Nguyên tác: Walden
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2023-06-22 21:34:40 +0700
15.Những Con Vật Mùa Đông
K
hi những cái đầm đã đóng băng rắn chắc, chúng không chỉ cho ta những con đường đến nhiều điểm khác nhau, mà từ bề mặt của chúng, ta còn có thêm nhiều điểm nhìn mới lên phong cảnh xung quanh. Khi tôi đi ngang đầm Flint, sau khi nó bị tuyết bao phủ, mặc dù trước đây tôi vẫn thường xuyên bơi thuyền và trượt băng trên nó, bây giờ nó có vẻ rộng rãi không ngờ và lạ thay tôi không thể nghĩ đến gì khác ngoài vịnh Baffin [484]. Những quả đồi Lincoln vươn lên xung quanh tôi ở cuối một bình nguyên tuyết phủ, tôi không nhớ mình đã đứng đó bao giờ chưa; và những người đánh cá, ở một khoảng cách không xác định trên băng, di chuyển chậm chạp với những con chó háu đói của họ, được coi là những kẻ săn hải cẩu hay Esquimaux [485], hay trong tiết sương mù hiện lên lờ mờ như những tạo vật hoang đường, và tôi chẳng biết họ là khổng lồ hay tí hon nữa. Khi theo hướng này lên giảng bài ở Lincoln vào buổi tối, giữa căn lều của tôi và phòng giảng, tôi không bước trên con đường nào và vượt qua ngôi nhà nào cả. Trên Đầm Ngỗng, nằm bên đường tôi đi, một bầy chuột nước sinh sống, và dựng lều của chúng cao trên mặt băng, mặc dù đi ngang qua tôi không thấy con nào bên ngoài. Đầm Walden, giống như những đầm khác thường trơ ra không tuyết, hay chỉ có những chỗ nông và đứt đoạn, là sân của tôi, nơi tôi có thể bước đi tự do khi những nơi khác tuyết ngập gần hai foot và dân phố không ra khỏi phố. Ở đó, cách xa phố, và hiếm khi nghe tiếng chuông xe ngựa, tôi trượt và lướt đi thoải mái như trong một bãi nuôi tuần lộc, bên rừng sồi và những cây thông uy nghiêm cong oằn xuống vì tuyết hay tua tủa những que băng.
Về âm thanh trong những đêm mùa đông, hay thường trong những ngày mùa đông, tôi nghe giọng bi thương nhưng du dương của một con cú kêu từ một khoảng xa vô định, một âm thanh như đất đóng băng có thể phát ra khi bị gảy bằng một phím thích hợp, chính cái phương ngữ (lingua vernacula) của Rừng Walden, và cuối cùng hoàn toàn thân thuộc với tôi, mặc dù tôi chưa bao giờ nhìn thấy con chim này khi nó hú như thế. Ít khi tôi mở cửa vào buổi tối mùa đông mà không nghe thấy nó, hu hu hu, hu ơ hu, vang vọng, và ba âm tiết đầu tiên nghe hơi nhấn, như là hao đơ đu (how der do); hay đôi khi chỉ hu hu. Một đêm đầu đông trước khi đầm bị đóng băng, vào khoảng chín giờ tôi rùng mình vì tiếng ngỗng kêu rất to, và bước ra ngoài cửa, nghe tiếng đập cánh của chúng như bão tố trong rừng khi chúng bay là là qua trên nhà tôi. Chúng bay qua đầm về phía Fair Haven, dường như bị ánh sáng nhà tôi cản không đậu xuống được, con đầu đàn kêu suốt thời gian đó theo một nhịp đều đặn. Bỗng đâu một con cú mèo từ một chỗ gần tôi với giọng chói gắt kinh khủng mà tôi chưa từng nghe từ loài cầm thú nào sống trong rừng, từng quãng cách đều đặn đáp lại con ngỗng, như thể quyết định thể hiện sự căm ghét kẻ xâm nhập từ vịnh Hudson [486] này bằng cách trình diễn một âm vực rộng hơn và một âm lượng lớn hơn của giọng tự nhiên, la ó đuổi nó ra khỏi chân trời Concord. Mi có ý gì khi lên tiếng báo động toàn thành trì [487] vào cái giờ đêm thiêng liêng này của ta? Bộ mi nghĩ ta từng bị bắt gặp lơ đễnh vào cái giờ này, và ta không có phổi và thanh quản như mi sao? Bu-hu, bu-ho, bu-hu! Đây là một trong những nghịch âm ghê rợn nhất mà tôi từng nghe. Thế nhưng, nếu bạn có lỗ tai biết phân biệt, thì trong đó vẫn có những yếu tố của một hoà âm mà những bình nguyên này chưa bao giờ nghe hoặc thấy.
