Cầu Chúa ban cho con sự thanh thản để chấp nhận những thứ con không thể thay đổi, sự caN đảm để thay đổi những thứ con có thể, và sự khôn khoan để phân biệt những cái có thể thay đổi và không thể.

Dr. Reinhold Niebuhr

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 168 / 18
Cập nhật: 2020-01-25 21:21:26 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14 - Cánh Cửa Chỉ Giờ
gõ Kẹo Chubber có cái tên này là nhờ cửa hàng bánh kẹo Chubber nằm ngay góc của con ngõ.
Cửa hàng có hai tủ kính chẳng có gì đặc biệt, một cái quay mặt về phía con ngõ nhỏ, cái còn lại quay mặt về quảng trường chính của Kilmore Cove, với những tấm rèm bằng ren bảo vệ kho báu của cửa hàng: vô số những chiếc bánh kem cuộn nhỏ, bánh phủ đường và bánh sô-cô-la hình cây nấm. Bên trong, hương ca-cao, va-ni, hương quế và đường kính ngào ngạt trong cánh mũi và quện vào quần áo khiến vị khách hoài nghi nhất cũng phải nở một nụ cười mãn nguyện.
Julia, Jason và Rick tìm lại được vẻ thanh thản nhờ khay bánh nướng nho khô, bánh xốp nhân kem dâu và bánh mỳ nhân sô-cô-la đắng.
Chúng đứng ăn trước tấm biển cửa hiệu đồng hồ của Peter Dedalus, chuyền cho nhau cái khay cho đến khi hết sạch những mẩu vụn cuối cùng.
Con cú ngậm đồng hồ trên mỏ vẫn còn đó, nhưng cửa kính duy nhất của cửa hiệu đã bị niêm phong bằng một thanh gỗ dày, chẳng chừa lại một khe hở nào. Lối vào được một cánh cửa vững chãi bảo vệ và được gia cố thêm bằng cánh cổng sắt uốn có một tấm bảng ở chính giữa với ổ khóa kỳ cục và cực kỳ phức tạp.
Trên cánh cổng có treo một tấm biển qua sợi dây bằng sắt:
NHƯỢNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
GIÁ CỰC KỲ ƯU ĐÃI
Điện thoại: ***7480020
(VÀO TỪ SÂN SAU)
Ba đứa mút nốt chỗ sô-cô-la còn dính trên ngón tay và làm theo chỉ dẫn: chúng đi qua một cổng vòm bằng đá, qua một lối đi mờ tối rồi chui ra một khoảng sân nhỏ nằm phía sau cửa hiệu. Đến đây chúng nhìn thấy một cánh cửa rất hiện đại được trổ một cách gượng ép vào bức tường cùng đống xi-măng mới trát gần đây trông hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với phần còn lại của tòa nhà. Cứ như thể có người đã đột nhập được vào cửa hiệu từ phía sau và sau đó để ngăn chặn những người khác vào được bên trong, đã chắn lối vào bằng cánh cửa đó.
“Hay thật,” Jason kêu lên khi phát hiện cánh cửa bị khóa trái. “Mình nghĩ không thể vào từ chỗ này...”
Bọn trẻ quay lại cánh cổng phía trước và xem xét ổ khóa.
“Xem ra nó là một trong số những món đồ kỳ quặc của ông ấy,” Rick nhận xét. “Mình chẳng ngạc nhiên nếu người ta phải đục tường từ phía sau để vào! Peter Dedalus nổi danh khắp làng vì những thứ máy móc kỳ dị như thế này,” cậu nhóc giải thích cho hai chị em sinh đôi. “Người ta đồn là ông ấy đam mê lắp ráp các loại máy móc chính xác có thể làm được những công việc khó khăn nhất: cánh tay di động chép các bản nhạc, bàn tay máy gắp trứng khỏi bếp khi chúng chín, những con rô-bốt nhỏ có thể tự cử động...”
“Giống cái bàn ở nhà ông ấy!” Julia thốt lên.
