Số lần đọc/download: 378 / 33
Cập nhật: 2020-07-09 16:12:07 +0700
Chương 17
C
ánh cửa của ngôi nhà nhỏ xây bằng đá rộng mở.
Sương mù đã tan, nhường lại cho một buổi sáng tươi mát và trong trẻo, ở phía xa, giữa những phiến đã bể và vôi gạch vụn vỡ là tấm bạt phủ lối vào hầm mộ với bốn tảng đá chắn ở bốn góc.
Henderson đang ở trong căn phòng khách nhỏ, nơi mà họ gặp nhau trong đêm qua. Nằm dài trên một đi văng bọc da cũ kỹ, đôi mắt khép hờ nhìn lên trần nhà, khuôn mặt của lão lộ vẻ nghi ngờ pha lẫn với nỗi đớn đau của thể xác. Chưa lúc nào tóc tai lão lại rối bời như thế và ở phía trái, nơi thái dương là một vết thương bầm tím. Lão vẫn mặc nguyên bộ đồ đêm qua và hình như chưa kịp tắm rửa. Một tấm chăn phủ trên người kéo đến tận cằm và trên tấm chăn là hai bàn tay run rẩy của lão. Lão ngoái cổ khi nghe tiếng người đến rồi lại ngã xuống gối.
- Chào Joe, Mark nói.
Có chút thay đổi trên nét mặt của Henderson, nhưng thái độ của lão vẫn tỏ rõ rằng lão đang chịu đựng những đớn đau vượt mức.
- Nào, ông già, Mark đặt tay lên vai lão và nói với giọng thân thương. Tuy tuổi cao mà bác vẫn cố làm việc như một con ngựa suốt đêm qua, và giờ thì chết mệt. Có chuyện kỳ cục gì liên quan đến bác Miles thế bác?
- Thưa ông Despard, Brennan từ tốn nói, tôi chịu, không hiểu nổi ông. Ông xem đây là chuyện kỳ cục vậy mà mới năm phút trước, ông đề cập tới chuyện hồn về và những người không chết. Tại sao ông lại thay đổi ý kiến nhanh thế?
- Tôi chẳng hiểu nữa... Mark thốt lên, chưng hửng thấy rõ. Nhưng tôi thấy là đại úy bị lôi cuốn bởi giả thuyết của Stevens hơn là tin vào chuyện ma quỉ của bà Henderson, và tôi hiểu rằng đại úy xem đây là một chuyện khoác lác.
Anh quay về phía lão già và nói bằng giọng khô khốc:
- Này Joe, hãy ráng gượng dậy. Cảnh sát đến rồi dây.
Đôi mắt của Henderson mở lớn ra, như thể cái tin đó như là một phát súng ân huệ. Lão nhổm dậy và nhìn họ qua làn nước mắt:
- Cảnh sát... Ai đi báo thế?
- Bà nhà, Brennan đáp.
- Tôi không tin! Tôi không thể nào tin ông!
- Thôi, chúng ta miễn bàn cãi. Điều mà tôi muốn biết là chuyện bác kể cho cậu Ogden Despard, có liên hệ đến hồn ma của ông Miles...
- Đây không phải là hồn ma, Henderson gắng sức phản đối.
Stevens bối rối khi nhận thấy rằng người đàn ông này bị chấn động thấy rõ.
- Ít ra thì nó cũng trông giống như một hồn ma, theo như tôi từng nghe nói. Nó là... nó là...
- Còn sống à?
- Tôi chẳng hiểu nữa, Henderson nói với vẻ đáng thương.
- Dẫu thế nào thì bác hãy cố mô tả cho chúng tôi biết, Mark nói, trước tiên bác thấy hồn ma ở đâu?
- Đấy, trong phòng ngủ đấy, Henderson nói, chỉ tay về phía cửa. Ông còn nhớ không, tối hôm qua, sau khi cô Edith vào đây, tất cả chúng ta đều đi về nhà lớn!. Cô Edith bảo tôi đi đốt hệ thống sưởi và tôi làm theo trong khi các ông tranh luận trong phòng sách. Rồi vào lúc ba giờ, khi họ đi ngủ cả, ông còn nhớ không?
- Nhớ chứ, Mark nói.
