Phần thưởng cho sự chịu đựng gian khổ chính là những kinh nghiệm bạn thu được.

Aeschylus

 
 
 
 
 
Tác giả: Minette Walters
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Vu Duy
Upload bìa: Vu Duy
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 18
Cập nhật: 2020-11-29 02:16:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16
áng thứ Hai, với sự mệt mỏi và trầm uất lại đè nặng lên vai, Roz đi tới khách sạn Belvedere và đặt tấm ảnh lên quầy tiếp tân.
“Đây có phải ông Lewis không?” Cô hỏi bà chủ khách sạn.
Người phụ nữ tử tế ấy đeo kính lên và chăm chú nhìn tấm ảnh. Bà ta lắc đầu tỏ vẻ áy náy, “Không phải rồi, tôi xin lỗi. Thậm chí còn chẳng giống chút nào.”
“Giờ thử lại xem.” Cô đặt một tấm giấy bóng kính màu lên tấm ảnh.
“Chúa ơi! Thật không thể tin nổi. Đó đúng là ông Lewis.”
Marnie xác nhận, “Đúng là ông ta. Đồ chết bầm.” Bà ta nheo mắt. “Trông ông ta không được ăn ảnh lắm đúng không? Một cô gái trẻ có thể thấy nét hấp dẫn gì ở con người này cơ chứ?”
“Tôi không biết. Có lẽ là yêu vô điều kiện.”
“Ông ta là ai?”
“Một tên tâm thần,” Roz nói.
Bà ta huýt sáo, “Vậy thì cô phải cẩn thận đấy.”
“Vâng.”
Marnie gõ bộ móng tay sơn đỏ lên mặt bàn, “Có chắc là cô không muốn nói cho tôi biết ông ta là ai không, phòng trường hợp cảnh sát tìm thấy các mảnh xác của cô trên sàn bếp?” Cô thầm nghĩ, hẳn bà ta đang định kiếm chác đây mà.
Roz nhìn thẳng vào người đối diện, “Không, cảm ơn. Đó là chút thông tin mà tôi muốn giữ bí mật. Tôi không muốn đánh rắn động cỏ.”
“Tôi sẽ không tiết lộ gì đâu,” Marnie bĩu môi dỗi hờn như thể bị hiểu nhầm.
“Bà sẽ không thể tiết lộ gì nếu tôi không cho bà cơ hội làm vậy.” Roz nhét tấm ảnh vào túi xách, “Dù gì thì làm thế sẽ là vô trách nhiệm. Bà là nhân chứng quan trọng. Hắn cũng có thể dễ dàng đến tìm bà và băm bà thành từng mảnh nhỏ đấy.” Cô mỉm cười lạnh lùng, “Nếu vậy thì lương tâm tôi sẽ cắn rứt lắm.”
Roz quay trở lại xe và ngồi lặng vài phút, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Nếu có bao giờ cô cần một cựu cảnh sát hiền lành hướng dẫn cho cô vượt qua ma trận các thủ tục pháp lý, thì chính là lúc này đây. Cô chỉ là một kẻ nghiệp dư, có thể dễ dàng mắc lỗi và hủy hoại cơ hội kháng án. Nếu vậy, số phận Olive sẽ đi về đâu? Có lẽ là chết rục trong tù. Olive chỉ được minh oan nhanh chóng khi thủ phạm bị kết án. Dẫu đã nảy sinh những nghi ngờ có cơ sở, nhưng biết đâu phải mất hàng năm trời Bộ Nội vụ mới cảm thấy cần động tay xem xét. Sáu nghi phạm Birmingham* phải chờ bao lâu mới được giải oan? Trách nhiệm khiến bánh xe công lý đi đúng hướng khiến cô sợ hãi.
Nhưng dù miền cưỡng, cô vẫn phải thừa nhận rằng, điều khiến cô thấy áp lực hơn cả là cô biết mình sẽ không đủ dũng khí để viết cuốn sách này nếu gã nhân tình điên rồ của Olive vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Dù cố gắng bao nhiêu, cô cũng không thể gạt những bức ảnh chụp thi thể Gwen và Amber ra khỏi tâm trí.
Cô thụi nắm đấm xuống vô lăng. Anh ở đâu, Hawksley? Đồ chết bầm! Tôi đã luôn xuất hiện đúng lúc vì anh cơ mà.
Graham Deedes đang bước về văn phòng của mình sau một ngày dài ở tòa án. Anh ta nhăn trán khó chịu khi thấy Roz ngồi ở ghế ngoài cửa phòng. Anh ta cố tình nhìn đồng hồ, “Tôi đang bận, thưa cô Leigh.”
Cô thở dài, nhổm dậy khỏi ghế. “Chỉ năm phút thôi,” cô năn nỉ. “Tôi đã đợi anh hai tiếng rồi.”
“Không thể được, tôi xin lỗi. Chúng tôi có khách tới ăn tối và tôi đã hứa với vợ sẽ không về muộn.” Anh ta mở cửa và bước vào phòng, “Hãy gọi điện tới văn phòng và đặt lịch hẹn. Tôi sẽ ở tòa án ba ngày tới nhưng tôi chỉ có thể gặp cô vào cuối tuần thôi.” Anh ta chuẩn bị đóng cửa lại trước mặt cô.
Roz đứng thẳng lên, tựa vai chặn trước khung cửa, và giữ cửa cánh mở bằng một tay, “Olive thực sự có nhân tình. Tôi biết hắn là ai và tôi đã có hai nhân chứng nhận diện được hắn qua ảnh, một người trong số đó là chủ khách sạn mà hắn và Olive thường thuê phòng trong suốt mùa hè trước khi xảy ra vụ án. Tôi còn có một nhân chứng khác sẵn sàng xác nhận lời khai đã từng phá thai của Olive. Mốc thời gian bà ấy cung cấp cho tôi chỉ ra rằng nếu đứa trẻ còn sống thì nó sẽ được sinh ra trong khoảng gần với vụ giết người. Tôi còn biết có hai người, Robert Martin và bố của một người bạn từng chơi với Olive, đã có lần khai báo với cảnh sát rằng Olive không thể giết em gái. Giả thuyết mà cả hai đã độc lập đưa ra là Gwen đã giết Amber, vì rõ ràng bà ta không ưa Amber, và sau đó Olive giết Gwen. Tôi biết những bằng chứng giám định pháp y không củng cố cho giả thuyết này, nhưng nó chứng tỏ còn tồn tại rất nhiều nghi vấn nghiêm trọng mà tôi nghĩ lúc đó anh chưa chú ý đến.”
Roz nhìn thấy vẻ mất kiên nhẫn trên gương mặt anh ta, nhưng vẫn cố nói cho hết, “Hôm trước đó là sinh nhật Olive, và tôi không tin cô ta lại ở nhà vào cái đêm trước hôm xảy ra vụ án. Tôi tin chắc Gwen và Amber đã bị giết trước thời điểm Olive khai nhận mình đã ra tay. Tôi nghĩ Olive về nhà vào lúc nào đó khoảng buổi sáng hoặc buổi chiều ngày mùng 9, phát hiện ra những cái xác trong bếp, biết rằng chính nhân tình của mình là thủ phạm, nên bị sốc và thấy ăn năn tới mức đứng ra nhận tội thay. Tôi nghĩ cô ta thấy vô cùng tự ti, đau buồn, cũng không biết làm thế nào để đối mặt với sự thật rằng bà mẹ đã chết, nói khác đi là chỗ dựa lớn nhất của cuộc đời mình đột nhiên bị cướp mất.”
Deedes nhặt vài tờ giấy trên bàn và nhét vào cặp. Đã từng nghe quá nhiều lời biện hộ giàu sức tưởng tượng nên giờ anh ta tỏ vẻ lịch sự nhiều hơn là quan tâm, “Tôi cho rằng cô đang muốn nói Olive và tình nhân của cô ta đã ở bên nhau vào đêm trước hôm xảy ra vụ án trong một khách sạn nào đó.”
Roz gật đầu.
“Cô có bằng chứng gì không?”
“Không. Họ không đến ở khách sạn mà họ vẫn thường thuê phòng, nhưng điều đó chẳng có gì ngạc nhiên cả. Đó là một dịp đặc biệt. Có thể họ đã tới tận London.”
