rồi.
- Chà chà, - bà O’Dowd nói. - Thật ư? Thelma đính hôn rồi?
- Với một cố vấn pháp lý - bà mẹ nói - một ông tên là Forsdyke, nó là thư ký riêng của ông ta. Kể cả sau khi đính hôn.
- Tôi chỉ muốn vặn cổ thằng cha ấy, - ông O’Dowd nói - như vặn cổ một chú gà choai. Nó tên là gì tôi quên rồi.
- Lạ thật, con bé Thelma, - bà O’Dowd nói. - Một con bé xanh nhẽo như vậy, nó mà chết thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên.
- Nhưng nó không chết. - Bà mẹ nói.
Trong khi họ bồng bềnh trên con thuyền tình bạn đầy hiểm nguy. Amy Parker cứ thắc mắc không hiểu tại sao mình lại đến. Hoặc giả bà đã biết mà quên khuấy đi. Hay thói quen là động lực của phần lớn mọi hành động, dẫu sao, họ cũng đang ngồi đấy, cả ba phần nào phụ thuộc vào sự thăng bằng của người kia, trong ánh sáng dìu dịu của buổi chiều có những con chim nhỏ bay ra bay vào từ các bụi vân anh.
- Với bọn nhóc và công việc làm ăn, ta cứ ngồi yên là hơn, - ông O’Dowd nói, vừa nhổ toẹt qua hai hàm răng của chính ông.
- Đó là thứ ta được ban phước, - vợ ông nói, uống cạn thứ nước màu nâu. - Và ông thì ngồi ì mông mãi, thứ Năm rồi đấy, ban phước hay không thì cũng giúp tôi đi.
Và bà đặt cốc xuống.
- Bà là một con bò, - ông nói - muốn sử dụng sự thật như thể nó là một vũ khí. Đập mạnh một anh chàng khốn khổ đầu tiên vào đúng cái đầu, là thế đó. Bà quả là một con bò cái chết tiệt.
Ông ngồi sâu vào ghế, sau khi khạc một lần nữa giữa hai hàm răng vẫn còn rất trắng, Amy Parker nhìn thấy và nhớ lại rằng ông O’Dowd có thể cắn quả óc chó với những chiếc răng ấy và phun vỏ ra rất xa.
Nhưng bây giờ ông chán nản.
Vợ ông bắt đầu ngân nga, giơ cao tay lên, nom vẫn đồ sộ theo cách của họ, để thắt chặt một cái lược giả đồi mồi bà đang cài. Bà ngân nga cái giai điệu vẫn lẽo đẽo theo bà từ thời con gái.
Họ cứ ngồi như thế nom uể oải. Họ không hoàn toàn như phỗng. Ông O’Dowd nom ủ rũ. Ông ngồi cằm tì vào ngực, đưa mắt nhìn Amy Parker, như thể bà hầu như có liên quan đến suy nghĩ của ông. Ông là một người đầy lông lá, bà thấy rõ và run cả người.
Bà tự nhủ: A, ta phải rời khỏi chốn này.
Trời đang đẹp bỗng trở nên âm u. Bà khát khao được tung ra ngoài khỏi bầu không khí nặng nề khó bề khuấy động này.
- Chị có biết mấy giờ rồi không, chị O’Dowd? - Bà hỏi.
- Đây là một chỗ quen biết tôi đã đoạn tuyệt bao nhiêu năm nay. - Người bạn dịu dàng của bà nói, quyết tâm phá hoại một người nào đó, có thể là bản thân bà, buổi chiều hôm đó. - Mà chị chưa đi được đâu, chị Parker ạ, còn sớm lắm. Nếu ông ta có buồn chán thì ông sẽ lại phấn chấn lên. Đôi khi ông ấy ở tâm trạng như thế lại rất thú đấy.
Rồi bà rót cho ông một cốc nữa để cho ông yên, và rót một cốc cho bản thân bà, vì đồng cảm.
- Chúc may mắn, - bà O’Dowd nói. Chồng tôi có lẽ sẽ kể cho chúng ta nghe một vài câu chuyện đấy.
- Tôi quên hết cả rồi, - O’Dowd nói.
- À, tôi có nghe nói, - bà vợ ông nói - rằng ông chồng bà trưởng trạm bưu điện có vẽ tranh sơn dầu, trước khi ông treo cổ, và chưa ai từng thấy thứ gì kỳ lạ hơn những bức tranh ấy. Bà có nghe thấy không?