“Ơ hay, chị có thôi ngay chuyện về cái bàn có thể di chuyển được không?!”
“Jason, mình nghĩ chị cậu nói đúng đấy,” Rick chen vào bênh vực cô bạn. “Mẹ mình hay kể cho mình về một căn phòng khách với những chiếc ghế bành có thể di chuyển khắp phòng. Bà nói chúng có thể sẽ có ích cho việc sắp xếp và dọn bàn ăn.”
Bọn trẻ phì cười khi tưởng tượng ra cảnh đó.
Tấm bảng vuông nằm ở giữa cánh cổng đúng là độc đáo: chẳng có chỗ nào để đút chìa khóa hoặc vận hành một cơ chế nào cả. Có chăng chỉ là một mặt đồng hồ với hai cái kim dài bất động, một quyển lịch vạn niên nằm ở hình bán nguyệt phía trên và hai vòng tròn bên cạnh, một ở bên phải và một ở bên trái.
Jason thử quay cái bên phải và phát hiện ra mọi thứ vẫn còn hoạt động: kim đồng hồ chuyển động ngay tắp lự. Vòng tròn phía bên kia dùng để lên dây cót.
“Thiết bị của ông Peter lúc nào cũng hoàn hảo,” Rick hài lòng nhận xét.
“Mình không nghĩ vậy. Số năm trong lịch bị chạy quá rồi,” Julia thêm vào.
“Bây giờ mấy giờ rồi?” Jason hỏi.
“16 giờ 15 phút.”
“Có lẽ để vào được cửa hàng chỉ cần chỉnh đúng giờ và lên dây cót...”
Cậu vặn đồng hồ đến bốn giờ mười lăm phút và lên vài vòng dây cót.
Không có chuyện gì xảy ra.
“Có lẽ em phải lên hết dây cót,” Julia gợi ý.
Jason cho cô xem mấy đầu ngón tay đỏ lừ.
“Sao chị không làm việc này đi nhỉ?” Cậu đáp. “Ngón tay em đang gãy cả ra đây này.”
“Vậy thì chẳng có lý gì chị lại phải làm cho ngón tay mình bị gãy cả.”
“Chính chị đề ra ý tưởng tới đây còn gì!”
Julia chống tay lên hông:
“À, thế à? Nếu là em thì em sẽ làm thế nào? Liệu em có kế hoạch nào hay hơn không?”
“Em sẽ chạy thật nhanh về Biệt thự Argo để nói chuyện với ông Nestor. Có thể ông ấy biết gì đó về ông Dedalus này, về Ngôi Nhà Gương, về cách những cánh cửa vận hành và về người đã giấu chúng. Các cậu đã nghĩ về điều này chưa? Ai là người đã giấu những cánh cửa?”
“Ông Ulysses Moore?” Julia đánh liều.
“Không!” Jason phản bác lại. “Ông Ulysses Moore đã để lại những dấu vết để chúng ta tìm ra chúng. Ông ấy không giấu những cánh cửa. Ngược lại, ông ấy muốn bọn mình tìm thấy chúng!”
Julia nghĩ ngợi một lúc, cô bé hoàn toàn bị thuyết phục. Cô bé chờ Jason lên hết dây cót đồng hồ một cách vô ích rồi nói:
“Dù như vậy thì cũng chẳng có gì xảy ra cả...”
Thế nhưng, sau một tiếng tích tắc rất ngắn, kim đồng hồ bắt đầu chạy, và cả quyển lịch vạn niên cũng vậy.
Cuối cùng kim chỉ vào một giờ khác hẳn và lịch cũng đánh dấu một năm mới hoàn toàn. Lúc này nó chỉ năm 1206.
Jason vẫn chưa nản chí, nó tin rằng con số đó có thể gợi ý mốc giờ mà nó phải chỉnh. Năm 1206 cũng có thể đọc như đọc giờ: 12 giờ 6 phút. Cậu bé chỉnh lại giờ trên mặt đồng hồ và lại lên hết dây cót.