“Trong trường hợp đó, tại sao cô ta lại cho rằng nhân tình của mình chính là hung thủ? Họ phải đi cùng nhau chứ. Ngay cả nếu hắn bỏ cô ta ở chỗ nào đó rất xa, thì hắn cũng không đủ thời gian quay về gây án đâu.”
“Hắn có thể, nếu lẻn ra ngoài trong đêm,” Roz phản pháo. “Và bỏ lại cô ta một mình ở khách sạn.”
“Tại sao hắn phải làm thế?”
“Bởi Olive đã nói với hắn rằng, nếu không vì đứa con ngoài giá thú của em gái mình và việc mẹ cô ta luôn ghê sợ chuyện đó sẽ xảy ra lần nữa, thì hắn đã có thể làm bố rồi.”
Deedes nhìn đồng hồ đeo tay, “Đứa con ngoài giá thú nào?”
“Đứa trẻ mà Amber sinh ra khi cô ta mới 13 tuổi. Không cần phải bàn cãi về việc đó. Đứa trẻ đã được nhắc tới trong di chúc của Robert Martin. Gwen đã thành công trong việc tống khứ đứa trẻ, và bà ta không muốn phải lặp lại chuyện ấy, thế nên đã thuyết phục Olive phá thai.”
Deedes nóng ruột tặc lưỡi, “Câu chuyện này không thực tế lắm, cô Leigh ạ. Theo những gì tôi biết, cô không có cách nào chứng minh cho những luận điệu vừa rồi. Cô không thể khơi khơi buộc tội ai đó giết người mà thiếu bằng chứng thuyết phục hoặc thiếu tiềm lực tài chính để trả khoản bồi thường khổng lồ nếu thua kiện.” Anh ta lại nhìn đồng hồ, lưỡng lự giữa việc đi hay ở, “Giờ cứ cho rằng giả thuyết của cô là sự thật, thì bố của Olive đã ở đâu khi vợ và con gái ông ta bị giết hại dã man trong bếp nhà mình? Nếu tôi nhớ chính xác thì đêm đó ông ta vẫn ở nhà và đi làm như bình thường vào sáng hôm sau. Hay cô định nói rằng ông ta không hề biết những chuyện đã xảy ra?”
“Đúng, đó chính xác là những điều tôi đang nghĩ.”
Gương mặt thư thái của Deedes bỗng nhăn lại bối rối, “Điều đó thật ngớ ngẩn.”
“Giả thuyết ấy hoàn toàn hợp lý, nếu Robert Martin không có ở nhà. Những người nói Robert ở nhà chỉ có Olive, bản thân Robert và người hàng xóm. Hơn nữa, bà ta chỉ đề cập đến Robert khi khai rằng Gwen và Amber vẫn còn sống vào lúc 8 rưỡi sáng.”
Deedes lắc đầu quầy quậy, “Tất cả đều nói dối sao? Thật là nực cười. Tại sao người hàng xóm lại phải nói dối?”
Roz thở dài, “Tôi biết việc này nghe thật khó chấp nhận. Nhưng tôi đã suy nghĩ rất nhiều nên mới hiểu ra. Robert Martin là một người đồng tính kín. Tôi đã tìm ra quán bar mà ông ta hay lui tới để gặp bạn tình. Ở đó, ông ta khá nổi tiếng với cái tên Mark Agnew. Chủ quán rượu nhận ra ông ta ngay lập tức. Nếu ông ta ở bên bạn tình vào đêm đó rồi đi thẳng tới chỗ làm thì ông ta sẽ chẳng biết chuyện gì đã xảy ra trong căn bếp nhà mình cho đến khi được cảnh sát thông báo.” Cô nhướng mày vẻ giễu cợt, “Và ông ta không bao giờ phải khai thật chuyện mình đã ở đâu, vì Olive tưởng rằng bố ở nhà đêm đó, và khai rằng cô ta chỉ tấn công bà mẹ sau khi ông bố đã đi khỏi.”
