Số lần đọc/download: 3609 / 102
Cập nhật: 2015-07-15 23:34:21 +0700
Người Đẹp Ngủ Yên Suốt Chuyến Bay Dài
N
àng đẹp và linh hoạt với làn da mịn màu bánh mì và đôi mắt hạnh đào xanh; làn tóc suông đen nhánh xõa ngang vai; nơi nàng toát ra vầng hào quang nguyên sơ có thể là từ xứ Indonesia xa xăm hay từ vùng Andem hoang dã. Nàng ăn mặc với kiểu trang phục tinh tế: Một áo jacket bằng lông linh miêu, áo bờ lu bằng lụa thô với những bông hoa trang nhã, quần dạ thiên nhiên và giày có sọc hẹp màu hoa giấy. "Đây là người đàn bà xinh đẹp nhất mà ta chưa hề thấy", tôi nghĩ thế khi thấy nàng sải bước ngang qua êm ru như dáng bước một nàng sư tử cái trong khi tôi đứng chờ trong dãy người đi vào phi trường Charles de Gaule ở Paris, chờ chuyến bay đi New York. Nàng là một xuất hiện siêu nhiên chỉ hiện hữu trong khoảnh khắc và tan biến vào đám đông ở ga cuối.
Lúc đó lả chín giờ sáng. Suốt đêm trước, trời đổ tuyết liên miên, sự lưu thông trở nên khó khăn hơn thường lệ nơi các đường phố và càng chậm hơn trên các xa lộ, nơi các xe tải sắp hàng sát vai nhau và xe hơi tỏa hơi nóng trong tuyết.
Tuy nhiên bên trong ga cuối của phi trường, thời tiết vẫn còn đang mùa xuân.
Tôi đứng sau một bà Hà Lan lớn tuổi càu nhàu suốt buổi về sự nặng nề cồng kềnh của mười một cái va li bà mang theo bên mình. Tôi đã bắt đầu thấy nản thì bỗng thấy sự xuất hiện thoáng chốc khiến tôi ngừng thở và vì thế tôi đã không hề chú ý đến sự xung đột đã chấm dứt như thế nào. Rồi thì người bán vé đã kéo tôi từ trên các tầng mây xuống bằng lời trách móc sự đãng trí của tôi. Bằng cách ngỏ lời xin lỗi trước, tôi hỏi cô có tin vào tình yêu ngay tia nhìn đầu tiên hay không. "Dĩ nhiên là tin" cô trả lời "Những loại tình yêu khác đều không thực". Cô ta vẫn dán mắt vào màn hình máy vi tính và hỏi tôi muốn chỗ ngồi ở nơi được hút thuốc hay không hút thuốc.
"Chẳng thành vấn đề" tôi nói với vẻ ranh mãnh cố ý "miễn là tôi không vướng víu với mười một cái valy".
Cô biểu lộ sự đánh giá của mình bằng một nụ cười doanh thương nhưng tia nhìn không rời khỏi màn hình lấp lánh sáng.
"Hãy chọn một con số" cô bảo tôi. "Ba, bốn hoặc bảy".
"Số bốn".
Nụ cười cô ánh lên tia chiến thắng.
"Trong suốt. mười lăm năm tôi làm việc tại đây" cô nói "anh là người đầu tiên không chọn số bảy".
Cô ta viết số ghế ngồi vào thẻ lên tàu của tôi và trả lại cho tôi cùng tất cả các giấy tờ liên quan, nhìn tôi lần đầu tiên với đôi mắt màu nho, một điều an ủi cho đến khi tôi thấy lại Người Đẹp. Chỉ khi đó nàng mới thông báo cho tôi rằng phi trường vừa đóng cửa và mọi chuyến bay đều hoãn lại.
"Bao lâu?".
"Điều đó tùy ở Chúa" cô nói với nụ cười. "Đài phát thanh thông báo sáng nay rằng có thể đây là trận bão tuyết lớn nhất trong năm".
Cô đã lầm: Đây là trận bão tuyết lớn nhất thế kỷ. Nhưng trong phòng đợi vé hạng nhất, mùa xuân vẫn hiện diện tràn đầy với hoa hồng tươi trong lọ, nhạc thính phòng vẫn tuyệt diệu và ru êm tâm hồn, đúng như ý hướng của các nhà soạn nhạc đã sáng tạo ra nó. Tất cả bỗng nhiên khiến tôi nghĩ rằng đây là nơi trú ẩn thích hợp cho Người Đẹp và tôi tìm nàng ở các chỗ đợi khác, bước chân bị cuốn theo sự táo bạo của mình. Nhưng phần đông ở đấy là các vị đàn ông trong đời thực đang đọc báo tiếng Anh trong khi quí phu nhân của họ đang nghĩ về một anh chàng nào khác, khi các bà, qua khung cửa kính lớn, nhìn mấy chiếc máy bay chết dí trong tuyết, các cơ xưởng băng giá, những cánh đồng mênh mông xứ Roissy bị tàn phá bởi bầy sư tử hung hãn. Đến giữa trưa thì không còn chỗ để ngồi và cái nóng trở nên oi nồng khó chịu đến nỗi tôi phải thoát ra tìm một chút không khí để thở.