Lần thứ hai kim đồng hồ di chuyển rất nhanh trên mặt khắc và lịch lại đánh dấu trên một con số mới, năm 334.
“Đủ rồi!” Jason đầu hàng. “Thế này là quá lắm rồi! Giải đáp mật mã và nghiên cứu thứ tự bộ bài Tarot thì được, chứ đừng yêu cầu tớ phải làm gì đó với những con số...”
“Số à?” Rick đột nhiên nhảy dựng lên. “Bọn mình có thể thử gọi tới số được chỉ dẫn trên tấm biển! Có khi lại gọi được ai đó đến mở cửa.”
“Ý kiến hay đấy!” Julia đồng tình. “Bọn mình hãy tìm một cửa hiệu nào đó và hỏi gọi điện thoại nhờ thôi.”
“Dĩ nhiên là bọn cháu đã bắt đầu đọc sách của cô rồi cô Calypso...” Mấy phút sau, bên trong cửa hàng sách, Julia nói dối không hề chớp mắt. “Những đầu sách cô khuyên bọn cháu đọc đúng là tuyệt vời!”
Người phụ nữ nhỏ nhắn dò xét từng đứa một, sau đó cô dừng lại ở Rick.
“Cả cháu nữa chứ, Banner?”
“Ồ, chắc chắn rồi ạ...” Cậu lắp bắp.
“Cô cược là cháu còn chẳng nhớ tên cuốn sách mà cháu phải đọc,” cô Calypso vừa vuốt phẳng chiếc váy màu xanh, vừa gây sức ép lên nó.
Rick cứng người lại, lòng kiêu hãnh bị tổn thương.
“Không phải thế đâu! Cháu vẫn còn nhớ như in. Nó là... à là... cuốn...”
Dù cố gắng nhưng có vẻ tiêu đề cuốn sách chẳng để lại chút ấn tượng nào trong trí nhớ của cậu.
“Thế nào?”
“Cô muốn biết sự thật phải không cô Calypso?” Julia thở dài chen ngang vào.
“Cô rất vui nếu được biết.”
Mặt Rick đã đỏ gay đỏ gắt. Cậu đã gây ấn tượng xấu không biết bao nhiêu lần rồi... Chủ nhật kiểu gì thế không biết! Cậu gần như không nhận ra mình nữa: cậu bé thông minh, chính xác và luôn đúng hẹn đâu rồi?
“Cô Calypso, sự thật là...” Rick tiếp lời và mở to mắt hết nhìn Julia đến Jason. “ Tối hôm qua cháu phải đọc xong một cuốn. Vì thế cháu chưa thể bắt đầu cuốn mới. Cô biết đấy, cháu không thích đọc sách mà bỏ dở giữa chừng...”
“Một cuốn sách khác hả Banner?” Người phụ nữ nhỏ bé đập tay vào nhau và vờ như bị ngất. “Nào, chúng ta cùng nghe xem tác phẩm nào lại làm cho cháu say sưa cả đêm hôm qua nào?”
Rick ngẩng lên.
“Con cá sấu của những tấm bản đồ bị thất lạc,” cậu đánh bạo. “Đó là câu chuyện về pharaoh Tutankhamon bị lạc trong một Ngôi Nhà Sự Sống ở Ai Cập, một kiểu mê cung khổng lồ đầy những hốc tường để lưu giữ mọi thứ, và ở đó ngài bị một con cá sấu ăn thịt người đuổi theo vì nó muốn tìm ra tấm bản đồ trước ngài. Nhưng vì Tutankhamon là pharaoh nên tất cả những viên quan của Xứ Punt, một nơi vô cùng quan trọng đối với người Ai Cập cổ đại, đã bao vây con cá sấu khổng lồ và cứu vị pharaoh trẻ tuổi của họ.”
Cô Calypso đứng thẳng người lại và nhận xét:
“Nghe có vẻ thú vị đấy.”
“Cực kỳ thú vị ạ,” Rick nói tiếp. “Nếu cô muốn cháu sẽ cho cô mượn sách.”
