Số lần đọc/download: 202 / 19
Cập nhật: 2020-01-25 21:22:13 +0700
Chương 15 - Ở Ngọn Hải Đăng
J
ason băng qua ngôi làng nhanh như chớp và đạp ngược lên con đường nằm phía đối diện với vịnh. Cậu bỏ lại sau lưng con đường lớn và đi vào lối mòn nhỏ dẫn tới ngọn hải đăng. Mũi đất dài và hẹp giữa những mỏm đá với xoáy nước hun hút, sóng biển cuồn cuộn dội vào từ cả hai phía. Ngọn hải đăng mọc lên ở đúng cuối mũi đất, nơi bãi cỏ chuyển mình thành mặt đường rải đá dốc dần về phía biển với những tảng vuông vức to bự. Gió quẩn từ mọi hướng và lũ mòng biển dường như đang lơ lửng bất động trên trời.
Jason kéo khóa và cài mọi chiếc cúc áo cậu có thể lần được để ngăn luồng khí lạnh chạm tới da thịt, nhưng vô ích. Chiếc áo bay phần phật như một lá cờ và thỉnh thoảng lại bị nước biển và bọt sóng bắn vào.
Chống chọi với cơn gió, cậu bé tiến lại gần ngọn hải đăng. Nhìn gần, cậu thấy nó cao thật là cao, ít nhất cũng phải cao gấp ba lần ngọn tháp của Biệt thự Argo. Ngọn hải đăng sơn trắng và không có cửa sổ, chỉ có một cánh cửa nằm ở chân tháp nhỏ đến nực cười. Jason cũng chẳng buồn thử mở ra vì nó được khóa bởi một ổ khóa nặng trịch. Ngước nhìn lên cao, cậu xem xét bệ đỡ tròn và hẹp nằm ngay dưới ngọn đèn. Sau đó cậu lấy tay che mắt và nhìn ra xung quanh.
Chẳng có ai cả.
Jason đi quanh và lại gần ngôi nhà của người gác hải đăng, một căn nhà hai tầng đơn sơ, hầu hết cửa chớp đều đã đóng. Cậu nhìn thấy còn có một ngôi nhà nữa nhỏ và thấp hơn, cách đó không xa.
“Ông Minaxo ơi!” Cậu gọi toáng lên. “Ông Minaxo ơi!”
Jason tới chỗ cửa ra vào và gọi lần nữa. Rồi cậu thử gõ cửa, nhưng vẫn không có ai đáp lại.
Một trong những ô cửa sổ nằm về phía bên phải lối vào đang mở cánh chớp. Jason liếc vào bên trong qua tấm lưới sắt bảo vệ, cậu thấy một chiếc bàn với một con dao đặt ở trên, một bồn rửa và một chiếc lò sưởi đốt củi kiểu cũ. Còn ông Minaxo thì chẳng thấy bóng dáng đâu.
Cậu bé co ro, sợ hãi vì tiếng gió đang vần vũ không ngớt xung quanh. Rồi, như thể được gió đưa tới, cậu thấy một cái bóng to lớn từ từ bao trùm lên mình.
Jason ngoảnh mặt lại, cậu nheo mắt và thấy một người đàn ông có mái tóc dài, đứng chắn mặt trời, cầm trong tay một vật nhọn hoắt bằng kim loại.
“Cậu là ai?” Người đó hỏi.
Jason cảm thấy họng thắt lại và nghẹt thở.
Người đàn ông nắm chặt trong tay một cây lao móc. Gió thổi phồng chiếc áo sơ mi của ông ta khiến nó căng ra như một tấm buồm rách rưới.
Cậu bé tranh đấu trước sự cám dỗ của đôi chân muốn lùi lại một bước, hai bước rồi mười bước và chuồn thật lẹ. Nhưng chính ông Nestor đã cử cậu tới mà...
“Ông là Leonard phải không ạ?“ Cuối cùng cậu cũng lên tiếng được.
Lúc trước người đàn ông còn đứng trước mặt Jason. Lúc sau ông ta đã quỳ một gối xuống, cách cậu chỉ vài xăng-ti-mét. Một tấm băng đen vắt chéo qua mặt che mắt phải của ông ta. Con mắt còn lại sáng một màu xanh thiên thanh băng giá. Mũi nhọn. Đôi vai rộng. Và ông ta có một chiếc răng cá mập đeo trên cổ.