Và bà nín thở lắng nghe.
- Tôi có nghe, - Amy Parker nói - người ta nói.
- Loại tranh gì thế, lạy Chúa? - ông O’Dowd hỏi, ngáp dài cho đến khi chiếc lưỡi gà dựng lên.
- Cây chết và Chúa Ki-tô, - vợ ông nói, - cùng người phụ nữ trần truồng. Những thứ điên loạn, hình như thế.
- Khoan đã, - chồng bà nói. - Vẽ một người đàn bà trần truồng là điên sao? Chị Parker sẽ nói gì? Cái bức tranh điên rồ vẽ người đàn bà trần truồng, chị đã nhìn thấy như thế nào?
- Tôi có nói là tôi nhìn thấy đâu? - Bà Parker đỏ mặt nói.
- Ông say rồi, ông ạ. - Bà O’Dowd bảo chồng, mắt luôn nhìn bà Parker.
- Tôi sẽ vẽ một người đàn bà trần truồng, - ông nói, đôi mắt đỏ đảo đi đảo lại, để cho chúng hầu như bộc lộ những suy nghĩ bên trong ra.
- Nhưng ông không vẽ được, - vợ ông nói - và ông say.
- Nếu tôi vẽ được tôi biết tôi sẽ vẽ cái gì, - ông O’Dowd gầm lên. - Tôi sẽ vẽ bộ lòng của con cừu, bởi vì đó là một vật đẹp đẽ, và tôi sẽ vẽ một người đàn bà trần truồng, - ông nói, vừa nheo mắt nhìn Amy Parker, người đang sợ hãi thấy mình bị giam hãm vào một tình thế khủng khiếp, mà cũng nửa bất ngờ, - một người đàn bà trần truồng ngồi trong chiếc ghế mây, có một bó hoa vân anh đặt trong lòng.
- Ông ơi, nghe này, - bà vợ cười vang, xốc tóc lên một cách bực dọc, - tất cả chẳng qua chỉ là trò chuyện thôi. Nhưng mà ông say rồi, ông lão ơi, tôi biết mà. Mộng tưởng quá rồi. Ông mà là họa sĩ thì tôi là gì?
Bà lại cười vang, tò mò nhìn Amy Parker, lúc này đã đứng dậy ra về.
- Gượm, chị ơi, - bà O’Dowd nói, nhìn bà bạn. - Tôi có điều này muốn hỏi chị. Khi tôi trở lại. Ôi, tôi xin phép.
Và bà ra khỏi phòng, đi về phía sau, nhìn kỹ bậc hiên, đe dọa xô ngã bà nhưng thất bại.
Thế là Amy Parker ở lại một mình với ông O’Dowd. Bà không nhìn ông, nhưng chờ đợi. Hình dáng họ nom đồ sộ ngoài hiên vào lúc này và cho thấy sẽ càng đồ sộ hơn nữa.
- Bà ấy chẳng chịu để cho ai nói cả, - ông O’Dowd nói, cũng vừa đứng lên, và đang ngắm nhìn mũi giày, cố đứng cho ngay ngắn, ngắm nghía cẩn thận lớp da thuộc khô khốc. - Bà ấy sẽ giết một người đàn ông, nếu anh ta không giết bà ấy trước. Nhưng tôi không thể làm như thế được. Bà ấy là một người tốt, chị Parker ạ, chính vì thế mới gay go chứ. Dù là tranh ở trong tôi, và đó là một kiểu nói, hoặc giả là tư tưởng, những tư tưởng của tôi đáng được ngắm lắm, nếu chúng không chết từ trong bụng, nếu chúng không bị giết chết hay bị xoáy mất như cái máy vặt lông gà. Tôi là một người đàn ông bị hủy hoại.
- Ông hãy ngồi xuống đi, ông O’Dowd, có lẽ ông sẽ thấy dễ chịu hơn. - Amy Parker nói.
Bởi vì cái nhóm ngoại cỡ này trở nên ngột ngạt đối với bà. Bà chỉ muốn giơ tay gạt đi bất kỳ một sự xâm phạm nào nữa.
- Nhưng tôi định nói với bà một điều, - ông O’Dowd nói, cố với lấy cái điều ấy bằng những đốt ngón tay, - tôi cảm thấy dễ chịu.