May sao cô Calypso có vẻ hài lòng với lời giải thích của Rick.
“Bây giờ cô cho bọn cháu gọi nhờ điện thoại với nhé?” Julia vẻ ngây thơ hỏi.
Chiếc điện thoại bằng nhựa đen nằm sau quầy thu ngân. Julia nhấc ống nghe lên và quay số ghi trên tấm biển ở cửa hàng của ông Peter Dedalus. Cách cô bé vài bước, cô Calypso đang cho hai đứa kia xem một cuốn tiểu thuyết có đề tựa Century, mà theo lời cô thì tuyệt đối không thể bỏ lỡ được.
Trong khi chờ ai đó trả lời điện thoại, Julia lơ đễnh đọc những ghi chú trên những giá sách xung quanh quầy thu ngân: “sách đã xếp và chưa bao giờ lấy ra”, “sách phải thay nhưng không thể thay nữa”, “sách cần xếp trong tuần” và “sách đem tặng”.
Trên giá sách thấp nhất có mấy tập sách được đánh dấu hỏi.
Nhìn thấy một cuốn có gáy bằng nhung đỏ với ba dấu hỏi to tướng, Julia rất đỗi tò mò.
Cô kéo dây điện thoại để tiến lại gần cuốn sách và tìm hiểu xem nó nói về cái gì: đó là một cuốn sách bỏ túi cũ, đã bị ố vàng và quăn mép sau nhiều năm, trên trang bìa có bức ảnh một bến cảng nhỏ.
Nhưng thứ làm cho cô bé phải nín thở lại là tiêu đề của nó:
NGƯỜI LỮ HÀNH TÒ MÒ
Sách hướng dẫn du lịch bỏ túi tại Kilmore Cove và khu vực lân cận
Julia dò xét để chắc chắn là không có ai đang nhìn mình: cô Calypso đang sắp xếp một loạt sách kinh điển, trong khi đó Jason và Rick đang lơ đãng giở một cuốn sách đầy hình vẽ.
Tim cô bé bắt đầu đập nhanh hơn.
Đầu dây bên kia vẫn đang đổ chuông. Kẹp ống nghe vào giữa tai và vai, cô bé với tay để chạm tới bìa cuốn sách.
Cô thử mở nó ra: những trang sách vẫn còn dính lấy nhau như thể nó chưa từng được ai đọc trước đó. Lúc này, vì quá tò mò, Julia nắm chặt lấy cuốn sách hướng dẫn du lịch và lôi nó ra khỏi giá sách.
Khi cô bé mở trang bìa thì có một tờ giấy rơi ra. Julia chộp lấy nó rất nhanh, nhưng khi cúi người với ra phía trước, ống nghe bị tuột và rơi xuống quầy thu ngân, phát ra một âm thanh ầm ĩ.
“Xảy ra chuyện gì vậy?” Cô Calypso hỏi.
Julia làm mọi thứ trong nháy mắt: cúi xuống nhặt tờ giấy và đút vào túi, xếp cuốn sách du lịch vào chỗ cũ trên giá, cầm ống nghe lên và đứng bật dậy như lò xo. Sau khi làm tất cả những việc này, cô cười với vẻ mặt tuyệt vời nhất của một cô bé ngoan, cố chế ngự vẻ hoảng sợ và giả vờ nói với cái điện thoại không người nghe:
“A lô? Vâng, chào buổi sáng, vâng... Cháu gọi để hỏi về cửa hàng của ông Peter Dedalus... Vâng, đúng rồi, cái ở Kilmore Cove ạ. À à. À à. Cháu hiểu rồi. Vậy thôi ạ. Bác không phải để ý đâu. Dẫu sao cũng cảm ơn bác và hẹn sớm gặp lại.”
Julia gác máy, nhanh như một chú thằn lằn nhỏ, liếc đuôi mắt kiểm tra lại xem cuốn sách đã ở đúng chỗ chưa. Sau đó cô bé lách ra khỏi quầy thu ngân và đi ra chỗ hai đứa kia mà không dừng lại lấy một giây nào để cười với cô Calypso.
