Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Chương 16
C
uối cùng Stan Parker quyết định cho thằng con trai đến học việc tại nhà lão Jarman làm yên ngựa tại Bangalay, anh bảo để xem thế nào, tuy anh cũng không thật chắc có kết quả, biện pháp đó chẳng qua là để đối phó một cách không thỏa đáng với nỗi bối rối của bản thân. Mẹ của Stan có một người anh họ làm yên ngựa, một người tử tế. Thuộc da là nghề tử tế. Nên nghề làm đồ da cũng vậy.
- Chà, sao lại thế hả bố? - Thằng con trai phẫn nộ, cổ họng nó phản đối dữ dội. - Ai lại thích cái nghề làm yên ngựa cổ lỗ sĩ nào? Con chẳng thích.
- Con thích cái gì? - Người bố hỏi.
- Không phải cái nghề ấy, - thằng con trai nói, bởi nó không biết làm thế nào để trả lời cụ thể hơn.
Nó ngoảnh mặt đi chỗ khác, không thích trơ trọi một mình với bố nó. Giờ đây nó đã là một thanh niên cường tráng, đôi lúc cũng đẹp trai, nước da đỏ ửng khiến mặt nó hơi có vẻ thiếu thận trọng. Nhiều người vẫn thường tha thứ cho những hành động còn đáng ghét hơn của Ray Parker chỉ vì nước da sáng sủa đó. Cái mái tóc tuyệt vời của nó mà người mẹ những muốn vuốt ve thì màu nâu sẫm. Vẻ khỏe mạnh của thân thể không để lộ ra bất kỳ dấu hiệu tật bệnh nào. Chỉ những kẻ loạn thần kinh mới có thể có chút nghi ngại nào về khóe miệng nó hoặc thấy ánh lên từ đôi mắt khá bạo dạn của nó hình phản chiếu về những cảnh tối tăm khổ cực của chính mình.
- Dù sao con hãy cứ thử một thời gian, - người bố nói. - Ở bất kỳ thị trấn lớn bé nào cũng có chỗ cho đôi, ba người thợ làm yên ngựa đấy.
Thằng con trai lặng thinh.
Chẳng bao lâu nó đã có mặt ở nhà lão Jarman, vận chiếc tạp dề vải trúc bâu, quét những mảnh da vụn qua làn ánh nắng quá ư nặng nề lúc nào cũng trải ra trên mặt sàn cửa hiệu, cùng với một đàn mèo và một con chó sục già đã bị bỏ rơi. Ray còn đang học nghề. Vào những lúc hàng họ ế ẩm, ông Jarman bắt nó ngồi vào một chiếc ghế đẩu bên cạnh mình, cắt những mẫu hình đơn giản và học cách khâu bằng chỉ có vuốt sáp. Những buổi chiều ấy thật nặng nề trong cửa hiệu, đầy mùi sáp ong và da mới. Ray Parker không nghĩ rằng nó có thể chịu đựng hết thảy cái đơn điệu mà nó đã thấy trong đời, và nó thường hay vào phòng tắm để trốn khỏi cái cảnh đơn điệu lặng lẽ kia. Khi đó, đóng khung giữa những tấm ván sơn trắng và những lá dây leo, cái đơn điệu ấy nhất định tăng lên, song tới một mức độ trở thành riêng tư, và vì lý do ấy nó lại sinh sôi. Khi nghe tiếng thời gian trôi qua, thằng con trai vuốt cái bụng phẳng của nó và tự nhìn lại bản thân mình. Nó tin rằng nó sẽ có thể đạt được bất kỳ mục tiêu nào nếu như có cơ hội, nhưng liệu có hay không?
Đôi khi nó nghĩ đến bố mẹ và không tin rằng cơ hội ấy sẽ đến.
Người bố thường hay đến cửa hiệu. Chẳng ai bảo anh đến thăm con trai, mà đúng hơn là đến chuyện trò với những người thợ khác. Những người này hết thảy đều có hai bàn tay như đóng vảy. Dù sao thì những bàn tay ấy lúc này cũng chậm chạp, lũ ruồi bậu yên trên đó. Họ bắt đầu kể chuyện và bị mắc vào cái mớ bòng bong những chuyện kể của mình, rồi khi đã tạo ra những đầu mối rối rắm đến mức không thể tháo gỡ nổi thì họ thường quay lại điểm xuất phát, tràn trề hy vọng sẽ tìm ra điều họ nói lúc đầu. Song, nếu việc ấy không kết quả thì cũng chẳng ai bận tâm. Chẳng qua họ chỉ cùng nhau tán tụng ánh mặt trời và lịch sử địa phương mình.
Dường như ít ai trong số những người đang quan sát đôi tay người thợ làm yên nhận ra cậu học việc của lão Jarman là con trai của Parker, hoặc nếu nhận ra thì họ cũng không để lộ. Do hơi xấu hổ, người bố không đề cập đến con trai. Như vậy chẳng khác nào anh dám nghĩ cái mũi thẳng kia đã bị tách ra khỏi da thịt anh như thế nào. Một lần, anh quả có nói với thằng con trai trước mặt những người khác, nhưng anh vừa nói vừa nhìn về phía trước, trong lúc rời cửa hiệu.
Anh nói:
- Con Bella đẻ sinh đôi hai bê cái, Ray ạ.
Nói xong, anh đã ra khỏi cửa hiệu. Thằng con trai thẹn đỏ mặt, vẻ tức giận. Nó lấy làm mừng vì bố đã đi rồi.