- Trời ơi, - Amy Parker thở dài, nhìn về phía bà bạn ra đi mà không trở lại.
Những bông hoa nhỏ trên bụi vân anh lửng lơ run rẩy luống cuống, những âm thanh đỏ thắm chưa bao giờ the thé hơn lúc này.
- Đấy bà xem, - O’Dowd nói, nghiêng người về phía trước. - Tôi chẳng bao giờ kể cho ai nghe về bản thân tôi. Chẳng bao giờ nói hết. Chẳng nói cho một ai.
Ông nghiêng người về bên phải và nhìn vào bên trong chiếc áo cánh của bà Parker. Rồi ông tiến đến và đứng thẳng người.
Rồi Amy Parker biết rằng suốt đời bà đã chờ đợi ông O’Dowd làm một cái gì đó bản năng như thế này, hay không riêng gì ông O’Dowd. Do vậy bà đã không lấy lại tư thế ngay ngắn ngay tức khắc. Những bông hoa huệ quá nặng không ngẩng đầu lên được sau trận mưa, hay thậm chí dưới giọt sương nhưng phơi da thịt tươi mát của mình trong nắng.
Thế là vào thời khắc đó bà trở nên ướt át hơn, lấy lại phần nào sự phồn thịnh khi xưa. Cho đến khi bà cảm thấy kinh tởm. Rồi âm thanh của sự kinh tởm dồn lên cổ bà.
- Chúng tôi đang nói về một cái gì đó, - ông O’Dowd nói, cảm thấy ngượng ngập vì đã nói lan man.
- Có một việc tôi định hỏi chị, chị Parker ạ. - Vợ ông nói, lúc đó vừa trở lại.
Bà O’Dowd hình như đã cho đầu vào một cái xô nước. Đầu tóc bà bị ép xuống, nom thảm hại, nước ròng ròng chảy xuống mặt.
- Đầu tôi hơi bừng bừng, - bà nói. - Tôi không nhớ ra cái điều chết tiệt ấy.
- Nếu chị không nhớ ra, - cuối cùng Amy Parker nói, - thì tôi đi đây.
- Được rồi, - bà bạn nói. - Chị đừng kể chuyện gì về chúng tôi nhé?
- Tôi phải kể chuyện gì nào?
- Làm sao tôi biết rõ được? - Bà O’Dowd nói, ngắm nhìn bà Parker thật kỹ. - Chị buồn cười thật, Amy ạ, bao giờ cũng thế.
Bà Parker đi xuống bậc cấp.
- Tôi không thể trả lời được, - người đàn bà hồi xuân cười vang, mang gương mặt mịn và hai cánh tay chắc nịch.
Khiến cho bà O’Dowd đâm ra nghi ngờ, dõi theo bà bạn đang liếc mắt nhìn lại, máu bốc lên mặt, hay là ánh của hoa vân anh. Amy Parker vẫn còn nồng nhiệt. Đôi lúc ánh sáng hắt vào mặt, và lấp lánh dưới vành của chiếc mũ to.
Rồi bà đánh xe đi, để ông O’Dowd ở lại, ông trở về với tình trạng không hình dáng, của những cơ hội đã mất, những khát vọng mịt mờ hơn, bên cạnh vợ ông, người mà có lẽ đã tìm thấy nỗi bất bình lâu nay bà vẫn tìm kiếm. Hai vợ chồng O’Dowd quên không vẫy tay. Cả hai đều quá bận tâm suy nghĩ.
Amy Parker tiếp tục đánh xe. Con ngựa mượt mà lao nhanh trên đường, vì đó là đường trở về, chiếc xe lắc lư, mang lại cho tâm hồn người phụ nữ đang đánh xe một sự lãnh đạm dễ dàng đối với sự vật. Bà cứ trôi, êm ả, nhẹ nhàng như ánh sáng và dòng cây. Tất cả mọi ưu phiền canh cánh trong lòng bà suốt dọc đường đi bây giờ đã tan biến. Với bản năng, bà có thể nắm được một số vấn đề nan giải nếu nó đến với bà.