“Tôi hỏi cậu trước.” Người đàn ông lơ đễnh dựng cây lao móc trước mặt mình. Lưỡi lao đâm xuyên vào lớp cỏ tựa như một con dao xuyên qua miếng bơ.
“Cháu là Jason Covenant,“ cậu trả lời. “Và cháu tới để tìm ông Leonard Minaxo.”
“Jason Covenant...” Mái tóc của người đàn ông rối bời trong gió. “Vì sao cậu tới đây tìm Leonard?”
“Vì ông Nestor nói với cháu rằng ông ấy ở phe chúng cháu.”
“Cậu giải thích đi.” Người đàn ông duỗi thẳng lưng.
Jason hít thật sâu.
“Cháu không thể, nếu ông không phải là Leonard.”
Người gác ngọn hải đăng cân nhắc về cậu bé đang run lên vì lạnh giá và sợ hãi, về cây lao móc săn cá ngừ trong tay mình và về khoảng cách giữa họ với người dân làng gần đó nhất.
“Có gan đấy nhóc.” Ông nói, đoạn bước qua Jason và mở cửa ngôi nhà. “Ta là Leonard đây. Vào trong đi.”
Bên trong ngôi nhà lạnh như thể tường và sàn nhà chưa từng được một ngọn lửa nào sưởi ấm. Ông Leonard Minaxo ra hiệu cho Jason ngồi xuống chiếc ghế đẩu bằng gỗ đẽo từ một cây đại thụ. Ông đặt cây lao lên bàn cạnh con dao, cởi áo sơ mi rồi mở vòi nước. Trong lúc rửa mặt bằng nước lạnh như băng, ông hỏi:
“Tại sao ông Nestor lại cử cháu tới đây?”
Jason muốn kể hết với ông mọi việc, nhưng cậu quyết định phải thật thận trọng:
“Ông ấy nói hai người là bạn.”
“Ta không nghĩ ông ấy dùng từ đó.” Leonard vã nước lạnh buốt lên hai cánh tay lực lưỡng. “Chúng ta từng là bạn. Nhưng... nói một cách văn vẻ thì thế này: nó là cảm giác thanh xuân khi anh già cỗi, là máu nóng khi mạch anh đã lạnh giá.”
“Cháu không hiểu...”
“Shakespeare nhóc ạ. Nhiều khi cháu nhớ tới bạn bè bởi cháu nhớ tới thời cháu còn trẻ. Cháu đọc Shakespeare bao giờ chưa? Không, ta không nghĩ vậy... Cháu đọc những gì?”
“Thuyền trưởng Mesmero.” Jason trả lời, rồi giải thích thêm. “Đó là một cuốn truyện tranh ạ.”
“Cháu có hiểu tại sao Trái đất lại bị hủy hoại không?”
“Ông Nestor đang gặp nguy hiểm ạ.” Jason trả lời, cậu thấy tự ái bởi lời bình luận đầy khinh miệt. “Và ông ấy nói chỉ ông mới cứu được.”
“Sao, gặp nguy hiểm ư?” Leonard Minaxo khóa vòi nước lại.
“Ông ấy nói ông phải thử kế hoạch... chim bồ câu trong giếng.”
Leonard nghiêng đầu sang một bên.
“Thật là ông ấy đã nói về chim bồ câu trong giếng sao? Khi nào?”
“Mười phút trước ạ. Trước khi hai người đó trở lại thẩm vấn ông ấy.”
“Hai người đó là ai cơ?”
“Cháu không biết, hai kẻ ăn xin... Đại loại là... hai tên trộm. Chúng lẻn vào Biệt thự Argo và trói ông Nestor trên đi-văng.”
Người gác ngọn hải đăng chửi thề, sau đó ông xỏ lại chiếc áo sơ mi qua cánh tay vẫn còn ướt nước.
“Tại sao ông ta lại nghĩ đến kế hoạch chim bồ câu nhỉ?”
“Cháu không biết. Nhưng ông ấy bảo sẽ cố gắng đưa chúng ra xa ngôi nhà.”
“Vậy không còn thời gian đâu.” Người gác hải đăng chộp lấy cây lao trên bàn và ném con dao về phía Jason. “Cấm lấy. Cháu biết dùng dao chứ?”
Jason tóm lấy con dao trên không và kinh ngạc về ánh phản chiếu của nó.
“Cháu nghĩ là có...”
“Dễ ợt.” Leonard mỉm cười hài lòng. “Nếu cháu kề lưỡi dao lên bất kỳ vật nào và ấn xuống... con dao sẽ cắt phăng vật đó.”