Tôi cũng đã nghe tiếng reo của băng trong đầm, bạn đồng sàng của tôi trong vùng này của Concord, như thể nó bị chứng đầy hơi và ác mộng làm khổ, phải thao thức trong giường và phải trở mình, hoặc tôi bị đánh thức bởi tiếng đất nứt răng rắc vì băng giá, như thể có ai đánh một lũ bò ngựa qua trước cửa nhà tôi, và sáng hôm sau thấy một vết nứt trên mặt đất dài đến một phần tư dặm và rộng một phần ba inch.
Đôi khi tôi thấy những con cáo đi thành hàng trên lớp tuyết, trong đêm sáng trăng, đi kiếm gà gô hay những mồi săn khác; sủa loạn xạ như một lũ chó rừng bị ma ám, như thể bị hành hạ bởi một mối lo âu nào đó, hoặc cố sức biểu lộ điều gì đó, tranh giành ánh sáng, để được làm những con chó nhà đàng hoàng chạy tự do trên đường phố; vì biết đâu qua bao nhiêu thế kỉ, có thể có một quá trình văn minh hóa diễn ra giữa những con vật hoang dã cũng như những con người? Đối với tôi chúng như những con người thuở ban sơ, ăn lông ở lỗ, vẫn còn trong tư thế phòng thủ, chờ đợi được chuyển hóa. Đôi khi một con bị ánh sáng nhà tôi thu hút, đến gần cửa sổ nhà tôi, sủa tôi bằng giọng nguyền rủa xảo quyệt của loài cáo, rồi lủi đi.
Thông thường những con sóc đỏ (Sciurus Hudsonius) đánh thức tôi dậy vào rạng đông, nhảy lên mái nhà và nhảy loi choi bên hông nhà, như thể chúng được rừng cử đến đây để làm chuyện đó. Trong mùa đông tôi ném một nửa giạ bắp ngô ngọt còn non ra lớp tuyết bên cửa nhà, và tiêu khiển bằng cách nhìn biểu hiện và hành động của những con vật khác nhau bị nó dụ đến. Trong ánh chạng vạng và ban đêm những con thỏ đến đều đặn và có một bữa chén thịnh soạn. Suốt ngày dài những con sóc đỏ đến và đi và làm tôi hết sức thích thú vì những mánh khoe của chúng. Đầu tiên một con cảnh giác mon men đến qua những bụi sồi, chạy trên tuyết bằng cả bốn chân và bắt đầu vọt lên như một chiếc lá bị gió thổi bay, rồi mấy bước theo hướng đó, với một tốc độ kì diệu và phí sức, làm một động tác nhanh như chớp bằng những cẳng chân sau, như thể đấu kiếm, và bây giờ cũng bằng ấy bước theo hướng khác, nhưng mỗi lần không bước quá hai ba mét, rồi bỗng ngừng lại với dáng vẻ lố bịch và một cú nhào lộn ngoạn mục, như thể tất cả mọi con mắt trên thế giới này đang chăm chú nhìn hắn (vì tất cả những động tác của một con sóc, ngay cả trong những hang hốc trống trong rừng đều có ngụ ý cho khán giả xem giống như động tác của một vũ nữ) mất thời gian trì hoãn và thận trọng nhiều hơn khoảng thời gian cần để đi hết quãng đường - tôi chưa bao giờ thấy một con sóc bước đi bình thường - rồi đột nhiên ngay lập tức, hắn đã ngất ngưởng trên ngọn một cây thông non, lên dây đồng hồ của hắn và la mắng những khán giả tưởng tượng, độc thoại và đồng thời nói với mọi người - tôi không thấy có lí do nào, và nghĩ bản thân hắn cũng thế. Cuối cùng hắn đến được chỗ ngô, và chọn một bắp thích hợp, nhảy cỡn một cách nhắng nhít lên điểm cao nhất của đống gỗ của tôi, trước cửa sổ, ở đó hắn nhìn vào mặt tôi, rồi ngồi đó hàng giờ, lâu lâu lại bóc ngô ăn, lúc đầu nhấm nháp từng chút một cách thèm thuồng, ném lõi ngô đã bóc ăn quá nửa, cuối cùng hắn chọn lọc từng hạt một cách thanh nhã và chơi với thức ăn của mình, chỉ nếm một tí bên trong hạt, và bắp ngô, được hắn giữ hững hờ bằng một tay, trượt rơi xuống đất trong khi hắn nhìn theo với vẻ lơ đãng buồn cười, như thể ngờ rằng nó có đời sống, không quyết định nhặt lại nó, hay kiếm bắp khác, hay bỏ đi; bây giờ nghĩ đến ngô, rồi lắng nghe xem có gì trong gió. Trong một buổi sáng thằng ranh con lếu láo phung phí ngô như thế đấy, cuối cùng, chộp một bắp dài hơn và mẩy hơn, to hơn đáng kể so với bản thân hắn, giữ nó thăng bằng một cách khéo léo, hắn lôi nó đi vào rừng, giống như một con hổ quắp con trâu, bằng đường đi zich zắc và chốc chốc lại dừng, kéo xoàn xoạt theo hắn như thể nó quá nặng đối với hắn, và đánh rơi suốt, nhưng rơi theo một đường nghiêng, cương quyết kéo nó qua bằng mọi giá - thật là một gã lông bông và đồng bóng; rồi có lẽ đã về đến nhà, hắn tha bắp ngô lên ngọn một cây thông cách chỗ tôi hơn hai trăm mét, và sau đó tôi thấy những lõi ngô vung vãi khắp nơi trong rừng.
Cuối cùng những con chim giẻ cùi đến, trước đó đã nghe thấy những tiếng kêu chói tai của chúng, khi chúng cảnh giác đến gần còn cách một phần tám dặm, bằng một cách lén lút vụng trộm bay chuyền từ cây này sang cây khác, mỗi lúc một gần hơn, và nhặt những hạt mà lũ sóc đánh rơi. Rồi, đậu trên cành một cây thông nhựa, chúng có nuốt vội một hột quá to so với cổ họng và khiến chúng bị nghẹn; và sau một hồi cật lực chúng phải nhổ ra, rồi mất hàng giờ dung mỏ mổ cho nứt ra. Chúng rõ rang là những tên trộm, và tôi không tôn trọng chúng; nhưng lũ sóc, mặc dù ban đầu nhút nhát, đã làm như thể đang lấy cái gì thuộc quyền của chúng.