Dạo này họa hoằn Ray mới về nhà, chỉ đôi khi vào ngày Chủ nhật. Nó cảm thấy ngôi nhà hơi xiêu vẹo, và mặc dù đã sống thời niên thiếu ở đó, nó vẫn thấy xa lạ. Nó ngó chỗ này chỗ nọ và cảm thấy không khí lành lạnh bên tai. Bầy gia cầm trong sân có vẻ như tránh đường cho nó vội vã hơn. Mẹ nó gọi nó đến để làm những việc lặt vặt mà chị bày ra, để nó có mặt ở đó, để sai bảo nó, để nhìn vào mắt nó, để xem xét những lỗ chân lông trên da mặt nó, để mở tung cái ký ức kín mít của nó bằng những động tác câm lặng mà con người vẫn làm. Thời gian này chị cư xử với con trai bằng một thái độ thân thiện sôi nổi, không chịu thừa nhận là nó đã lẩn tránh chị, song đồng thời thái độ đó cũng khá quyết liệt, cố thiết lập một mối quan hệ dứt khoát mà những người khác có thể tin cậy. Nó cảm thấy được nỗi thất vọng của chị khi nó ngồi trong bếp, chẳng giúp đỡ được chị việc gì vì nó cứ chằm chằm nhìn một vật nào đó, một bánh xà phòng vàng trên một cái đĩa tách hoặc một bó hoa nhỏ mới hái được cắm vội vã trong một cái bình.
Nó vốn rất ghét cái làng Bangalay, cảnh ngộ này còn tệ hại hơn, và chẳng bao lâu nữa nó sẽ bỏ trốn, vận quần dài cuốc bộ lên đường cái để đứng tại một góc đường với các thanh niên khác, hoặc tại chỗ biển chỉ đường chờ cho thời gian trôi đi hay một cái gì đến.
Người ta đã thuê cho nó một căn phòng ở Bangalay tại nhà một bà già tên là Northcott, chồng bà, hiện đã chết, trước kia là một viên chức đường sắt. Đó là một ngôi nhà nhỏ tươm tất, trát dày thứ sơn nâu. Bên cạnh nhà có một bụi cây cơm cháy và mùi nước bồn. Ở phía bên ấy, nhìn sang bức tường trống của ngôi nhà kế tiếp, có in vài vệt sáng do lá cây cơm cháy chuyển động, là căn phòng của Ray Parker. Căn phòng rất kín đáo, khá thích hợp với nó, bởi thời gian này nó nhút nhát, và nếu như có cửa sổ cũng chẳng chịu ló mặt ra. Thực tế, bức tường trống như một màn ảnh, trên đó cuộc sống ước mơ của nó được thể hiện, đồng thời cũng che giấu những hành động lộ liễu của nó. Đôi khi nó thường tựa mình vào cửa sổ, vừa hút một điếu thuốc lá long lỏng tự quấn lấy, vừa tự hỏi với bức tường tuy trống rỗng nhưng chừng mực nào đó lại đáp ứng nhiệt tình kia, xem liệu một cô gái nào đó, tốt nhất là thuộc một giai cấp cao hơn nó, lại có thể không có cái chất tươi mát, cái tính thẳng thắn và sự từng trải mà nó khát khao nhưng cũng e sợ hay không. Nó thường đứng đó, bị hút chặt vào bề mặt bức tường lỗ chỗ, mắt lim dim ngước nhìn làn khói thuốc bay lên, hít thở tham lam và xấu xí qua khóe môi, như nó đã thấy dân hút thuốc.
Cuộc sống tại nhà bà Northcott mang sắc nâu chủ đạo. Đặc trưng của các loại đồ gỗ, bức tường kia cùng gương mặt của má Northcott, từ trước đến giờ bà bao giờ cũng là một trong những phụ nữ có nước da bánh mật. Song thằng con trai quả có một lần bừng tỉnh khỏi một giấc mơ rất đẹp và êm đềm mà nó cố nhớ lại, nhưng thoạt đầu chỉ có thể cảm thấy. Ít nhất nó cũng tin rằng trước đó nó đang ngồi bên một cái bàn, một cái bàn bình dị bằng gỗ bạch đàn. Có những khuôn mặt hướng về nó, tuy nó không thể phân biệt nổi là mặt ai. Và có một cái mặt đồng hồ, nó đành chấp nhận thế, như tất cả các đồ vật khác. Tỉnh dậy, nó cứ nằm mà nhìn cái bồn rửa mặt rắn chắc cùng những món đồ sứ đồng bộ, băn khoăn không hiểu liệu có nên loại bỏ cái vẻ mộc mạc vừa đẹp vừa hiển nhiên của giấc mơ không.
Cuối cùng nó phát cáu, nhỏm dậy, vùng ra khỏi những tấm chăn cứ níu nó lại, xua đuổi cái cảnh mộng tốt đẹp mà nó vừa thưởng thức kia đi. Vừa mặc quần áo vào nó vừa lên án bố mẹ vì những phẩm cách của họ mà nó đã thoáng thấy. Cuối cùng nó phải đập lại bố mẹ nó, thế là nó điên tiết lên với họ khi nó vừa chải mớ tóc cứng quèo của mình vừa nhớ lại mẹ nó nhìn ra ngoài cửa sổ để tìm một giải pháp cho một vấn đề nào đó, còn bố nó thì vật lộn với đám từ ngữ, như thể họ vướng phải mớ bòng bong. Nó ném cái bàn chải xuống. Nó còn quá trẻ chưa thể hiểu nổi những thiếu sót của bố mẹ. Không một chuyện nào nó có thể tha thứ được.