Bên ngoài, tôi thấy một cảnh tượng tràn ngập. Mọi người chen chúc vào các phòng đợi và chôn chân nơi các hành lang ngột ngạt và cả các bậc thang, ngổn ngang trên sàn với các con thú cưng của họ, với con cái, với hành lý. Việc liên lạc với thành phố đã bị cắt dứt và tòa nhà bằng chất nhựa trong giống một cái hộp không gian bị vây khốn trong bão tố. Tôi không thể ngăn được ý nghĩ rằng Người Đẹp cũng phải ở một nơi nào đó giữa các bầy đàn đã được thuần hóa và tính ngông ngạo đã gây cảm hứng cho tôi với một lòng can đảm mới để chờ đợi.
Vào bữa ăn trưa, chúng tôi đã nhận ra rằng chúng tôi đã đắm tàu. Các hàng người nối đuôi vô tận bên ngoài bảy nhà hàng ăn, các quán cà phê, các bar rượu và trong khoảng non ba tiếng đồng hồ, tất cả các nơi này phải đóng cửa vì không còn gì để ăn hay uống. Các đứa bé, một lúc nào đó trông cũng giống như mọi đứa bé khác trên đời, bắt đầu đồng loạt khóc vang lên, và mùi bầy đàn bắt đầu bốc lên từ đám đông. Đó là thời điểm của bản năng. Trong cái đám tranh giành hỗn độn đó, món duy nhất tôi tìm được để ăn là hai cốc kem va-ni cuối cùng trong một quán nhỏ cho trẻ em. Những người hầu bàn đặt ghế lên bàn khi những người chủ đã đi, trong khi tôi chậm rãi ăn ở quầy, tự ngắm mình trong gương với cốc kem nhỏ cuối cùng, muỗng kem nhỏ cuối cùng và nghĩ về Người Đẹp.
Chuyến bay đến New York, lúc đầu được dự tính vào lúc mười một giờ sáng, đã rời phi đạo vào lúc tám giờ tối. Vào lúc tôi xoay xở để lên tàu, các hành khách hạng nhất khác đã sẵn sàng rời chỗ ngồi và một tiếp viên hàng không dẫn tôi lại chỗ của tôi. Tim tôi ngừng đập.
Sát chỗ ngồi của tôi, Người Đẹp chiếm hữu khoảng không gian của mình với sự uy nghi của một nhà du hành lão luyện.
"Nếu tôi có viết điều này cũng chẳng ai tin tôi" tôi nghĩ vậy.
Tôi cố ấp úng thốt ra một lời chào mơ hồ mà nàng như chẳng hề nghe.
Nàng an tọa như nàng sắp sống nơi đó hàng năm trời, sắp đặt mỗi vật vào đúng chỗ, ngăn nắp trật tự cho đến khi chỗ ngồi của nàng được sắp xếp giống một căn nhà lý tưởng, nơi mọi vật đều trong tầm tay với. Trong thời gian đó, một tiếp viên mang đến cho chúng tôi cốc sâm banh chiêu đãi. Tôi cầm một ly mời nàng nhưng nghĩ tốt hơn nếu rượu được đưa đúng lúc, mời đúng người. Vì nàng chỉ muốn một ly nước lã và nàng yêu cầu tiếp viên, lần đầu bằng một thứ tiếng Pháp khó ai hiểu nổi, rồi sau đó bằng một thứ tiếng Anh cũng chỉ gọi là lưu loát hơn một tí, đừng đánh thức nàng vì bất cứ lý do gì trong suốt chuyến bay. Giọng nàng ấm áp nghiêm trang và hòa lẫn với nỗi buồn phương Đông vời vợi.
Khi tiếp viên mang lại ly nước, nàng đặt hộp điểm trang với bốn góc viền đồng lên gói hành lý xách tay, lấy hai viên màu vàng từ một cái hộp đựng nhiều viên khác đủ màu. Nàng làm mọi việc theo một cung cách long trọng và có phương pháp như thể không có điều gì bất ngờ xảy ra từ khi nàng chào đời. Cuối cùng, nàng kéo tấm màn che cửa sổ xuống, vặn thật thấp phần dựa ghế ngồi, trùm chăn đến tận ngang ngực mà không cởi giày, mang chiếc mặt nạ ngủ, quay lưng về phía tôi, rồi ngủ một mạch, không một tiếng thở dài, không hề thay đổi tư thế, suốt tám tiếng đồng hồ đằng đẵng và mười hai phút thêm, trên chuyến bay đến New York.