Trong khi đó từng đàn sơn tước bay đến, mổ nhặt những mảnh vụn bọn sóc đánh rơi, bay đến những cành con gần nhất, và kẹp chúng dưới móng vuốt, dùng những chiếc mỏ bé xíu mổ lên chúng như mổ những con sâu trong vỏ cây, cho đến khi những mảnh vụn nhỏ đi vừa lọt những cái cổ họng thon của chúng. Một bầy những con chim sẻ ngô bay đến hằng ngày để nhặt ngô từ trên đống gỗ của tôi hay những mảnh vụn trước cửa làm bữa ăn chính của chúng, với những âm ngọng nghịu yếu ớt, giống như những que băng leng keng trên cỏ, hay với tiếng đây đây đây sống động, hoặc đôi khi, trong những ngày xuân ấm, một tiếng kêu mùa hè phi bi lanh lảnh bên bìa rừng. Chúng dạn đến mức có lần một con sà xuống bó củi tôi đang vác, và mổ những thanh củi không hề sợ hãi. Có lần một con sẻ đậu xuống vai tôi một lúc trong khi tôi cuốc trong vườn, và tôi cảm thấy trong tình thế này tôi còn oai vệ hơn nêu có đeo những ngù vai. Lũ sóc cuối cùng cũng trở nên hoàn toàn quen tôi, và đôi khi bước cả lên giày tôi để đi tắt cho tiện.
Khi mặt đất chưa hoàn toàn bị băng tuyết bao phủ, và gần cuối mùa đông, tuyết tan chảy trên sườn đồi phía nam và quanh đống gỗ nhà tôi, lũ gà gô buổi sáng và tối ra khỏi rừng đi kiếm ăn ở đấy. Dù bạn đi ở góc nào của rừng thì gà gô cũng nhao ra đập cánh vù vù, làm rung tuyết từ những lá khô và những cành cao, rơi lả tả xuống tong nắng như bụi vàng; vì con chim táo bạo này không biết sợ mùa đông. Nó thường bị vùi tong đống tuyết, và người ta bảo "đôi khi nó bay bổ nhào vào đống tuyết xốp, và giấu mình trong đó hai ba ngày". Tôi cũng thường, lùa chúng ra khoảng đất trống, nơi chúng từ tong rừng ra lúc hoàng hôn để ăn chồi non của những cây táo dại. Tối tối chúng thường đến những cái cây đặc biệt, nơi những tay thợ săn khôn ngoan thường nằm nấp đợi chúng, và những vườn quả ở xa cạnh những khu rừng phải chịu đựng lũ này không ít. Tôi vui vì thấy dù sao gà gô được ăn no. Nó là con chim của chính Thiên nhiên, sống bằng chồi cây và nước lã.
Trong những buổi sáng mùa đông tối trời, hay trong những trưa mùa đông ngắn ngủi, đôi khi tôi nghe thấy một đàn chó săn len lỏi khắp rừng với những tiếng kêu và sủa ăng ẳng, không cưỡng nổi bản năng săn mồi, và những tiếng tù và rúc từng hồi, chứng tỏ có người theo sau. Rừng vang lên đáp lại, và không có con cáo nào nhảy ra trên mặt đầm thoáng, cũng không có đàn chó săn nào đi theo Actaeon [488] của chúng. Và buổi tối có thể tôi thấy đoàn thợ săn trở về với một cái đuôi chồn duy nhất làm chiến lợi phẩm thò ra từ chiếc xe trượt tuyết của họ, tìm đến quán trọ. Họ bảo tôi rằng nếu con cáo đừng ra khỏi hang của nó trên mặt đất đóng băng thì nó sẽ được an toàn, hoặc nó chạy trốn theo đường thẳng thì không con chó săn nào có thể vồ được nó; thế nhưng, dù đã bỏ xa những kẻ săn đuổi lại phía sau, nó dừng lại và nghe ngóng cho đến khi bọn kia chạy đến nơi, còn nếu nó chạy vòng tròn quay về chỗ cũ, thì các thợ săn đã đợi nó ở