- Lúc đó tôi và ông phải đi lấy tấm bạt nơi sân quần vợt để phủ lên lối vào hầm mộ. Nhưng, vì ông có vẻ quá mệt mỏi, hơn nữa chuyện chẳng đáng gì, nên tôi để ông đi nghỉ và xoay trở một mình, ông nói cám ơn tôi và rót cho tôi ly rượu để uống cạn chén này...
- Đúng, tôi vẫn nhớ cả chứ...
- Hãy khoan đã... chỉ sau đó, khi tôi nghe tiếng cửa ông khóa lại phía sau tôi, thì tôi mới sực nhớ rằng tôi phải trở về đây và ngủ một mình. Cùng lúc đó, tôi nhớ ra rằng tấm bạt không ở ngoài sân quần vợt mà ở tại nhà tôi, vì tháng trước tôi mang nó về để vá lại một mảng. Vì thế, tôi đi ngay về đây. Căn phòng này chìm trong bóng tối. Tôi bật công tắt nhưng đèn không sáng. Trường hợp này thì cũng ớn thật nhưng may thay, tôi có mang theo cây đèn bão. Thế là tôi lấy tấm bạt ở trong góc cửa ra và đi đậy hầm mộ. Trong khoảng thời gian này, khi tôi phủ xong tấm bạt và lấy đá chắn ở mỗi góc, tôi cũng ngán lắm chứ, bởi tôi nơm nớp nghĩ rằng mình sẽ thấy tấm bạt bị đội tung như có ai từ bên dưới muốn đi lên... Xong xuôi, tôi vội vã về đây và cài then, chặn cửa. Thế đấy, vậy mà bình thường như ông Mark đã biết, tôi không phải là người hèn nhát! Điện đuốc vẫn không sáng, tôi muốn cho cây đèn bão sáng thêm như vì vặn tim sai chiều nên nó tắt ngủm, đinh ninh rằng có thể sử dụng ngọn đèn ở trong phòng tôi nên tôi chẳng cần thắp cây đèn bão. Tôi bước vào phòng, điều đầu tiên tôi nghe là tiếng của chiếc ghế xích đu của tôi, cái tiếng ken két mà tôi quá quen thuộc. Tôi nhìn về phía cửa sổ, nơi chiếc ghế vẫn ở đó, và thế là tôi thấy một đống lù lù ở trên ghế, đang đu đưa! Ánh sáng lờ mờ từ bên ngoài hắt qua cửa sổ đủ để tôi nhận ra đó là ông bác, ông Mark ạ. Ông bác đu đưa trên chiếc ghế của tôi, như lệ thường khi ông đến thăm tôi ở đây. Tôi trông thấy rõ khuôn mặt và đôi tay trắng của ổng... ông làm ra vẻ muốn bắt tay tôi.
Tôi bỏ chạy và đóng mạnh cửa phía sau, nhưng chìa khóa lại ở phía bên kia và tôi nghe ông bác đứng dậy, như thể ông ta muốn đuổi theo tôi. Có lẽ tôi vấp vào một vật gì đó và ngã té, đập đầu, hẳn là vào cái đi văng này, bởi vậy cậu Ogden leo cửa sổ vào và lay tôi dậy khi thấy tôi nằm cạnh đấy.
Nói đến đó, lão Henderson lại ngã người trên gối và nhắm nghiền mắt.
Họ nhìn lão, chẳng nói nên lời, rồi Brennan bước đến, bật công tắc đèn. Đèn sáng. Ông nhìn Henderson và bật đèn lên xuống nhiều lần. Stevens thèm được đi ra ngoài, hít thở không khí tươi mát dưới những tàn cây. Chàng thấy Brennan đi về phía phòng ngủ nhưng một lúc sau, viên đại úy trở ra và đi ra phía ngoài với chàng.
- Bây giờ, Stevens nói, nếu ông không cần đến tôi thì tôi về nhà ăn điểm tâm đây.
- Cứ việc đi, nhưng tôi muốn gặp lại ông trong ngày hôm nay cùng với bà nhà, vì thế tôi yêu cầu ông không nên đi xa nhà. Trong lúc này, tôi bận quá nhiều việc, đúng thế, quá nhiều việc - ông nhắc lại, nhấn mạnh từng chữ.