“Chờ đã, chờ đã,” Deedes vội nói, như thể đang muốn dắt mũi một nhân chứng khó nhằn. “Đâu thể xảy ra cả hai trường hợp. Một phút trước cô vừa cho rằng tình nhân của Olive bỏ đi giữa đêm để tới giết Gwen.” Anh ta vuốt tay lên tóc như thể cố suy nghĩ cho rành mạch, “Nhưng vì xác Robert không ở hiện trường khi Olive trở về, cô ta hẳn phải biết rằng bố mình đã không ở nhà đêm đó chứ. Tại sao còn khai nhận rằng ông ta ở nhà?”
“Bởi lẽ ra ông ta phải ở nhà. Nghe này, việc tình nhân của Olive lẻn đi lúc nào vốn không quan trọng, nửa đêm hay rạng sáng cũng vậy thôi. Olive không có xe, cô ta hẳn rất buồn khi bị gia đình ngó lơ, cộng với việc đã xin nghỉ một ngày để tận hưởng sinh nhật với bạn trai, nên khả năng cao là cô ta sẽ không về nhà cho tới chiều. Chắc hắn cô ta tưởng rằng nhân tình đã đợi tới lúc Robert đi làm mới lẻn vào tấn công Gwen và Amber, nên theo lẽ tự nhiên cô ta sẽ nhắc đến bố mình trong lời khai. Ông ta sinh hoạt ngủ nghỉ ở căn phòng phía sau, nhưng chẳng ai trong nhà đó, hoặc có lẽ chỉ mình Gwen, biết rằng ông ta lẻn ra ngoài mỗi tối để quan hệ đồng tính.”
Deedes liếc nhìn đồng hồ lần thứ ba, “Không ổn rồi. Tôi phải đi đây.” Anh ta với lấy áo khoác và vắt hờ lên cánh tay, “Cô vẫn chưa giải thích vì sao người hàng xóm lại nói dối.” Anh ta dẫn cô ra ngoài rồi đóng cửa.
Roz ngoái lại nói chuyện với anh ta khi hai người đi xuống cầu thang, “Tôi đoán rằng, khi cảnh sát kể Gwen và Amber đã bị giết, bà ta liền nghĩ ngay đến việc Robert chính là hung thủ, và đoán là vụ này có dính dáng tới chồng bà ta.” Cô nhún vai trước cái khịt mũi tỏ vẻ không tin của Deedes, “Bà ta biết tất cả về những mối quan hệ giả tạo của nhà ấy, biết chồng bà ta dành hàng giờ liền với Robert trong căn phòng phía sau; và tôi nghĩ, chắc hẳn bà ta cũng biết Robert là người đồng tính và tự suy luận rằng chồng mình cũng giống như vậy. Bà ta có thể đã rất sốc cho đến khi nghe tin Olive đứng ra nhận tội giết người. Nếu đúng là Robert ra tay vì tình yêu với Edward, vụ án động trời sẽ hủy hoại mọi thứ, thế nên bà ta cố gắng để tránh cho chồng mình khỏi liên đới bằng cách nói với cảnh sát rằng Gwen và Amber vẫn còn sống sau khi Edward đã rời nhà đi làm.” Cô bước phía trước anh ta suốt dọc hành lang, “May mắn cho bà ta là lời khai ấy không bao giờ bị nghi ngờ vì nó gần như trùng khớp hoàn toàn với những gì Olive đã nói.”
Họ đi qua cửa chính và xuống mấy bậc tam cấp tới vỉa hè.
“Quá trùng khớp sao?” Anh ta lẩm bẩm, “Lời khai của Olive rất đơn giản. Còn giả thuyết của cô lại quá phức tạp.”
“Sự thật luôn phức tạp mà,” Roz nói chắc nịch. “Sự thật là cả ba người họ chỉ mô tả một buổi sáng thứ Tư bình thường. Thế nên đương nhiên sẽ trùng khớp với nhau rồi.”
“Tôi đi lối này,” Deedes chỉ về hướng ga Holborn.
“Được thôi. Tôi sẽ đi cùng anh,” cô phải rảo bước để bắt kịp anh ta.
“Tôi không hiểu cô nói với tôi tất cả những chuyện này để làm gì, cô Leigh ạ. Người mà cô cần nói chuyện lúc này là luật sư cố vấn của cô ta, ông Crew ấy.”