“Kế hoạch bồ câu trong giếng là gì ạ?” Jason hét trong gió trong khi chạy theo sau Leonard Minaxo.
“Cái giếng nằm ở Công viên Rùa,” ông trả lời và chạy về hướng ngôi nhà gần đó. “Chính là công viên của Kilmore Cove.”
Jason lắc lắc đầu. Cậu không hề biết rằng trong làng có một công viên và cũng chẳng biết nó nằm ở đâu.
Ông Leonard lại gần cánh cửa ngôi nhà và bắt đầu kéo những thanh chốt trượt ra. Cậu bé nhận ra mùi của chuồng ngựa.
“Ngày xưa, dưới chân đồi công viên có những cái hang. Trong suốt chiến dịch nước Anh, người La Mã đã sử dụng chúng làm nhà tù để thẩm vấn những người Celt nổi loạn, các tu sĩ và điệp viên.”
Jason gật gù, dù cậu chẳng hiểu lấy một từ. Ông Leonard mở toang cửa chuồng ngựa và bước vào trong.
“Tiến lên nào, bé xinh! Ra đây!”
Jason đứng im ở cửa. Chuồng ngựa nhìn ra biển này đang che chở một chú ngựa đẹp tuyệt có bộ lông sẫm màu và chiếc bờm trắng. Ông Leonard vuốt ve mõm nó theo cái cách đầy cục mịch, sau đó hỏi Jason:
“Cháu xoay xở thế nào với loài ngựa?”
“Cháu... cháu chưa bao giờ cưỡi chúng.”
“Tuyệt. Việc nào chẳng có lần đầu.”
“Thực sự là cháu có xe đạp, ở ngay ngoài này.”
“Còn ta thì không. Lại đây nào!”
Jason ngập ngừng bước vào chuồng ngựa. Chú ngựa lúc lắc chiếc bờm như thể hiểu rằng mình phải chuẩn bị ra ngoài.
“Đây là Ariadne.” Ông Leonard nói. “Ariadne, cậu nhóc này là... Jason Covenant.”
Ông chờ Jason vuốt ve mõm ngựa, rồi cầm bàn tay cậu bé miết vào bộ lông của Ariadne.
“Giờ các cháu là bạn.” Ông tuyên bố.
Sau đó ông chỉ vào chiếc yên ngựa treo trên móc và ra lệnh:
“Cháu hãy thắng yên ngựa đi.”
Jason cố phản kháng bằng cách giải thích rằng cậu chưa từng thắng yên ngựa lần nào trong đời, nhưng mọi lý lẽ đều vô ích.
“Hơn nữa cháu còn chẳng với tới nó! Yên ngựa quá cao!” Cậu bé gào lên.
“Thế thì nhảy lên.” Đó là từ cuối cùng của người gác ngọn hải đăng trước khi ra khỏi chuồng ngựa.
“Ra là các người muốn ăn cắp đồ của ta...” Ông Nestor nói và khó nhọc bước theo tên ăn xin vào phòng bếp. “Tóm lại, mấy người là quân trộm cắp.”
Bị thu hút bởi những bóng đèn trong tủ lạnh, Don Diego Valente thực sự đã dọn sạch chiếc tủ trong nỗ lực tìm hiểu xem nó hoạt động như thế nào. Cùng lúc đó, Dieguita đang ngó nghiêng tất cả những món đồ trang trí trong nhà, ngay khi tìm thấy thứ gì có vẻ quý giá, cô ta lập tức mang nó ra ngoài.
Bỏ qua vấn đề tìm hiểu mình đang ở đâu, hai tên ăn xin đã lên kế hoạch đơn giản là khoắng sạch Biệt thự Argo.
“Trộm, trộm!” Don Diego khoa chân múa tay rồi đứng chống nạnh nhìn chằm chằm bóng đèn điện tủ lạnh. “Ông đừng vội cho chúng tôi là trộm! Tôi hỏi ông, ai mà chưa từng trộm vặt cơ chứ?” Và trước khi ông Nestor có thể trả lời, hắn nói thêm. “Ông chưa từng đánh cắp trái tim của một cô gái trẻ nào sao? Hay thời gian của người khác? Hoặc là... Ôi, cái thứ ba là gì nhỉ?”
Don Diego gãi gãi mũi, cố nhớ ra ví dụ thứ ba như thể hắn đã từng cố học thuộc lòng chúng.