- Ông nghĩ sao về chuyện này? Stevens hỏi, hất hàm về phía căn nhà nhỏ.
- Nếu lão ta nói dối thì lão là tay láo khoét lạ đời nhất mà tôi từng gặp trong ba mươi năm qua!
- Thôi... ta sẽ gặp lại chiều nay!
- Đúng đấy. Ông cố sao cho bà nhà về trước buổi tối nhé ông Stevens.
Khi về đến nhà, Stevens biết rằng vợ chàng vẫn chưa về, mặc dầu lúc này hơn mười một giờ rồi. Ellen đến rồi đi, để lại một mảnh giấy báo cho chàng biết phần điểm tâm của chàng để ở trong tủ bếp. Chàng nhấm nháp từ từ và, chợt nảy ra một ý nghĩ, chàng vội vã đứng lên để đi xem tập bản thảo của Gaudan Cross đang để cạnh máy điện thoại. Nơi trang đầu là hàng chữ: Nghiên Cứu Về Những Vụ Đầu Độc Qua Mỗi Thời Đại. Gaudan Cross. Fielding Hali, Riverdale. New York.
Stevens nhấc điện thoại:
- Allô? Allô, cô vui lòng cho biết, đêm qua có ai xin điện thoại đường dài ở đây?
- Đêm qua?... Vâng, thưa ông - Riverdale, ba, sáu một!
Gác máy, Stevens vào phòng sách và lấy cuốn Những Ngài Bồi Thẩm. Nơi bìa sau, Gaudan Pross đang nhìn chàng. Một khuôn mặt gầy, thông minh nhưng hơi u tối với những mí mắt nặng trĩu và mái tóc đen điểm sương. Chàng chợt nhớ đến cuộc tranh luận về vấn đề này và, vào dạo đó, người ta bảo rằng Gaudan Cross đang ở vào tuổi bốn mươi.
Stevnes cất sách vào chỗ cũ rồi lên lầu. Chàng mở chiếc tủ sát tường, nơi Marie máng áo, và xem xét. Chẳng có bao lăm, phần lớn áo của nàng đều để tại New York.
Những chiếc đồng hồ treo tường vẫn đều đặn gõ nhịp. Stevens gắng gượng đọc sách, rồi mở máy vô tuyến. Chàng định pha một ly úyt ki, nhưng lại thôi.
Vào bốn giờ chiều, chàng nhẹ nhõm thấy rằng mình hết nhẵn thuốc lá và cần phải đi mua.
Khi chàng bước ra ngoài, một vài hạt mưa lất phất vào mặt chàng. Chàng băng qua đại lộ King và đi về hướng nhà ga. Chàng định bước vào quán rượu-bách hóa, nơi ánh điện lấp lánh trên những trái cầu màu đỏ và xanh lục, khi chàng chợt nghe tiếng gọi mà chàng tưởng như nghe trong đêm qua... Ai đó gọi tên chàng. Giữa hai ô kính, cánh cửa với hàng chữ J.Atkinson, nhà thầu phục vụ mai táng để mở và nơi ngưỡng cửa có người đang vẫy chàng.
Stevens băng qua đường và nhận ra đó là một người đàn ông trung niên có dáng dấp của một nhà buôn hơi mập và ăn mặc khá lịch sự. Ông ta có một mái tóc đen, hơi thưa với làn ngôi rẽ giữa và hất ngược ra phía sau thái dương. Bộ mặt vui vẻ, thái độ nhã nhặn.
- Có phải ông Stevens? Người đàn ông hỏi. Tuy chúng ta chưa có dịp gặp nhau nhưng tôi biết ông. Tôi là Atkinson, Jonah Atkinson. Cha tôi hầu như thôi không còn lo chuyện kinh doanh nữa. Ông hãy ghé vào đây một lát nhé? Tôi có cái này muốn trao cho ông.