Roz tránh trả lời trực tiếp, “Anh đang nghĩ tôi vừa phá được một vụ án sao?”
Deedes mỉm cười hài hước, hàm răng trắng lóa trên gương mặt đậm màu, “Không, cô còn xa mới phá được án. Cô chỉ vừa mới bắt đầu thôi. Tới chỗ ông Crew đi.”
“Anh là một luật sư,” cô vẫn cố nài nỉ. “Nếu phải đấu tranh vì Olive, anh sẽ cần những gì để chứng minh trước tòa rằng cô ta vô tội?”
“Bằng chứng cho thấy cô ta không thể có mặt ở nhà vào thời gian diễn ra vụ án.”
“Hoặc tìm ra hung thủ thực sụ?”
“Hoặc tìm ra hung thủ thực sự,” anh ta xác nhận. “Nhưng tôi nghĩ không dễ đâu.”
“Tại sao?”
“Vì không có bằng chứng nào chống lại hắn. Nếu giả thuyết của cô là đúng thì hẳn Olive cũng đã che giấu toàn bộ các bằng chứng khác rồi. và cô ta đã rất thành công. Mọi tang chứng còn lại đều chỉ ra rằng cô ta chính là hung thủ.” Anh ta chậm bước khi họ tới ga tàu, “Thế nên, trừ khi tên sát nhân giả tưởng của cô tự ra đầu thú và thuyết phục được cảnh sát rằng hắn biết những điều mà chỉ mình hung thủ mới biết, thì chẳng còn cách nào khác để kháng cáo cho Olive cả.” Anh ta mỉm cười áy náy, “Và tôi không nghĩ giờ hắn sẽ làm thế đâu, đơn giản là bởi trước đó hắn đã không làm thế rồi.”
Từ ga Holborn, Roz gọi điện tới nhà tù, nhờ giám thị nhắn với Olive rằng hôm nay mình không thể tới được. Cô bỗng thấy có gì đó không ổn, về Olive.
Khi Roz bước qua cửa chính của khu nhà cô ở thì cũng đã khá muộn. Hành lang tối đen một cách bất thường. Bật công tắc ở cầu thang và lối đi tầng một, cô thở dài khi thấy đèn không sáng. Chắc lại mất điện. Mọi thứ tối tăm như tâm trạng của chính cô vậy. Cô lần mò trong túi để lấy chìa khóa căn hộ, và dò dẫm bước lên cầu thang, cố nhớ xem liệu nến dùng dở từ lần trước có còn không. Thật may, còn một cây nến trong tủ bếp, nếu không đêm nay hẳn sẽ dài lê thê và tẻ ngắt.
Khi cô đang quờ quạng để bước về phía cánh cửa và sờ tìm chốt khóa thì đột nhiên có thứ gì đó đứng vụt dậy ngay cạnh chân cô và chạm vào cô.
“Á!” Cô hét lên, dùng hết sức bình sinh để đánh nó.
Ngay lúc đó, cô bị nhấc bổng lên, một bàn tay lớn áp chặt vào miệng, “Suỵt,” Hawksley thì thầm vào tai cô và cười đến rung cả người. “Tôi đây.” Anh hôn phớt lên mũi cô. “Ối!” Anh kêu lên, thả cô ra và gập người lại.
“Đừng có quá trớn.” Tay cô quờ quạng xuống nền nhà để tìm chìa khóa, “May cho anh là tôi không có cái trâm cài mũ ở đây đấy. À, thấy rồi,” Cô lại vươn lên lần tìm ổ khóa. “Được rồi.” Cô thử bật đèn bên trong nhưng bóng tối dày đặc vẫn ngự trị. “Xem nào,” cô túm lấy áo khoác và kéo anh vào, “Tôi nghĩ phải có nến ở trong bếp.”
“Mọi việc ổn cả chứ?” Một giọng phụ nữ vọng xuống từ tầng trên.
“Vâng, cảm ơn.” Roz trả lời. “Tôi giẫm phải thứ gì đó. Cắt điện lâu chưa?”