“Sao rồi?” Jason hỏi.
“Chẳng được gì cả. Chỉ có mỗi người quét dọn. Văn phòng đóng cửa.”
“Khỉ thật, chủ nhật mà! Lẽ ra bọn mình phải nghĩ ra ngay chứ nhỉ.”
“E hèm...” Julia nói và bồn chồn nhìn quanh.
Jason và Rick hiểu ngay rằng tốt hơn hết cả bọn nên ra khỏi đó, thế là chúng nhanh chóng chào cô Calypso rồi đi ra.
Người phụ nữ còn đứng nhìn chúng qua ô cửa kính, sau đó cô vừa làm nốt công việc sắp xếp những cuốn sách văn học Anh kinh điển và đồ sộ vừa huýt sáo theo giai điệu một bài hát dễ thương.
Vài phút sau, một người phụ nữ trung niên bước chân vào Đảo Calypso, bà ta đội một chiếc mũ nhỏ xinh và đi giày du lịch màu trắng. Bà bước thẳng tới giá xếp những tiểu thuyết tình yêu với dáng điệu quả quyết và chọn một cuốn có bìa đỏ.
“Cuốn này,” bà quyết định dứt khoát.
“Lựa chọn tuyệt vời,” cô Calypso có lời khen ngợi và ra viết hóa đơn.
Cái máy cũ kỹ bắt đầu hoạt động và phát ra tiếng kêu như đồng hồ quả lắc. Trên máy, một hình người tí hon bằng sắt ngả mũ một cách cứng nhắc, trong lúc đó ở dưới chân nó một tờ hóa đơn rơi ra.
“Đây rồi,” cô Calypso nói và giao hóa đơn cho quý bà nọ.
“Cái máy thu ngân thật đẹp!” Bà quan sát. “Tôi thấy nó cũ lắm rồi hay sao ấy nhỉ.”
“Vâng, nhưng nó vẫn còn hoạt động rất tốt,” cô Calypso trả lời và vuốt ve mấy phím bấm tròn bằng đồng đỏ. “Nó được một thợ thủ công trong làng chế tạo ra.”
“Vậy thì chắc là nó rất bền! Nhưng chỉ một thời gian nữa thôi, hẳn là quan chức chính phủ sẽ yêu cầu cô phải thay nó, bởi nó không đáp ứng được những bộ luật hành chính kỳ lạ...”
“Cũng có thể...” Calypso cười. “Nhưng trước tiên người đó phải tìm được tôi đã.”
Chính lúc đó cô quan sát chiếc đồng hồ đo điện thoại lắp trên tường.
“Lạ thật,” cô nghĩ, “cuộc điện thoại của cô bé kia không làm cho công tơ tăng thêm số nào”.
Ngay khi ra khỏi cửa hàng sách của cô Calypso, Julia chạy một mạch. Cô bé chỉ dừng lại khi chúng đến ngõ Kẹo Chubber.
Khi Jason và Rick hỏi cô lý do làm sao vội vã như vậy, cô lấy từ trong túi một tờ giấy nhàu nhĩ.
“Cái đó chị tìm thấy ở đâu vậy?”
“Nó ở trong một cuốn sách hướng dẫn du lịch cũ về Kilmore Cove!”
Trên một mặt của tờ giấy có hình vẽ phác họa bằng bút chì một con tàu đang đi ra từ đường hầm. Phía dưới có viết: Điều gì xảy ra với những đường ray sau đường hầm? Ở mặt sau tờ giấy, một hình phác thảo khác về bức tượng vị vua nước Anh chỗ bọn trẻ đi qua sáng hôm đó. Người họa sĩ vô danh lần này chú thích:??? Ở nước Anh chưa từng tồn tại một vị vua William Đệ Ngũ nào cả!
“Điều này nghĩa là sao nhỉ?” Rick thốt lên, tay nó bắt đầu run lẩy bẩy. “Gì thế này, một trò đùa à?”