Những bức màn đen che các ô kính của cửa tiệm cao hơn là Stevens tưởng khi nhìn từ bên ngoài và làm cho căn phòng trải thảm nhung êm trở nên âm u và không thực. Không khí nơi đây thật êm ả và không có gì chứng tỏ đây là một cửa hàng phục vụ mai táng ngoại trừ hai cái chậu lớn, tương tự như những cái chậu ở trong hầm mộ, đặt hai bên cánh cửa cuối phòng. Atkinson bước đến một cái bàn rồi quay trở lại, ông trao cho Stevens bức ảnh của Marie d'Aubrey, người bị lên đoạn đầu đài vì can tội sát nhân vào năm 1861.
- Họ nhờ tôi trao lại cho ông cái này, Atkinson nói... Ồ! sao thế? ông không được khỏe à?
Làm sao Stevens có thể giải thích cho ông hiểu tâm trạng của chàng? Cái cảm giác sống trong cơn ác mộng với sự hiện diện của Jonah Atkinson, không những vì do bức ảnh mà bởi vì Stevens, khi nhìn về phía chiếc bàn thấy lăn lóc giữa mớ tạp chí bề bộn là một sợi dây thừng, và sợi dây này có nhiều gút...
- Không... Không... Chẳng sao cả, Stevens đáp, nhớ lại một cốt chuyện trinh thám mà chàng đã định viết từ cái cửa hàng này. Ở đâu ra thế?
Atkinson mỉm cười:
- Chẳng hiểu ông còn nhớ không? Chiều hôm qua, khi ông trở về bằng chuyến tàu 19 giờ 35 thì tôi có mặt ở đây, bận một việc gì đó chẳng rõ và có điều là khi nhìn qua cửa kính, tôi thấy ông...
- Vâng, quả vậy, tôi cũng nhận thấy có ai đó!
Atkinson tiếp, hơi nghi ngờ về sự nhận xét của Stevens.
- Có chiếc ô tô chờ ông. Rồi ông bước lên xe và ngay khi xe vừa rẽ ở góc đường, tôi nghe có người gọi tên ông từ phía nhà ga. Đó là nhân viên thâu vé tàu. Có lẽ ông đánh rơi bức ảnh này ở trên tàu; kiểm soát viên nhặt được và trao lại cho người thâu vé trước khi tàu khởi hành.
Stevens nhớ là gỡ bức ảnh ra khỏi tấm bìa để xem xét kỹ hơn, rồi Welden đột ngột xuất hiện và chàng vội vã che giấu nó...
- Trên đường về nhà, nhân viên thâu vé thấy tôi đứng ở trước cửa tiệm, ông ta đã nhờ tôi trao lại bức ảnh này càng sớm càng tốt và mê tín nói thêm: Giờ thì đến lượt ông đây nhé! Cũng chỉ vì dòng chữ ghi nơi bức ảnh, ông hiểu cho... Dẫu sao, chắc ông cũng thoải mái khi nhận lại tấm hình này.
- Ồ, tôi mừng lắm! Phải chi mọi việc đều có thể giải quyết dễ dàng như thế này... Này ông Atkinson, tôi chẳng muốn bị ông xem như một thằng điên, nhưng tôi xin phép được hỏi ông một điều. Một điều vô cùng quan trọng. Tại sao khúc dây này lại xuất hiện ở đây... nó đấy, ở trên bàn, sợi dây thắt gút?
Atkinson quay lại, làu bàu cầm lấy khúc dây và nhét vào túi:
- Cái này à? Ồ! bố tôi làm đấy. Ông cụ cứ vứt bừa bãi! Dạo này ổng hơi... này, ông hiểu tôi chứ? Nhưng đó là cái thói của ông ấy. Ông thường lấy một khúc dây và thắt gút; những người khác thì hút thuốc, đùa với những xâu chìa khóa hoặc vẽ vời, ông ta thì chỉ biết thắt gút. Họ gọi ông là cụ già ngồi trong góc... Chẳng hay ông bạn có thường đọc truyện trinh thám? Hẳn ông còn nhớ những tiểu thuyết của nữ Nam Tước Orczy viết về một lão già suốt ngày chỉ thích ngồi ở một góc phòng và thắt những cái gút chứ? Bố tôi cũng y như vậy, nhưng trước đây ông đâu có lẩm cẩm như thế... Nhưng tại sao ông lại hỏi tôi về chuyện này?