“Nửa tiếng. Tôi đã gọi điện rồi. Cầu chì bị nổ. Họ nói phải mất ba tiếng. Tôi bảo họ nếu lâu hơn thì không đời nào tôi trả tiền điện đâu. Chúng ta phải cứng rắn. Cô cũng nghĩ vậy chứ?”
“Rõ là thế,” Roz đáp, băn khoăn không biết mình đang nói chuyện với ai. Có lẽ là bà vợ nhà Barrett. Cô biết tên họ từ địa chỉ hòm thư nhưng chưa bao giờ nhìn thấy mặt. “Nói chuyện với chị sau nhé,” cô đóng cửa lại, và thì thầm, “Tôi sẽ thử tìm cây nến.”
“Tại sao chúng ta lại phải nói thầm?” Hawksley thì thầm lại.
Roz cười khúc khích, “Bởi trong bóng tối mọi người thường làm thế.”
Anh vấp phải thứ gì đó, “Thật nực cười. Đèn đường vẫn sáng phải không. Chắc hẳn rèm cửa đang buông kín.”
“Có lẽ vậy.” Roz kéo ngăn tủ bếp, “Sáng nay tôi đã để đây.” Cô lần tìm trong đám cuộn chỉ và tua vít, “Đây rồi. Anh có diêm không?”
“Không,” anh kiên nhẫn đáp. “Nếu không tôi đã châm một que rồi. Em có nuôi rắn không đấy?”
“Đừng có ngớ ngẩn. Tôi nuôi một con mèo.” Nhưng Quý bà Antrobus đâu rồi? Lẽ ra khi tra chìa khóa vào ổ, cô đã phải nghe thấy những tiếng kêu vui mừng rồi chứ. Roz đi ngược về phía cửa và sờ soạng tìm chiếc cặp, trong đó có hộp diêm cô mang vào tù. Cô mở khóa và lục lọi trong đống giấy tờ rồi bảo anh, “Nếu anh tìm được sofa, thì rèm cửa ở ngay phía sau ấy. Bên trái có một cái dây kéo nhỏ.”
“Tôi tìm thấy gì đó. Nhưng không phải sofa.”
“Thế là gì?”
“Tôi không biết,” anh cảnh giác nói. “Nhưng dù là gì thì cũng không hay ho lắm đâu. Nó ướt và nhầy nhụa, đang cuốn vào cổ tôi đây này. Em chắc là mình không nuôi rắn chứ?”
Roz bật cười lo lắng, “Đừng có ngốc thế.” Những ngón tay chạm vào hộp diêm, cô nhẹ nhõm chộp lấy nó, quẹt lửa và giơ lên. Hawksley đang đứng giữa phòng, đầu và vai quấn trong chiếc áo ẩm mà cô vừa giặt buổi sáng và treo trên mắc áo chỗ chao đèn. Cô cười rũ, “Anh biết đó không phải là rắn mà,” cô đưa cây nến lại gần ngọn lửa của que diêm.
Hawksley tìm thấy sợi dây và kéo rèm cửa lên để ánh đèn đường rọi vào nhà. Nhờ vậy, cùng với cây nến, căn phòng thoát ra khỏi bóng tối đen đặc. Anh nhìn quanh. Khăn tắm, quần áo, túi đựng đồ, những tấm ảnh nằm la liệt trên bàn và ghế, một cái chăn lông vịt trên sofa rớt một nửa xuống sàn, những chiếc cốc bẩn, và túi giấy đựng khoai tây chiên đã hết nằm vương vãi. “Chà, tuyệt thật,” anh nhấc chân hất miếng bánh pa tê ăn dở đi, “Lâu lắm rồi tôi không có cảm giác thân thuộc giống ở nhà đến vậy.”
“Tôi đâu ngờ anh sẽ tới,” cô cẩn thận nhặt mẩu bánh lên và vứt vào thùng rác. “Chí ít, tôi nghĩ anh cũng sẽ gọi điện báo trước chứ.”
Anh cúi xuống chạm vào quả bóng lông trắng mềm mại đang duỗi mình thư thái trên chiếc chăn lông vịt ấm áp. Quý bà Antrobus liếm tay anh tỏ vẻ đồng ý rồi dùng lưỡi chải chuốt lại toàn bộ thân thể, “Em vẫn thường ngủ trên sofa à?”