đó. Tuy nhiên, đôi khi nó chạy qua một bức tường cao hàng chục mét, rồi nhảy vọt ra xa về một bên và rõ ràng nó biết nước sẽ không giữ lại mùi của nó. Một bác thợ săn kể với tôi rằng có lần bác ta thấy một con cáo bị lũ chó săn đuổi đã nhảy vọt xuống đầm Walden khi băng đã đóng nhưng vẫn còn lại những vũng nước nông, nó chạy qua một đoạn rồi quay trở lại chính cái bờ ấy. Một lúc sau lũ chó săn chạy đến, nhưng chúng đã bị mất mùi. Đôi khi một đoàn chó săn đi qua trước nhà tôi, chạy vòng quanh nhà sủa ăng ẳng và lùng kiếm mà không nhìn thấy tôi, như thể chúng đang bị một chứng điên rồ hành hạ khốn khổ, không gì có thể làm chúng sao nhãng khỏi cuộc săn đuổi. Chúng cứ chạy vòng quanh như vậy cho đến khi bắt gặp dấu vết còn mới của một con cáo, vì một con chó săn khôn ngoan sẽ bỏ tất cả những thứ khác để tìm dấu vết này. Một hôm có người từ Lexington đến túp lều của tôi để tìm con chó săn của anh ta, nó đã bỏ chạy đi rất xa và cả tuần nay đã tự đi săn một mình. Nhưng tôi e rằng anh ta không biết được gì hơn qua cuộc nói chuyện với tôi, vì mỗi lần tôi cố trả lời những câu hỏi của anh ta thì anh ta lại ngắt lời tôi bằng câu hỏi: "Còn anh, anh làm gì ở đây?”. Anh ta đã mất một con chó, nhưng tìm thấy một con người.
Một người thợ săn già ít chuyện thường đến tắm ở đầm Walden mỗi năm một lần khi nước ấm nhất, và những lần như thế đều tìm tôi, kể với tôi rằng cách đây nhiều năm vào một buổi chiều ông xách súng đi trong rừng Walden; và khi bước trên con đường Wayland ông nghe thấy tiếng sủa của chó săn đang đến gần, nhanh như ý nghĩ vọt qua bức tường kia của con đường, nhưng viên đạn bắn nhanh của ông không chạm được vào nó. Theo sau một đoạn là con chó săn già với ba con chó con theo sát, chúng tự đi săn, và biến vào rừng. Cuối buổi chiều hôm đó, khi ông đang ngồi nghỉ trong rừng rậm phía nam Walden, ông nghe thấy tiếng đàn chó săn xa xa ở phía Fair Haven, vẫn đang đuổi theo con cáo, và khi chúng đến, tiếng kêu hối thúc của chúng làm cả khu rừng vang lên mỗi lúc một gần, lúc thì từ hướng Well-Meadow, lúc thì từ Trại Baker. Ông đứng bất động một lúc lâu và nghe thứ âm nhạc của chúng, thật ngọt ngào với lỗ tai người thợ săn, rồi bỗng nhiên con cáo xuất hiện, len lỏi qua những lối đi với bước đi đường hoàng của con tuấn mã, mà âm thanh được tiếng lá rì rào thông cảm che giấu đi, mau lẹ và lặng lẽ, bám mặt đất, bỏ lũ chó săn lại phía sau; rồi nhảy tót lên một tảng đá giữa những đám cây, nó ngồi thẳng và nghe ngóng, lưng quay lại phía người thợ săn. Trong phút chốc lòng trắc ẩn làm chùn tay người thợ săn, nhưng tâm trang ấy chỉ thoáng qua nhanh như y nghĩ, cây sung của ông được nâng lên ngắm, và đoàng! - con cáo lăn quay trên tàng đá và nằm chết dưới đất. Người thợ săn vẫn đứng nguyên chỗ cũ và lắng nghe tiếng đàn chó săn. Chúng đến lặng lẽ, và lúc này những cánh rừng gần như vang dội qua tất cả các lối đi những tiếng tru điên dại của chúng.