Trong lúc Atkinson nói, Stevens bỗng nhớ đến những điều mà đêm hôm trước Partington đề cập với chàng về ông cụ Jonah Atkinson: Ông bố của Mark thường gặp lão Jonah và có thói quen, có lẽ do một sự đùa nghịch nào đó, hỏi rằng lão vẫn còn ngồi ở trong cái phòng trà hay cái xó của lão không. Tôi chẳng hiểu họ muốn nói điều gì...
- Để đáp lại, tôi xin ông hãy cho tôi biết tạo sao ông hỏi tôi chuyện này? Atkinson khẩn khoản. Đây có thể là điều quan trọng cho tôi, Đã xảy ra... (ông ngưng bặt.) Tôi biết ông là bạn thân của gia đình Despard. Đã xảy ra một vài...
- Một vài rắc rối? Ồ! không có gì đâu, Stevens dè dặt đáp, nhưng ông nên biết rằng có một sợi thừng như thế này... ở trong quan tài của ông Miles Despard?
- Theo tôi thì rất có thể, nhưng đây quả là một lỗi lầm không thể tha thứ của bố tôi... Trời! Tôi mong rằng...
Đúng thế, Stevens nghĩ, nhưng chẳng lẽ lúc nào lão Atkinson cũng thắt chín gút cả hay sao? Và biết giải thích thế nào về một sợi dây tương tự tìm thấy dưới gối cố Miles Despard trong đêm ông từ trần, trước khi người ta đi mời nhà đòn Jonah Atkinson đến?
Cuối cùng, Stevens không dằn được và liều hỏi Atkinson rằng ông ta có quả quyết là cái xác của Miles Despard có ở trong quan tài khi họ mang xuống hầm mộ hay không?
Atkinson tỏ vẻ dứt khoát và đồng thời cũng vô cùng kinh ngạc:
- Tôi nghĩ rằng có chuyện quái đản xảy ra tại Despard Park! Tôi có nghe nói... Vâng, Vâng, tất nhiên là chúng tôi giữ kín chuyện. Dẫu thế nào, tôi cũng xin trả lời câu hỏi của ông: chắc chắn là xác của ông Miles Despard được liệm vào quan tài. Thì chính tôi đích thân liệm và ngay sau đó, đô tỳ khiêng thẳng quan tài về hầm mộ. Các phụ tá của tôi sẽ xác minh điều đó với ông.
Cánh cửa phía mặt đường mở ra lặng lẽ, và một người đàn ông bước vào cửa tiệm.
Chiếc bóng của ông ta đậm nét trong thứ ánh sáng xám xịt của buổi hoàng hôn, trên ô kính hằn vết những giọt mưa. Ông không cao lớn lắm và có vẻ hom hem dẫu mặc một chiếc áo khoác lót bông dày cộm. Chiếc áo khoác này cũng như chiếc mũ phớt màu nâu có viền mềm che ngang tầm mắt người khách lạ, tạo ra cho Stevens một cảm giác khó chịu, khiến chàng nghĩ đến Miles Despard. Nhưng, những người chết thì không di chuyển bằng Mercedes như chiếc đang dừng ở cạnh lề đường, có cả tài xế ngồi chờ ở sau vô lăng. Hơn nữa, người mới đến vẫn tiếp tục bước vào và Stevens có thể tin chắc rằng ông ta không phải là Miles Despard.
Chiếc áo khoác không còn hợp thời trang và người đàn ông thì quá thất tuần. Khuôn mặt ông trông xấu tệ, có cái gì đó giống như mặt khỉ ngoại trừ chiếc mũi hơi nhô và tuy thế, đây là một khuôn mặt hấp dẫn. Stevens thấy khuôn mặt đó có một cái gì có vẻ quen thuộc tuy chàng chẳng hiểu cái cảm giác này xuất phát từ đâu. Ánh mắt của người khách lạ, một ánh mắt hơi man dại và có vẻ cay độc, quét quanh phòng rồi dừng lại nơi Stevens.
- Xin thứ lỗi cho tôi vì chuyện xâm nhập đường đột này, ông nói, nhưng thưa ông, tôi muốn có một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi với ông. Tôi thấy ông vào đây nên đi theo, bởi vì tôi làm một cuộc hành trình khá dài cốt để gặp ông. Tôi tên là Cross - Gaudan Cross.