“Trong phòng ngủ không có điện thoại.”
Anh nghiêm nghị gật đầu nhưng không nói gì.
Cô tiến về phía anh, khẽ nghiêng cây nến để sáp nóng không chảy vào ngón tay, “Ồ, Chúa ơi, anh không biết tôi vui thế nào khi gặp lại anh đâu. Gần như không thể tin nổi. Anh đã ở chỗ chết tiệt nào vậy? Tôi lo chết mất.”
Anh cúi đầu và áp vầng trán mỏi mệt vào mái tóc thơm ngát của cô. “Nhiều chỗ lắm,” anh đặt hai tay lên vai cô và lướt đầu ngón tay dọc theo cần cổ.
“Đã có lệnh bắt giữ anh,” cô yếu ớt nói.
“Tôi biết.” Môi anh mơn trớn má cô, nhẹ nhàng đến nỗi cô gần như không chịu đựng nổi.
“Chắc tôi sẽ đốt cháy thứ gì đó mất,” cô rên rỉ.
Anh lần xuống và kéo cây nến ra. “Thực tế em đã làm thế rồi.” Anh đặt đôi tay khỏe khoắn xuống mông Roz và kéo cô lại gần. “Câu hỏi là…” anh thì thầm vào cổ cô. “Liệu tôi có nên tắm nước lạnh trước khi sự việc đi quá xa không nhỉ?”
“Đó có phải là một câu hỏi nghiêm túc không?” Liệu anh có thể dừng lại không? Cô thì không thể.
“Không, đó là một câu hỏi lịch sự.”
“Em sắp không chịu nổi rồi.”
“Phải thế chứ sao,” đôi mắt anh lấp lánh trong ánh sáng màu cam của đèn đường. “Chết tiệt, anh đã không chịu nổi hàng tuần rồi.”
Bị đuổi khỏi cái chăn lông vịt, Quý bà Antrobus phẫn nộ bước thẳng vào nhà bếp.
Lát sau, điện sáng trở lại, lấn át ánh vàng leo lét của cây nến sắp tàn và đang chảy dần thành đống sáp trên bàn.
Hawksley vuốt sợi tóc khỏi gương mặt Roz, “Em là người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng biết.”
Cô mỉm cười yếu ớt, “Em tưởng em quá gầy chứ?”
Đôi mắt sẫm màu của anh dịu lại. “Anh biết em nói dối về cái máy hỏng mà.” Anh vuốt ve dọc theo cánh tay thanh mảnh của cô, kẹp chặt lấy chúng bằng những ngón tay rạo rực của mình. Cô hoàn toàn đê mê. Anh nhấc cô lên và đặt cô ngồi lên lòng mình, “Anh đã luôn mơ về cảnh này.”
“Có phải là giấc mơ đẹp không?”
“Không thể sánh với đời thực.”
“Đủ rồi,” lát sau cô nói, trượt khỏi người anh và mặc quần áo vào. “Anh định xử lý thế nào với lệnh bắt giữ?”
Hawksley phớt lờ câu hỏi và gảy gảy những tấm ảnh trên bàn trà, “Đây là chồng em à?”
“Chồng cũ.” Cô vứt cho anh chiếc quần dài.
Anh thở dài và mặc quần vào, sau đó tách riêng tấm ảnh chụp cận mặt Alice ra. “Và đây chắc hẳn là con gái em.” Giọng anh đều đều, “Trông con bé rất giống mẹ.”
“Nghe này,” Roz ngắt lời anh, “Con bé mất rồi.”
Cô đợi anh xin lỗi và đổi chủ đề, nhưng Hawksley mỉm cười và chạm ngón tay vào gương mặt tươi cười của con bé, “Thật xinh xắn.”
“Phải.”
“Tên cô bé là gì?”
“Alice.”