Thấy hắn bí, ông Nestor khục khặc cười:
“Ta không nghĩ anh lại triết lý thế... Dẫu sao, ta không cho rằng việc lấy tất cả đồ đạc trong nhà và mang chúng ra ngoài như cô bạn anh đang làm là ý hay!”
“Đồng ý với ông thế này đúng là ăn trộm.” Tên ăn xin đồng tình và bước ra khu vườn, tới chỗ những bậc thang đá. “Lấy đồ của người khác. Đúng thôi. Nhưng nếu vậy thì cả Hội đồng Thập viên cũng là quân trộm cướp... vì họ bắt tất cả những người ăn xin phải nộp tiền! Dù sao thì cuộc sống chính là vậy. Tốt hơn là ông già hãy nói cho tôi biết, biển này tên là gì?”
“Đại Tây Dương.”
Ánh mắt của gã thanh niên sáng lên. Hắn ta đan tay sau gáy và hít thật sâu làn không khí mặn mòi.
“Rõ ràng rồi! Vậy là tôi không hề lầm! Tôi đã nhận ra mùi của nó mà.”
“Anh từ đâu tới? Có phải anh là người Tây Ban Nha?” Ông Nestor hỏi hắn.
“Mẹ tôi là người Valencia. Cha tôi thì... ai mà biết? Ông ấy mất trước khi cho tôi biết sự thật. Vì bị ho lao. Thế là lo rằng cả mình cũng sẽ chết, tôi đã lên tàu năm mười hai tuổi. Tôi đã nhìn thấy những hòn đảo Đại Tây Dương thuộc Capo Verde, và cả Marseille, Genoa, trước khi con tàu bị đánh chìm. Tôi thề sẽ không bao giờ đặt chân lên một con tàu nào nữa. Sau đó tôi quen Dieguita và chúng tôi cùng tới Venice để làm thuê cho những nhà buôn gia vị, cho đến khi họ không cần bọn tôi nữa. Sau đó... chúng tôi phải tự thu xếp.”
Dieguita bước ra từ Biệt thự Argo với vẻ đắc thắng, tay nâng một cây đèn có thân dát vàng.
“Nhìn xem, anh yêu. Cái này bằng vàng cả đấy!”
Ông Nestor giận dữ nhận ra cây đèn nằm gần chiếc bàn nhỏ để điện thoại. Ông phải xoay xở để đưa hai tên trộm kia tránh xa khỏi Biệt thự Argo trước khi chúng phá tan tành nơi này.
“Nghe này... Các người nghĩ sẽ đi khỏi đây như thế nào?”
“Sao cơ?”
“Các người nghĩ làm thế nào để mang hết tất cả đống đồ kia đi? Nếu mấy người đi bộ thì ông chủ của tôi sẽ tìm thấy các người ngay.”
Chỉ đến lúc đó Don Diego dường như mới để ý đến số lượng đồ vật và những thứ lặt vặt mạ vàng mà Dieguita đang mang ra ngoài.
“Ừ nhỉ. Chúng tôi cần một con ngựa. Chuồng ngựa ở đâu?”
“Không có chuồng ngựa nào ở Biệt thự Argo hết.”
Don Diego khựng lại.
“Thế các người di chuyển như thế nào ở làng này?”
“Đi bộ, hoặc đi tàu.”
“Đừng có nói với tôi về tàu bè gì cả! Tôi đã thề không lên tàu rồi!”
“Trong trường hợp này, các người đành phải kiếm một con ngựa ở khu chuồng gần nhất...” Ông Nestor vờ như dửng dưng bình luận.
“Nó ở đâu?”
“Ta sẽ không bao giờ nói cho các người.”
“Tôi lại tin rằng ông sẽ nói cho chúng tôi đấy...”
“Sẽ mất một chút thời gian nếu đi bộ.”
“Phải rồi, ông già thật ranh mãnh!” Don Diego cười. “Và trong khi chúng tôi đi tìm ngựa, chủ của ông quay lại đây thì sao?”
“Nếu được thì các người có thể mang hết theo mình.” Ông Nestor gợi ý.
Don Diego cân nhắc lời nói của người làm vườn, sau đó đưa mắt đến đám đồ đạc chất đống trên sỏi.
“Dieguita!” Gã gọi lớn.
Cô ả xuất hiện ở cửa với một chiếc khay bằng bạc trong tay nói vẻ ngưỡng mộ:
“Anh nhìn này! Bằng bạc đấy! Có thể soi gương nữa...”
“Dừng lại! Dừng lại!” Don Diego ra lệnh cho cô ta. “Có một vấn đề nhỏ...”