Nó bước xuống một căn bếp màu nâu, tối tăm bên ngoài, hay phòng điểm tâm, tại đó má Northcott đã dọn bữa sáng cho nó, một lát sườn cừu nâu sẫm và một chút rau đã được hâm lại.
- Ồ, chào mẹ, - nó vừa nói vừa khẽ vung chân vung tay để khẳng định sự tự chủ, - Mẹ ngủ có ngon không?
- Không, con ạ, - bà nói, - mẹ lại bị chứng sỏi thận. Đau cả đêm, mẹ kém ngủ lắm. Mẹ trở dậy hơ nóng vài cái đĩa để chườm vào bên sườn.
- Cái mẹ cần là một bình nước nóng, - nó nói.
Song bà không trả lời câu đó, bà muốn suy nghĩ một lát về điều đó.
Má Northcott bị chứng sỏi thận. Bà rất hay thở dài. Bà là một phụ nữ khá cô độc, đã già và tiều tụy. Để dè xẻn những khoản tiền tiết kiệm của chồng, một viên chức giờ đây đã mất, bà nhận giặt thuê ít quần áo và còn cho thuê trọ nữa. Song hai bàn tay bị viêm khớp của bà chẳng để cho bà làm lụng nhiều.
Bà đã bắt đầu mến cậu con trai này, mà nó cũng để cho bà mến, bởi những sự gắn bó cảm tính dễ duy trì hơn những mối quan hệ đòi hỏi tình thương yêu. Mẹ đẻ của nó, nếu được phép, có thể đã nhai nó ngấu nghiến, còn cái bà già này hẳn bị cái chứng sỏi thận và cái bệnh nhức xương chi phối trong những năm tháng cuối đời.
- Mẹ cần giữ gìn sức khỏe, - nó nói, - không được làm việc quá nhiều và phải nằm nghỉ sau bữa tối.
Chẳng ai nghe nó khuyên, nhưng có nói cũng chẳng mất gì. Nó ngồi xỉa răng sau khi ăn thịt và bắt đầu tin rằng chính mình đã quan tâm đến sức khỏe của má Northcott. Tính nhẫn nại của nó hơi dịu đi. Nó cảm thấy nỗi luyến tiếc quá khứ râm ran trên mình vì những gì xưa kia nó đã định hủy hoại. Có những lúc, nó quả đã suýt khóc vì đã hủy hoại cha mẹ mình trong tâm trí. Nếu lúc này nó giàu có thì nó đã đi mua cho họ đồ dùng, quần áo. Bởi không giàu, nó vỗ lòng bàn tay vào lưng bà già và nở nụ cười trìu mến mới đang trong giai đoạn thể nghiệm.
Má Northcott thở dài và càu nhàu. Bà thích thú cái vỗ về của cậu thanh niên ấy, kẻ lẽ ra có thể là con trai bà mà lại không phải.
- Nằm nghỉ thoải mái thật đấy, - bà lầm bầm qua mái tóc rối bù trên cái khuôn mặt chẳng có gì đặc biệt, - nhưng lại có bụi, bụi lúc nào cũng cứ tích tụ lại, cả những ngùi bông nữa. Mẹ chẳng biết những ngùi bông ấy ở đâu ra trong nhà.
Nó chẳng quan tâm điều tra nguồn gốc của hiện tượng này. Thực ra, nó chẳng quan tâm lắm đến những vấn đề của người khác, và thật may là chưa có ai đẩy việc cho nó. Ấy thế mà sáng hôm đó nó lại tỏ ra hào phóng và băn khoăn không biết mình có thể làm được gì, rồi nó vớ lấy cái khăn mà bà già dùng để lau khô bát đĩa ném xuống nước.
Nó băn khoăn không hiểu có thể làm gì thêm để quảng cáo cái đức hào phóng mà đôi lúc nó từng có trên lý thuyết. Rồi nó sực nhớ tới tờ bạc nó đã thấy trong một tập sách dạy nấu ăn trong ngăn kéo của má Northcott, kẹp giữa những trang sách và hiển nhiên đã bị lãng quên. Lúc đó, khi bà già còn phải để giải quyết thêm cái chứng táo bón của mình ở nhà xí phía sau, Ray Parker lục và thấy tờ bạc vẫn còn đó. Tờ bạc khá lạnh lùng và không giống tiền, như tất cả những thứ tiền đã lâu bị tách khỏi liên hệ với cơ thể người. Thế là nó cầm lấy tờ bạc và bỏ vào túi, tại đó hơi ấm sẽ làm tờ giấy bạc hồi phục, và trở thành của Ray.
Tối hôm ấy Ray Parker mang về nhà một chiếc bình chườm nước nóng, bọc vải flanen hồng mà nó mua tặng má Northcott.
- Của mẹ đây, - nó nói. - Áp nó vào chỗ đau sỏi thận là dễ chịu lắm. Nhưng mẹ đổ nước vơi vơi thôi.
Má Northcortt, đang ngồi với bà Pendlebury, một người bạn mới sang chơi, cảm động đến nỗi cái mặt da bánh mật, nhăn nheo của má bắt đầu gật gù một cách ngớ ngẩn.
Cố nhiên bà Pendlebury bảo rằng đó là việc làm của một đứa con.