Cuối cùng con chó già đột ngột hiện ra, mõm chúi xuống đất, và đớp đớp không khí như thể phát rồ, rồi lao thẳng vào tảng đá; nhưng khi nhận thấy con cáo đã chết nó bỗng ngừng bặt, như thể bị câm vì quá kinh ngạc, và bước vòng quanh xác con này trong im lặng; rồi những con chó con của nó lần lượt đến, và, giống như mẹ chúng, nghiêm trang câm lặng trước bí mật khó hiểu. Lúc đó người thợ săn bước ra và đứng giữa bọn chúng, bí mật được sáng tỏ. Chúng im lặng đứng đợi trong khi ông lột da con cáo, rồi đi theo ông một lúc, cuối cùng quay lại đi vào rừng. Tối hôm đó một điền chủ Weston [489] đến lều thợ săn Concord để hỏi về những con chó săn của ông ta, và kể chúng đã tự đi săn trong cả tuần lễ từ những cánh rừng Weston như thế nào. Người thợ săn Concord kể cho ông ta nghe những gì ông biết và đưa biếu ông ta bộ da cáo, nhưng người kia từ chối và ra đi. Đêm ấy ông ta không tìm thấy những con chó săn của ông, nhưng hôm sau biết rằng chúng đã vượt sông và đến một ngôi nhà trại trong đêm, ở đó, sau khi đã được ăn uống no nê, chúng bắt đầu ra đi từ sáng sớm.
Người thợ săn kể cho tôi nghe câu chuyện đó nhớ được một người tên là Sam Nutting, người thường săn gấu ở Fair Haven Ledges, và đổi những bộ da gấu lấy rượu rum trong làng Concord, anh ta nói với ông rằng anh ta thậm chí đã từng trông thấy một con nai sừng tấm ở đó. Nutting có một con chó săn cáo tên là Burgoyne (bơ gô in - anh ta phát âm thành Biu-ga-in) mà ông thợ săn kia thường mượn. Trong cuốn Wast Book [490] của một nhà buôn già trong thị trấn này, người từng là thuyền trưởng, thư kí tòa thị chính, dân biểu, tôi thấy một đoạn ghi thế này. "18 tháng 1, 1742-43, John Melven Cr. kí gửi 1 Cáo Xám 0-2-3". Những chữ này bây giờ không thấy ở đó nữa, và trong phần ghi chú: 7, tháng 2, 1743, Hezekiah Stratton kí gửi "1/2 một bộ da Catt [491] 0-1-4 1/2"; tất nhiên, một bộ da mèo rừng, vì Stratton từng là trung sĩ trong cuộc chiến tranh của Pháp [492] trước đây, và chắc chắn không chịu giảm uy tín vì một thú săn kém giá trị hơn. Da hươu cũng được cầm, và chúng được bán hằng ngày. Một người vẫn còn giữ được những chiếc sừng của con hươu cuối cùng bị giết ở vùng lân cận, và một người khác đã kể cho tôi những tình tiết đặc biệt trong một cuộc săn mà chú của anh ta đã tham gia. Những người thợ săn trước kia đã làm thành một hội đoàn đông đảo và vui vẻ ở đây. Tôi còn nhớ rõ một anh chàng Nimrod [493] gầy nhom đã lấy một chiếc lá bên đường và chơi một điệu nhạc trên đó, nếu tôi nhớ không nhầm, còn du dương và hoang dã hơn bất kì một tiếng tù và săn nào.
Vào nửa đêm, khi có trăng, đôi khi tôi gặp trên đường những con chó săn đi lảng vảng trong rừng, chúng thường lẩn tránh khỏi đường tôi đi như thể sợ hãi, và đứng im lặng trong bụi rậm cho đến khi tôi đi qua.