Thật là một cuộc hành trình khiến tôi nồng ấm cả tâm hồn. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng trong thiên nhiên không có gì đẹp hơn người đàn bà đẹp và tôi chẳng thể thoát khỏi, dù chỉ trong khoảnh khắc, hình tượng thanh thoát của một "thư trung hữu nữ nhan như ngọc" đang chìm đắm trong giấc điệp êm đềm bên cạnh tôi. Người tiếp viên nam biến đi ngay sau lúc phi cơ cất cánh; một tiếp viên khác với đầu óc rất duy lý đến thay phiên, đã cố gắng đánh thức Người Đẹp dậy để đưa cho nàng hộp đựng đồ toa lét và một bộ trợ thính (earphones) để nghe nhạc. Tôi lặp lại lời dặn của nàng cho người tiếp viên trước đây, nhưng anh chàng mới thay này nhấn mạnh ý muốn nghe từ chính miệng Người Đẹp, rằng nàng cũng chẳng muốn dùng món xúp. Anh chàng tiếp viên cho rằng lời dặn của nàng cần được xác nhận và anh ta trách tôi bởi vì Người Đẹp không đeo tấm bảng "Xin đừng làm phiền" quanh cổ nàng.
Tôi ăn món xúp trong đơn độc, tự nhủ thầm mọi việc mà có lẽ tôi đã nói với nàng nếu nàng tỉnh giấc. Giấc ngủ của nàng thật sâu lắng đến độ tôi lo lắng nghĩ rằng nàng đã uống thuốc tự tử chứ không phải để ngủ. Mỗi lần uống, tôi nâng ly chúc nàng:
"Chúc sức khỏe Người Đẹp".
Khi xong món xúp, đèn trong khoang mờ đi và một bộ phim được chiếu lên màn ảnh, nhưng chẳng có ai xem và hai chúng tôi lẻ loi trong bóng tối chập chùng của thế giới bao la.
Cơn bão tuyết lớn nhất thế kỷ đã qua đi, đêm trên Đại Tây Dương thật mênh mông trong vắt và chiếc phi cơ như lững lờ bất động giữa trời sao. Tôi chiêm ngưỡng nàng, từng phân, từng ly, trong hàng giờ liền và dấu hiệu đời sống duy nhất tôi có thể khám phá đó là bóng mờ của giấc mộng thoáng qua trên trán nàng như phản ảnh của các đám mây trên mặt nước hồ tĩnh lặng trong veo. Quanh cổ nàng mang một sợi dây chuyền thật trang nhã, mảnh mai đến gần như vô hình, hòa lẫn với làn da vàng ánh của nàng, đôi tai hoàn hảo không xỏ lỗ tai, móng chân, móng tay hồng nhuận chứng tỏ một sức khỏe tốt và trên tay trái nàng đeo một chiếc nhẫn trơn. Vì nàng trông chưa quá tuổi đôi mươi, tôi tự an ủi với ý nghĩ rằng đó không phải là nhẫn cưới mà chỉ là dấu hiệu của một đính ước phù du "Biết em đang ngủ, thanh thản, tinh khiết, thật gần gũi đến thế trong vòng tay bị xiềng xích của ta". Tôi nghĩ trên đầu bọt sóng champagne, lặp lại những vần thơ bậc thầy của Gerardo Diego.
Rồi tôi hạ thấp lưng tựa ghế ngồi của mình ngang với ghế ngồi của nàng, và chúng tôi cùng nằm bên nhau, gần sát nhau như thể chúng tôi đang cùng nằm trên giường tân hôn.
Không khí từ hơi thở của nàng cũng giống làn hơi từ giọng nói của nàng và làn da nàng toát ra hơi thở diệu kỳ của mùi hương nhan sắc. Thật hầu như khó tin: Mùa xuân năm trước tôi đã đọc một cuốn tiểu thuyết hay tuyệt của Yasunari Kawabata viết về các vị hào phú thời xưa ở cố đô Kyoto đã dám vung tay hàng khối tiền rất lớn để chi cho một đêm được nhìn ngắm những cô gái đẹp nhất trong thành phố, khỏa thân và lơ mơ vì thuốc, khi họ mê đắm với ân tình trong một chiếc giường. Các vị không thể đánh thức các nàng dậy hay đụng chạm vào các nàng mà họ cũng không muốn làm thế, bởi vì tinh túy của niềm lạc thú nơi họ là nhìn các nàng say sưa trong giấc điệp. Đêm đó, khi nhìn ngắm Người Đẹp ngủ, tôi không chỉ "ngộ" được nét tinh tế xa xưa đó mà còn "sống" với nó trọn vẹn.