Sau đó, Ray Parker về phòng mình để vui hưởng một chút cái hành động giản đơn kia của mình, việc làm đó thực chẳng đáng quở trách mà đem lại niềm vui. Việc nó giữ lại số tiền và sau đó thắng bộ cánh bảnh nhất mà đi xem phim cũng chỉ khấu đi một chút vào cái đức hào phóng ban đầu của nó. Dù sao thì đức hạnh cũng giống như một núi băng trôi, những phần còn lại chìm dưới nước.
Thế là, vẫn giữ vẻ cao đạo, nó ra khỏi nhà, trên đường phố đã lên đèn, ánh sáng rực rỡ để ngụy trang cho sự thiếu sức sống. Nó đứng quanh quẩn một lát, mồm ngậm kẹo, rồi nhập bọn với những người khác ở rạp phim. Bộ phim giải thoát cho họ. Vó ngựa khua trên bề mặt nỗi buồn tẻ, còn những đệm ghế da láng như những đôi môi hút tụt họ xuống. Ray Parker lựa nhiều tư thế ngồi thoải mái trong chiếc ghế có thể điều chỉnh của mình, thế mà khi ra khỏi rạp, nỗi cô đơn lại xuất hiện và cả niềm khao khát được biến nhân dạng mình thành một vật thể hữu hình nào đó.
Tối muộn hôm đó, dưới gốc mấy cây tiêu, đằng sau một chuồng ngựa cho thuê, nó sờ vào cái áo của một cô gái lần đầu tiên, cô đi guốc cao gót, xông lên mùi như gái điếm, mà quả là thế thật, cô ta thở hổn hển và run lẩy bẩy, nhưng lại sẵn lòng đến chỗ tối để thực hiện hầu hết mọi chuyện. Khi việc đó xong rồi, cô ta chạy vụt đi, vừa chạy vừa kêu la mất mát của mình. Đến nỗi nó cũng run sợ. Trong khoảnh khắc nó rúm người lại thành một đứa trẻ và bỏ đi, bước qua đám phân ngựa mềm.
Khi nó vào nhà, thay quần áo, nửa cao hứng nửa sợ hãi thì bà già đang ngủ chập chờn cất tiếng gọi:
- Ray đấy hả?
- Thưa mẹ, vâng ạ, - nó nói và hơi dương dương tự đắc về bản thân mình trong gian phòng lớn, trước cái giá tre để treo mũ, trên đó còn mắc một cái mũ của ông viên chức đã quá cố.
- Con phải ngoan, - bà nói, - bỏ cái nồi ra ngoài mà lấy sữa.
Giọng bà lắng dần vào nỗi khuây khỏa và giấc ngủ. Sự có mặt của Ray khiến bà càng tin vào hảo tâm của nó.
Nhưng sau đó, trong phòng mình, khi đã treo cái nồi vào một cái đinh và nghe nó yên vị, leng keng trong ánh sao, Ray cảm thấy không hài lòng với gương mặt trẻ trung của mình, gương mặt ấy hầu như không biểu lộ hành động vừa qua của nó thật rõ ràng mà lại trở nên mờ nhạt và yếu ớt.
Nó ngồi xuống mép giường và bắt đầu bực dọc dùng con dao băm băm vào chân chiếc bàn con bên giường, băn khoăn không hiểu liệu có bao giờ nó có thể rũ sạch được cái mảnh đời đã ăn sâu vào ký ức kia, với ánh nắng lọt qua kẽ liếp, với những cây mộc qua mục ruỗng trong đám cỏ mọc cao, vươn vai dậy trong thùng trấu, mắt nảy đom đóm vàng vì hai nắm tay dụi cho tỉnh ngủ. Vào những khoảnh khắc ấy hình như những điều tốt đẹp nhất đã xảy ra và nó không thể rúc trong váy mẹ. Nó đã sa vào tội lỗi chất chồng.
Để che giấu một phần những cái đó, nó xoay nhanh chiếc bàn nhỏ bên giường để cho cái chân bàn phía ngoài bị băm kia quay vào tường. Rồi nó lên giường. Thường thường nó ngủ ngay lập tức, cả ngôi nhà đều chấp thuận nó. Song đêm nay có cái mùi phân ngựa tươi cứ dai dẳng và lũ ngựa gõ móng hí vang, vươn những cái cổ dài bóng láng của chúng lên mà đình công.
Ngày Chủ nhật đó Ray Parker muốn về nhà để nhìn thấy những gương mặt trong gia đình. Vì vậy nó đi chuyến xe buýt sớm. Nó bước dọc con đường từ trạm bưu điện ở Durilgai, nơi toàn bộ cảnh vật trải dài xuống tận trang trại nhà Parker, trong tâm trạng hân hoan và đầy hy vọng, tới ngôi nhà khá bình dị nhưng chân thực kia.
Em gái nó đang chải tóc bên cửa sổ, nhìn lên và lộ rõ vẻ không tin vào sự tồn tại của Ray.
- Anh dành cho em một điều bất ngờ, - gã nói, để khỏi tỏ ra nản chí.
- Em mong đó là một điều thú vị, - cô em vừa nói vừa thả mái tóc vàng hoe từ cái lược xuống, mái tóc bồng bềnh và chẳng mấy chốc tan trong ánh mặt trời.