Sóc và chuột đồng tranh nhau kho hạt của tôi. Xung quanh nhà tôi có vài chục cây thông dầu, đường kính từ một đến bốn inch, đã bị chuột gặm trong mùa đông trước - một mùa đông Na Uy đối với chúng, vì tuyết rơi lâu và dày, và chúng buộc phải độn phần lớn vỏ cây thông vào những thức ăn khác của chúng. Những cây này còn sống và tươi tốt trông thấy vào giữa hè, và nhiều cây đã lớn thêm một foot, mặc dù bị tróc vỏ hoàn toàn; nhưng sau một mùa đông nữa tất cả những cây này đều chết. Điều kì lạ là chỉ một con chuột mà giành được cả một cây thông làm thức ăn mình, nó gặm vòng quanh chứ không gặm dọc lên xuống, nhưng có lẽ đó là điều cần thiết để tỉa thưa bớt những cây này, nếu không chúng lớn lên sẽ quá dày.
Những con thỏ rừng (Lepus Americanus) cũng rất thân quen. Một con có hang bên dưới nền nhà tôi suốt cả mùa đông, chỉ cách tôi lớp sàn nhà, và mỗi buổi sáng nó làm tôi giật mình vì sự hối thúc của nó khi tôi bắt đầu động đậy - thùm thùm thùm thúc đầu nó lên ván gỗ sàn nhà một cách khẩn thiết. Chúng thường đến quanh cửa nhà tôi nhấm nháp những mẩu khoai tây mà tôi ném ra, và giống màu đất đến nỗi khi chúng bất động khó mà phân biệt chúng với đất. Đôi khi trong ánh chạng vạng một con ngồi bất động dưới cửa sổ tôi, bóng dáng của nó lúc thấy lúc khuất. Buổi tối khi tôi mở cửa chúng nảy bật lên kêu chít chít và lỉnh mất. Ở gần bên chúng chỉ gọi lòng thương hại của tôi. Một buổi tối có một con ngồi cạnh cửa cách tôi hai bước, lúc đầu run rẩy vì sợ hãi, nhưng bất đắc dĩ phải chuyển động, một con vật nhỏ xíu tội nghiệp, gầy còm xương xẩu, với những cái tai lởm chởm và cái mũi nhọn, cái đuôi cụt và những cẳng chân khẳng khiu. Như thể Thiên nhiên khi tạo ra chúng đã quá sa sút và không thể làm ra giống nòi cao quý hơn. Những con mắt to của chúng có vẻ non nớt và ốm yếu, gần như bị phù. Tôi bước một bước, và trông kìa, nó bật lên bằng một cú bật dẻo dai trên lớp tuyết, duỗi thẳng người và chân ra đến một chiều dài thanh nhã và lập tức biến vào rừng - một con thú tự do hoang dã, khẳng định sự cường tráng và kiêu hãnh của Thiên nhiên. Sự thon thả của nó không phải là không có lí do. Và đó là bản chất của nó (Lepus, levipes, "chân nhẹ", như có người gọi nó).
Một vùng đất mà không có thỏ và gà gô thì quá tệ. Chúng là hai trong số những động vật bản địa đơn giản nhất, những dòng giống xa xưa được cả đời xưa và đời nay biết; hiện thân của Thiên nhiên, đồng minh gần gũi nhất với lá và với đất - và với nhau - chúng có chân và có cánh. Gà gô và thỏ chắc chắn sẽ phát triển, giống như những sinh vật bản xứ thật sự của đất, dù trời đất biến đổi thế nào. Nếu rừng bị đốn chặt, những mầm chồi và những bụi cây bật lên có thể bảo vệ được chúng, và chúng trở nên đông đảo hơn bao giờ hết. Một đất nước không nuôi nổi một con thỏ rừng thì chắc chắn là một đất nước nghèo. Rừng của chúng ta tràn ngập cả hai thứ, và xung quanh mọi đầm lầy có thể thấy gà gô hoặc thỏ bước đi, nhưng khắp nơi trên đường đi của chúng toàn thấy những hàng rào làm bằng cành cây và những chiếc bẫy lông ngựa mà một anh chàng chăn ngựa nào đó giăng ra.