"Ai có thể nghĩ được rằng", tôi tự nhủ, với lòng phù phiếm bốc đồng do men champagne "rằng ta đã trở thành một tay phong lưu công tử Nhật Bản thời xa xưa vào một thời điểm muộn màng như bây giờ".
Tôi nghĩ mình đã ngủ trong nhiều giờ, bị ngấm men champagne và tiếng nổ câm lặng của màn ảnh, khi thức giấc, đầu tôi nhức như búa bổ. Tôi đi vào phòng tắm. Sau chỗ tôi ngồi hai ghế, bà già với mười một cái valy, nằm trong một tư thế dạng người trông thật ghê khiếp, giống một tử thi đang phơi thây nơi chiến địa. Đôi kính lão của bà ta với dây vòng hạt cườm màu rơi trên sàn giữa lối di và, trong một lúc tôi tự cho mình niềm thích thú ranh mãnh lờ đi, không nhặt chúng lên cho bà ta.
Sau khi thoát khỏi ảnh hưởng của champagne, tôi tự nhìn ngắm mình trong gương, thật xấu xí, đáng khinh và ngạc nhiên khi nhận ra sự tàn phá của tình yêu có thể khủng khiếp đến thế. Máy bay mất độ cao mà không thông báo, nhưng viên phi công đã khéo léo điều chỉnh bay thẳng trở lại và tiếp tục phóng hết tốc độ về phía trước. Dấu hiệu "Trở về chỗ ngồi" bật sáng lên. Tôi nôn nao với niềm hy vọng rằng cơn cuồng đảo của Chúa có thể đánh thức Người Đẹp dậy và nàng sẽ phải tìm chỗ ẩn trú trong vòng tay tôi để tránh nỗi kinh hoàng. Trong lúc vội vã về chỗ ngồi, tôi suýt dẫm lên đôi kính của bà già Hà Lan và có lẽ tôi đã thấy thích thú nếu việc đó xảy ra. Nhưng tôi đã quay bước, nhặt đôi kính đặt lên túi xách của bà với lòng biết ơn chợt đến vì bà ta đã không chọn ghế ngồi số bốn trước khi tôi chọn.
Giấc ngủ của Người Đẹp thật triền miên. Khi phi cơ ổn định lại, tôi phải cố cưỡng lại sự cám dỗ muốn lay nàng dậy vì một cái cớ nào đó, bởi vì điều tôi thiết tha muốn trong giờ cuối của chuyến bay, là được thấy nàng thức giấc, ngay cả nếu nàng giận dữ, để tôi có thể tìm lại tự do và có lẽ cả tuổi trẻ của tôi. Nhưng tôi đã không làm được điều đó. "Quỉ quái thật" tôi tự nhủ với lòng khinh miệt "Tại sao mình lại không được sinh ra dưới dấu hiệu Kim Ngưu".
Nàng tự thức giấc lúc đèn đáp xuống phi đạo bật sáng lên. Nàng xinh đẹp và tươi mát như đã trải qua một giấc ngủ êm đềm nơi vườn hồng. Đó là lúc tôi nhận ra rằng, giống các cặp vợ chồng già, những người ngồi gần nhau trên cùng các chuyến bay không chào nhau buổi sáng khi họ thức giấc.
Nàng cũng thế. Nàng gỡ mặt nạ ra, mở đôi mắt rạng rỡ, nâng thẳng lưng tựa ghế ngồi, dẹp chăn đắp qua một bên, lắc nhẹ mái tóc cho buông lơi xuống tự nhiên, đặt hộp trang điểm lên đôi đầu gối và sửa soạn một cách nhanh chóng - và không cần thiết, tôi nghĩ - vừa đủ hết khoảng thời gian để nàng không hề nhìn đến tôi cho đến khi cánh cửa máy bay mở ra. Rồi nàng khoác áo jacket lông linh miêu vào người, vượt qua tôi với lời xin lỗi ước lệ bằng thứ tiếng Tây Ban Nha châu Mỹ La tinh thuần khiết, rời xa mà chẳng một lời từ giã hay ít ra cũng cám ơn tôi về tất cả những gì tôi đã làm để biến cái đêm chúng tôi ngồi gần bên nhau thành một đêm hạnh phúc. Rồi nàng biến đi như giọt sương lung linh huyền ảo dưới ánh nắng chói chang của rừng rậm Amazone là cái thành phố New York vĩ đại mà vô hồn kia.
Tháng sáu 1982