“Mình không biết chắc câu chuyện về vị vua này có thật không... Mình chưa bao giờ giỏi môn lịch sử.”
“Tại sao lại phải có bức tượng của một ông vua chưa bao giờ tồn tại?!”
“Hơn nữa trông ông ta còn khá giống ông Nestor phải không?” Jason nói đùa làm cho cả hai đứa kia cùng bật cười. “Còn chuyện về đường ray tàu hỏa? Điều gì có thể xảy ra sau đường hầm nhỉ?”
Rick lắc đầu.
“Mình không biết đâu. Nhưng bọn mình có thể đi kiểm tra. Đường hầm xe lửa cách chỗ này năm phút đạp xe thôi.”
Jason lại ra trước cửa hiệu của ông Peter Dedalus.
“Nhưng trước tiên bọn mình phải vào bên trong cửa hàng này đã!” Nó nói.
“Bằng cách nào? Cái máy đó chẳng muốn hoạt động theo bất cứ cách nào!”
“Các cậu nghĩ vậy ư?” Jason thốt lên với vẻ ranh mãnh.
Phát hiện của cô chị gái đã lại thắp lên trong cậu hy vọng. Cậu cảm thấy ông Ulysses Moore không bỏ rơi chúng và theo một cách nào đó, ông ấy lại một lần nữa tìm cách liên lạc với chúng.
“Có lẽ bọn mình chỉ cần tìm hiểu... cái máy dùng để làm gì.”
Ngày tháng trên quyển lịch vạn niên không hề thay đổi kể từ lần cuối Jason di chuyển kim đồng hồ.
“Chìa khóa để mở cánh cổng nằm trong quyển lịch,” Jason đánh liều nói. “Nào, Rick... cậu hãy nghĩ đi!”
Trong không khí lan tỏa hương thơm của bánh ngọt mới ra lò, Rick bắt đầu nói ra suy nghĩ của mình:
“Năm 334 là sai. Nhưng ngày và tháng trong lịch lại đúng. Điều này nghĩa là thực ra năm không phải là một năm nào đó. Có lẽ cần đặt đồng hồ sao cho giờ trùng khớp với con số trên lịch.”
“Bọn mình đã thử rồi nhưng chẳng có điều gì xảy ra cả.”
Rick nói tiếp:
“Vậy thì cần kết hợp con số đó với một con số khác...”
“Số nào cơ?”
“Ví dụ như giờ mà chúng ta đến cửa hiệu.”
“Bây giờ là mấy giờ rồi?”
“17 giờ,” Julia trả lời.
“Vậy thì... Bọn mình sẽ biến 17 giờ 00... thành 1700. 1700 + 334 bằng...”
Sau vài phép tính chúng đến được kết quả: 2034.
“Được rồi. Bọn mình thử cài đồng hồ thành 20 giờ 34 phút...”
Rick đặt lại kim đồng hồ và Jason lên dây cót.
Cạch! Tấm bảng kêu lên nhưng nó chẳng mở ra. Những chiếc kim lại chạy ngẫu nhiên trên đồng hồ và lịch chỉ vào số 116.
“Nó không mở,” Julia thở dài.
“Nhưng nó đã kêu Cạch!” Rick nói. “Nó chưa từng kêu từ nãy đến giờ.”
Bọn trẻ lặp lại thao tác đó. Vì giờ thì đã trôi qua một phút nên chúng cộng 1701 với 116 thành 1817.
“18 giờ 17 phút...” Rick đếm và dịch chuyển nhanh những chiếc kim đồng hồ.
Jason lên dây cót và... tấm bảng lại kêu Cạch!
“Nó vẫn không mở,” Julia lại thở dài lần nữa.
Nhưng lần này cô bé đã sai.
Ulysse Moore Tập 3 - Ngôi Nhà Gương Ulysse Moore Tập 3 - Ngôi Nhà Gương - Pierdomenico Baccalario Ulysse Moore Tập 3 - Ngôi Nhà Gương