Thelma Parker giờ đây già dặn hơn, cô có thể cất giấu đời tư thầm kín của mình vào những nơi kín đáo được bảo vệ, vì lý do đó cuộc viếng thăm của thằng anh khiến cô bực mình hơn là bối rối. Dạo này cô đeo nhẫn, quá nhỏ để biết là hàng rẻ tiền, cô hay tắm rửa, thoa phấn lên da, là lượt những chiếc áo cánh đẹp nhất cho tới khi cái trang nhã và sạch sẽ ấy trở thành ngột ngạt, thậm chí xấc xược. Song mắt cô cứ nhìn xuống, vì vậy không thấy được chút tác động của cô lên người khác, mà cô cũng đâu có cần biết. Cô quá lạnh lùng, ngoại trừ đối với những chuyện thầm kín của chính mình, khi ấy cô mới sôi nổi. Bố mẹ Thelma đã quyết định đầu học kỳ tới, cô sẽ phải học tại một trường nữ Cao đẳng Thương mại trong thành phố. Họ bị ấn tượng bởi cô, hơn là quý mến. Tình cờ đang làm việc gì, họ cứ tiếp tục công việc, nhưng vẫn để mắt đến Thelma, cái tính lãnh đạm và sự trong trắng của cô khiến họ khiếp đảm.
- Anh Ray về đấy ạ, - Thelma nói, khi cầm cái khăn len đi qua gian nhà bếp.
Cô không dùng đến hơn một cánh hoa để biểu lộ sự kinh tởm của mình. Vẻ thanh nhã như đóa hoa trà của cô không thuộc loại nở rộ tươi thắm mà nhỏ, gọn, trắng xanh và không phải để cho người ta hái.
Cả gia đình hơi kinh hoàng chỉ lo có chuyện gì không thể lường trước xảy ra ngày hôm ấy. Bà mẹ đã bỏ công việc buổi sáng Chủ nhật và đang lê đôi dép nỉ đi tha thẩn. Ông bố đang đọc tờ báo ngày thứ Bảy nhưng chẳng mấy chốc ông sẽ đi hàn cái can mà ông đã dành để làm vào Chủ nhật, ông thích nhìn chất kim loại lấp lánh chảy phía dưới que hàn.
Rồi họ nói:
- Chà, thằng Ray đã về.
Cố nhiên họ yêu quý thằng con trai, chỉ có điều là họ bị bất ngờ. Bà mẹ thậm chí thấy cổ họng tắc nghẹn vì tình yêu thương đối với con, sức mạnh của cơn bột phát tình cảm khiến bà bị ngợp. Bà quyết định lần này bà sẽ thể hiện tình cảm với nó.
Ông bố hắng giọng và giở tờ báo loạt xoạt, cố nhìn hết cột này sang cột khác, hy vọng trong khoảnh khắc tìm được vài lời về bí quyết cuộc đời mà ông đã để quá lâu không nói với con mình.
Song lúc này gã thanh niên đang ghếch chân qua ngưỡng cửa sổ mà nhảy vào, qua đám cành chi chít của một cây hồng bạch mà bố mẹ đã trồng trước kia và thực tế cái cây đã chiếm hữu ngôi nhà. Nó đang cố gỡ mình ra làm những cánh hoa mỏng như giấy rụng rào rào. Một cái tổ chim cũ nát rơi xuống. Rồi Ray xuất hiện, mặt đỏ bừng nhưng có vẻ bình tĩnh.
- Đấy không phải cách vào phòng đâu Ray ạ, - ông bố nói.
- Nhưng như thế lại nhanh nhất, - thằng con trai phân trần.
Nếu cần thiết, do cứng đầu cứng cổ, nó có thể tự biện hộ bằng toán học.
- Nếu cả nhà mình vào kiểu ấy thì hay ho gớm, - cô em gái trẻ trung, trong trắng của Ray nói, trước đó cô đã hối hả chạy vào buồng tắm và đang mài những chiếc móng tay sạch sẽ của mình.
Còn bà mẹ vừa nhặt cái tổ chim từ sàn nhà lên, thôi không cau mày nữa và nói:
- Dù sao thì con cũng đã về.
Bà muốn tỏ rõ rằng bà là mẹ nó, biểu lộ tình yêu bằng sự khoan dung. Bà chỉ cốt nó đáp lại tình yêu thương đó và đối xử tử tế với mình.
Thế mà nó lại băn khoăn không hiểu liệu bà sẽ thuyết phục gì mình.
Suốt ngày hôm đó nó giữ thế thủ, tuy rằng vào buổi sáng, khi nó đi dọc đường cái theo chiều gió, mọi việc đã sáng tỏ; cái ánh ban mai kia khiến người ta dễ lầm lẫn. Khi ấy cảnh vật đã bắt đầu đổi thay. Lòng dạ nó không đổi thay đến thế. Nó thực sự đã muốn về thăm gia đình và muốn cảm thấy bản thân mình là một phần trong đó. Song ánh chiều ảm đạm hơn đã bao trùm, cây cối tối sầm dần và màu úa tàn của đồng cỏ. Về chiều trời nổi gió, những cơn gió mạnh cuốn vu vơ dăm dúm cỏ khô làm thành một xoáy lốc giữa những bầy gà mái táo tác trong cái sân sau ẩm ướt.
Nó lang thang một lát ngoài đồng. Những cây kế đã mọc lên kể từ khi nó có mặt ở đó lần cuối, có những chỗ nó phải bước cẩn thận. Song dù vậy nó thấy bàn tay mình vẫn va phải một cây kế, một điều không thể tránh khỏi trong lúc nó đang để ý xem liệu chuyện gì sẽ xảy ra trong khoảnh khắc tiếp theo. Nó chấp nhận cái đau dữ dội và đáng buồn ấy như một điều mà cuối cùng da thịt mình phải chịu đựng.