Nhưng dĩ nhiên là đã và sẽ không như thế. Vì vậy cái sức mạnh trong đôi tay đang nắm giữ dây cương cuối cùng bắt đầu làm bà bực bội. Bà liều lĩnh nhìn qua những thân cây nhẵn nhụi đang vút qua. Và bà nhớ lại một cách kinh tởm, cái thân hình lóng ngóng đầy lông lá của ông O’Dowd. Cuối cùng, tất cả niềm tự hào về sự tự do vận động và hồi xuân đã bị cảm giác ghê tởm gần như sợ hãi phủ lên. Bà chưa bao giờ bị hất ra khỏi một cái xe, nhưng điều này có khả năng xảy ra, bà nhận thấy, nếu cái trục bánh xe đâm vào một cái cột cổng, hay một bánh xe chồm lên một khúc gỗ nhỏ.
Khi đánh xe vào cái sân sau Amy Parker toát cả mồ hôi và tim đập thình thình, còn chồng bà đang thu dọn cái xô bỗng nhìn ra cửa sổ và nhíu mày.
- Muộn rồi, anh chuẩn bị bắt đầu. - Ông nói và bước ra ngoài với những chiếc xô bóng nhoáng.
- Em tới ngay đây, - bà nói, vừa trèo xuống xe khá nhanh so với một người đàn bà ở lứa tuổi ấy, hơi vụng về, vì vội vã.
Có lẽ bà cũng đoán thấy thế nên bà đỏ mặt và nhìn xuống.
- Em đến nhà O’Dowd, - bà nói. - Mất bao nhiêu thì giờ. Họ say rượu, thô lỗ, bẩn thỉu, say bí tỉ giữa ban ngày ban mặt.
Bà đi vào nhà, vừa kể lại cho chồng nghe những mẩu chuyện dường như không thể tin được, khi bà đi qua căn bếp rất ngăn nắp, vào phòng ngủ để lột bỏ bộ áo váy bà đã mặc đi chơi.
Nhưng chồng bà cười vang đôn hậu và nhẹ nhõm đi tiếp về chỗ giá đỡ đầu bò. Thỉnh thoảng ông thích nghe người ta kể về những tội lỗi của người khác, để rồi nghĩ về họ và cười vang. Vì ông chẳng phải là người xấu, nên khoan dung có lẽ là tật xấu của ông.
Amy Parker, lúc này để chân trần, mặc một chiếc áo len cũ bà vẫn mặc để vắt sữa. Đôi lúc bà nom xồ xề quá, giờ đây bà đã thấy rõ là nhếch nhác khi vội vã hoặc bị kích động. Một người đàn bà thô lỗ. Và bà bỗng lại nghĩ đến nhà O’Dowd, đến từ ngữ bà dùng nói về họ.
Say bí tỉ, bà nặng nề tự nói một mình.
Đó không phải là lời của bà, nhưng bà đã dùng nó, bây giờ bà như bị âm thanh mê hoặc. Cái xấu xí thô bạo và lây lan của nó. Bà tự chỉnh đốn bên trong chiếc áo váy cũ, chân vẫn mang bít tất. Tự bản thân khiến bà khó chịu.
Đã đến giờ vắt sữa, bà nghĩ, hai tay áp vào mặt khiến nó bị đóng khung giữa hai bàn tay và chiếc gương.
Rồi nỗi buồn mênh mông xâm chiếm ngôi nhà, hoặc đó chỉ là sự im lặng bà đang lắng nghe khi bà bước chân trần trên tấm thảm đến chỗ đặt đôi giày. Nếu xảy ra một điều gì - điều gì bà không dám nghĩ tới - liệu bà có xử sự một cách tế nhị, hay thô bạo như đôi khi nó vẫn đe dọa bà? Bà nhìn ra ngoài. Hay một lá thư sẽ đến - sự thử thách của bà có thể mang hình thức khoan dung hơn này - báo tin Ray sắp về, bà sẽ làm cho mọi điều đều tốt đẹp, sẽ cố giữ không để niềm kích động trào ra khỏi huyết quản, rồi chạy lao ra, ôm lấy đầu nó trong lúc nó đang đứng ở đấy, đó là đứa con của bà cần giành lại.
Nhưng bà kéo giày vào gót.
Stan đang đợi ta, người đàn bà nặng nề nhủ thầm, anh ấy sẽ bực mình.
Thế là bà đi ra không nghĩ thêm điều gì vớ vẩn nữa, nhưng vẫn nhìn quanh, phòng có ai đến hỏi han hay báo một tin gì đó.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người