Anh chăm chú nhìn tấm ảnh gần hơn, “Anh nhớ hồi sáu tuổi anh cũng từng thích một cô bé xinh xắn giống thế này. Anh đã rất lo lắng và ngày nào cũng hỏi đi hỏi lại rằng cô ấy yêu anh đến nhường nào. Câu trả lời luôn luôn giống nhau. Cô ấy sẽ giơ tay ra, như vậy,” anh dang rộng hai cánh tay, hệt như một ngư dân diễn tả độ dài của con cá. “Và nói, nhiều chừng này này.”
“Phải,” Roz nhớ lại. “Alice cũng luôn đo đếm tình yêu bằng hai cánh tay. Em đã quên mất đấy.”
Cô cố lấy lại tấm ảnh, nhưng anh đã nhấc nó ra xa khỏi tầm với của cô và mang tới trước ánh sáng, “Ánh mắt cô bé lấp lánh vẻ rất quyết tâm.”
“Con bé luôn như thế.”
“Trông thông minh lắm. Con bé luôn như thế à?”
“Ừm. Con bé có những quan điểm rất kiên quyết. Em nhớ có một lần…” Cô chợt rơi vào im lặng.
Hawksley mặc áo sơ mi vào và bắt đầu đóng cúc, “Mẹ nào con nấy. Anh cá con bé có thể chế ngự được em trước cả khi nó biết đi nữa kìa. Anh rất muốn được nhìn thấy ai đó kiềm chế được em.”
Roz chấm chiếc khăn tay lên đôi mắt đẫm lệ, “Em xin lỗi.”
“Vì cái gì?”
“Vì khiến anh khó xử.”
Anh kéo cô gục lên vai anh và áp má mình vào mái tóc cô. Xã hội phương Tây mới nực cười làm sao khi khiến một bà mẹ không dám rơi nước mắt khóc thương cho đứa con đã mất của mình vì sợ làm ai đó khó xử.
“Cảm ơn anh.” Roz thấy nét băn khoăn trong đôi mắt anh, “Vì đã lắng nghe,” cô giải thích.
“Có sá gì đâu, Roz.” Anh có thể thấy cô yếu đuối và hoài nghi đến nhường nào, “Hay em định trằn trọc cả đêm về chuyện này và sáng mai thức dậy ao ước rằng chưa bao giờ kể cho anh nghe về Alice?”
Anh quá tinh tế. Cô nhìn đi chỗ khác, “Em ghét cảm giác mình mong manh yếu đuối.”
“Ừ,” anh hiểu điều đó. “Đến đây nào.” Anh vỗ vào lòng mình, “Để anh kể em nghe những tổn thương của anh. Hàng tuần liền em đã cố moi những bí mật ấy ra, và giờ thì đến lượt em xứng đáng được cười nhạo anh rồi.”
“Em sẽ không cười.”
“À!” Anh thì thầm, “Ra là vậy. Em hơn anh rồi đó. Anh sẽ cười khi nghe chuyện của em, nhưng em lại không cười khi nghe chuyện của anh.”
Cô quàng tay quanh người anh, “Anh thật giống Olive.”
“Ước gì em đừng so sánh anh với con điên ở Dawlington đó nữa.”
“Lời khen đấy. Olive là một người rất tốt. Giống như anh vậy.”
“Anh không tốt đâu, Roz ạ.” Anh áp chặt hai tay vào má cô, “Anh bị Sở Vệ sinh Dịch tễ khởi tố. Báo cáo của thanh tra y tế nói rằng nhà bếp của anh là nơi tệ hại nhất mà anh ta từng thấy. Hơn 95% thịt sống trong tủ lạnh đã thiu thối và đầy dòi bọ. Thức ăn khô không được cất trữ trong các ngăn kín theo đúng tiêu chuẩn, thậm chí họ còn tìm thấy phân chuột trong đó. Trên các chạn đựng thức ăn đầy những túi rác để mở. Rau củ thối hỏng đến mức phải vứt đi hết, thậm chí còn có chuột sống dưới đáy nồi.” Anh nhướng mày, vẻ mỏi mệt, “Vì thế anh đã mất tất cả khách hàng. Vụ việc kéo dài những sáu tuần, và anh chẳng thể chứng minh được điều gì cả.”
Kẻ Nặn Sáp Kẻ Nặn Sáp - Minette Walters Kẻ Nặn Sáp