Về đến nhà, nó thấy rằng cô em gái mới sớm hôm nào đứng bên cửa sổ vừa chải đầu vừa mơ màng, vẻ xinh xắn và làn tóc vàng tưởng như chẳng bao giờ phôi pha, giờ đây đã trở nên gầy guộc và xấu xí. Cô vẫn ngồi bên khung cửa sổ ấy, đang xếp sắp mấy món của riêng, toàn đồ con gái, và ghim giấy vòng quanh tay áo của mình như cô thấy bà trưởng phòng bưu điện làm. Cái này không phải dành cho mình, gã con trai cảm thấy thế. Riêng những cánh tay áo bằng giấy ấy đã nói cho nó biết. Thế là Ray tiếp tục bước lóng ngóng quanh nhà, còn Thelma thì cau mày và không nhìn nó.
- Này, Ray, - người mẹ nói, vì bất chợt bắt gặp nó nên bà sững sờ, bởi bà chưa hoàn toàn sẵn sàng, - hôm nọ mẹ tìm thấy quyển sổ nhỏ này. Vợ một cha xứ đã cho mẹ cách đây mấy năm, có lẽ thế. Mẹ chẳng viết vào đó vì mẹ viết không thạo. Con có bao giờ viết nhật ký không? Một số người viết đấy. Mẹ nghĩ có thể con cũng muốn thử. Rồi đến cuối năm con có thể gửi cho mẹ và mẹ sẽ đọc được những điều con đã làm.
Thật là một ý nghĩ ngớ ngẩn và không thật hợp lý. Trong giây phút cao hứng bà đã nghĩ ra điều đó để bắt đầu câu chuyện. Giờ đây, khi hai mẹ con đứng đó, bên mấy nhành kim ngân bất động, bà thấy hối hận. Thằng con trai nom như thể sắp phát ốm.
- Xì, - gã nói. - Con không muốn viết nhật ký, con sẽ viết cái gì nào? Viết về bữa sáng nhé!
Nó tiếp tục đi men quanh nhà còn bà thì nhẫn nại theo sau.
- Mẹ mới chỉ nghĩ thế thôi, - bà nói.
Càng cư xử ngớ ngẩn bà càng tuyệt vọng không gỡ mình được khỏi tình thế ấy. Và bà thấy rằng hầu như mình chỉ có thể đối xử ngớ ngẩn với con cái. Bà nhớ hồi còn trẻ, bà đã làm thế nào để thấu hiểu tâm tư và nhận ra những khát vọng của chúng hoặc chúng giãi bày với bà chẳng che đậy.
- Con có hạnh phúc không Ray? - Bà hỏi khi hai mẹ con đã vào bếp, bởi có vẻ như họ chẳng có nơi nào khác mà đi, và thực không có cách nào thoát khỏi nhau được, trừ vào lúc cuối cùng khi gã con trai thật sự lỉnh đi, điều mà bà e rằng là bản tính của nó.
- Con có hạnh phúc không? - Bà hỏi.
Nó còn quá trẻ người non dạ nên không nhận ra rằng đó là cách bà nói cho gã biết là bà không hạnh phúc.
- Mẹ định nói gì vậy, hạnh phúc à? - Nó lờ phờ hỏi.
Nó không thích cái kiểu giáo lý vấn đáp ấy. Nó gần như là vô nghĩa. Nó giống như mở cửa ra và thấy sàn nhà không còn nữa.
- Mẹ những muốn nghĩ rằng, - bà nói, - con đang sống rất tốt. Như vậy là tất nhiên thôi, vì con là con trai mẹ. Mẹ đã rất hạnh phúc.
Bà quả đã bộc bạch tâm sự đầy thuyết phục.
- Con chỉ muốn được bỏ mặc một mình, - nó nói.
Những thân cây đen sẫm luôn thay đổi và được gió chải thành những lọn tóc dài. Có lẽ chẳng mấy chốc trời sẽ mưa.
- Nhưng Ray này, - bà nói, vừa tựa mình vào cái bàn.
Thelma bước vào, tiện tay khép lại cánh cửa sau lưng. Cô có thể đủ sức làm như thế. Trước đó cô đã đọc những điều tức cười mình viết trong một cuốn sổ khi còn nhỏ tuổi. Giờ đây cô thấy kích động bởi cái ưu việt hiện tại của mình so với tất cả những gì là trẻ con và nực cười kia.
- Mẹ và anh không định uống chút trà à? - Cô hỏi to.
Cô nhìn gương xem mình nói và hài lòng với hình ảnh đã thấy, dù sao thì cũng trong khoảnh khắc ấy.
- Có chứ, - bà mẹ nói, như thể bà đang băn khoăn vì sao lại không nghĩ đến giải pháp này. - Mẹ con mình sẽ làm vài cái bánh nướng nhé?
- Mẹ con mình? - Thelma hỏi, nó nhăn trán lại, trông vừa xinh vừa tức cười. - Bánh nướng của con bao giờ cũng cứng như đất ấy.
Trong lúc bà mẹ nhào bột thì cô làm những thứ dễ chấp nhận hơn, đặc biệt là cái bánh được cô đích thân phủ một lớp đường màu hồng và trang trí một bông hoa trắng cầu kỳ, dễ chảy.
- Anh có nghe về trường Cao đẳng không hả anh Ray? - Cô vừa hỏi vừa bắt đầu bày biện những bát đĩa sành trang trọng hơn mà gia đình thường dùng vào những ngày Chủ nhật.
- Không, - Ray mệt nhọc trả lời. - Ồ, tao đã nghe được điều gì đó.
Nó bèn đổi từ chủ đề này sang chủ đề khác, nhà má Northcott, sớm muộn gì nó cũng phải chuyển đi. Ban đêm các đường phố vang lên bao tiếng bước chân tuyệt vọng ra đi.
- Học kỳ tới, - cô em nói, - em sẽ trọ ở thị trấn Randwick, tại nhà ông bà Bourke. Bà Bourke là họ hàng của bố. Hai người từng cãi cọ nhau chuyện gì đó, nhưng đã dàn xếp rồi.
- Không phải cãi cọ đâu, - bà mẹ nói. - Người ta cứ hay lập lờ, mặc ta phỏng đoán nguyên nhân, mà chuyện ấy bao giờ chẳng lắm.
- Dù sao thì, - Thelma nói, - em cũng sẽ ra thành phố. Em hơi sợ, Ray ạ. Em sẽ kiếm một cái vé tháng và hàng ngày đi tàu điện từ thị trấn Randwick. Bà Gage cũng quen biết nhiều người, họ sẽ mời em đến chơi. Họ buôn bán tạp phẩm. Họ giàu lắm. Bà Gage đang giúp làm một bộ váy. Nó màu be, chiết to, chân váy thì xếp ly. Có những chiếc khuy nhỏ màu đỏ, mỗi cánh tay áo ba chiếc và một hàng dài ở sau lưng.
Khi củi được đưa vào lò, Thelma rực rỡ hẳn lên. Xét cho cùng, Thelma xinh đẹp hoặc sôi nổi khi vươn cao cái cổ, dĩ nhiên là cái cổ ấy rất thon mảnh, vào lúc cô ngồi nhặt gọn những mẩu bánh vụn bằng mấy ngón tay đoan chính.
Bà mẹ vừa lắng nghe tất cả những điều xa xôi ấy vừa thoải mái ăn chiếc bánh nướng của mình và những muốn cảm thấy yên tâm. Có lẽ bọn trẻ khôn lớn rồi chăng?
Ray nhìn ra ngoài cửa sổ. Nó đang vật lộn với một ý thức về sự bất công và cái bánh tắc trong cổ họng. Trận mưa hiểm ác bắt đầu quất những roi dài vào bụi lý gai, loài cây chẳng bao giờ tươi tốt ở miền này, mặc dù người ta cứ thử mãi.
- Thế mày sẽ làm gì, - Ray hỏi, vẫn chưa quyết định dùng hình thức sỉ vả hay tự vệ nào - khi mặc cái váy màu be của mày?
- Ồ, - cô em nói, mặt đỏ bừng. - Em sẽ qua được những kỳ thi cần thiết, về đánh máy, tốc ký, và kiếm một việc làm với một người môi giới chứng khoán hoặc một viên cố vấn tư pháp, đại loại như vậy. Làm việc để tự nuôi mình mà. - Cô nhanh nhẹn vừa nói vừa rút ra chiếc khăn mùi soa, từ trước vẫn chưa dùng mà vẫn gập thật vuông vức cái nơi thắt lưng.
- Và lấy một thằng cha cục mịch, - Ray nói.
- Em không nghĩ đến mấy chuyện như vậy.
- Và dạo đàn dương cầm, - nó cười cợt, - khi hắn đem xiền về.
Tiếng cười trầm giọng kim mà tình cờ nó phát hiện được cách tạo ra khiến nó rung cả người và nó thích cái cảm giác ấy. Nó có cái cổ họng khỏe và đôi mí mắt hum húp. Gã ngồi nhìn ra cửa sổ, ngắm mớ bòng bong mưa xam xám đang cuốn đi qua những cánh đồng và những cây cối màu đen từ trước đến giờ nhờ có rễ mà đứng vững.
- Nó làm gì mà con rỉa rói thế? - Bà mẹ hỏi.
- Không có chuyện gì ạ, - nó nói, dịu giọng. - Chỉ có điều người ta đang chán ngán.
- Vì anh đang chán ngán, em phải chịu hậu quả, - cô gái trả lời.
Vì tủi thân, Thelma đã phải nói chẻ hoe bằng một vẻ nhã nhặn mới mẻ, đó có lẽ do bản năng, hoặc giả cô đã nghe và học được của một người xa lạ. Nước da cô trân trân vẻ ngay thẳng.
- Có lẽ tao nên viết nhật ký, phải không hả Thel? Và ghi trọn tất cả. Mày có muốn biết chuyện gì đã xảy ra với thằng Hy Lạp ấy không?
- Ồ, anh chàng Hy Lạp à? - Người mẹ hỏi, sực nhớ ra điều gì đó mà bà đã lãng quên.
- Con nhớ tới hắn, - gã con trai nói. - Là dân vùng Nam Âu, hắn không phải tay tồi.
Lúc này mưa bao phủ cây cối và ngôi nhà bằng những dải xám gấp nếp rủ xuống. Nếu ta không nghe thấy tiếng mưa rơi thì trận mưa có vẻ rất nặng hạt. Song âm thanh của mưa, gió và bếp lửa phùn phụt xua tan ảo ảnh của trận mưa nặng hạt, thậm chí của tất cả những thứ vững chãi.
Bà mẹ nhớ tới cái thời gian xảy ra những trận lụt, khi mà đồ đạc không thể bám trụ lại. Bà quên mất niềm vui của mình lúc đứng trên bờ sông, nước đục ngầu cuồn cuộn chảy dưới chân, và ông chồng chắc nịch trên chiếc thuyền con; có vẻ như bà quên vì chỉ nhớ láng máng hầu hết mọi sự việc và cuộc đời mình khi gã thanh niên Hy Lạp lực lưỡng bước vào thửa ruộng mà biến đám thân ngô héo thành khói.
- Đó là một thanh niên tốt, - bà vừa nói vừa nhìn vào đôi bàn tay to, vẫn còn nhạy cảm của mình, trên đó có chiếc nhẫn cưới màu vàng. - Một anh chàng tốt, - bà nói, như thể bằng cách nhắc lại như vậy không ai có thể buộc tội bà giấu giếm.
Chẳng ai làm thế, bởi bản thân mỗi người là một địa cầu hoặc một thế giới suy tư riêng.
Gã con trai bắt đầu thấy sợ tình trạng biệt lập ấy, rồi rốt cuộc sẽ nguội dần. Nó nóng lòng được vận động cho khỏi sợ, vì vậy nó đứng dậy và từ nhà bếp đi ra, chạy xuyên làn mưa, ngang qua cái lán, nơi vật nhau với anh chàng Hy Lạp, tới tận phòng thức ăn gia súc, tại đấy bố nó vẫn thường nhấc nó lên từ những thùng đựng rượu khi nó còn đương ngủ, lay cho nó tỉnh, như thể giấc ngủ là rơm là rạ, và bố nó là ánh ngày, thường đứng đó. Khi ấy hai bố con thường nói chuyện với nhau về những sở thích.
Giờ đây bố nó đang ở đấy, nó nhìn thấy thì đã quá muộn. Bố nó đang cúi xuống một cái xô, nguấy nguấy một món cám trộn gì đó. Trên tường là những chai, lọ đựng thuốc bóp, thuốc mỡ mà lũ chuột đôi khi làm đổ. Ông bố ngước nhìn lên. Ông cũng thấy ngay là nó bị mưa ướt.
Nó khoác trên vai một cái bao tải cũ vẫn mặc để đi mưa, hầu như chẳng che chở được mấy ngoại trừ một ý nghĩa tinh thần.
Lúc này ông ngẩng lên và vẩy chất cám trộn ướt dính tay vào cái xô.
- Mưa thế này là thuận đấy, - ông bố nói để thăm dò xem nó quan tâm đến chuyện gì nhất, do đó sẽ an toàn hơn. - Nếu không có mưa ba ngày thì chúng ta sẽ phải bỏ công ba tuần. Cái đập thì thấp. Mưa sẽ làm cho lúa miến trổ.
Đối với gã con trai, thời tiết giống như hoa quả, rau dưa chẳng quan trọng gì, thậm chí còn đáng ghét, song gã cũng miễn cưỡng cho rằng việc ông bố chọn chủ đề đó mà nói lúc này thật đáng mừng. Cả hai bố con đều lo rằng có thể cần phải giải thích về việc thằng con trai bỗng nhiên có mặt trong chuồng gia súc.
Gió tiếp tục thổi vào trận mưa xối xả trên mảnh ruộng xám. Trong gió mưa gào thét, một cái cây màu đen đổ xuống ở đằng xa, mà không nghe động.
Bởi chưng vạn vật đã bắt đầu chịu đựng sự tồn tại của chúng, dường như càng cần thiết đưa ra những lời giải thích hơn bao giờ hết. Các tâm hồn đoàn kết lại khi đương đầu với bạo lực, dù chỉ là trên cơ sở chung của tính bạc nhược.
Gã con trai ép mặt vào một ô kính cửa sổ đầy mạng nhện để ánh sáng long lanh như ngọc trai chầm chậm lọt vào bên trong cái chuồng tăm tối.
- Có lẽ có những trận lụt gia đình ta đã trải qua, những trận lụt mà bố mẹ vẫn nói đến. Con thích được nhìn thấy chúng, - nó nói, giọng trở nên ồm ồm trên mặt kính, - và những đồ vật trôi lềnh bềnh, những ngôi nhà bị cuốn trôi. Con muốn nhìn thấy một cái cây bị bật tung rễ. Hoặc bị sét đánh. Người ta bảo là có thể ngửi thấy mùi một cái cây bị sét đánh, nó như mùi thuốc súng ý.
Ông bố ngừng tay, lòng đau nhói, bởi bình thường ra ông đã có thể lẩn tránh vào công việc riêng của mình, trong chất cám nóng và ẩm.
- Thấy thì con được lợi gì? - Ông hỏi.
- Có thể một điều gì đó sẽ xảy ra. - gã con trai nói.
Trước khi xây ngôi nhà của mình, Stan Parker cũng đã khoái những cảnh hãi hùng. Sau đó những cảnh ấy đã khiến ông bối rối, khiến ông cảm thấy mình bị mắc lừa. Rồi khi đã thừa nhận sự bối rối của mình và đã sống thêm nhiều, sau đó lâu lắm, có lẽ chưa đến tận bây giờ, trong cái chuồng này cùng với thằng bé ngượng ngập và bất trị là con trai ông, thì những cảnh hãi hùng kia quả đã bắt đầu làm sáng tỏ phần đối lập với cái thiện và sự thanh bình trong nhiều mặt của Thượng đế.
Nếu có thể đến gần được con trai hơn và bảo cho nó điều đó thì lúc này có lẽ ông đã làm như vậy, song ông chậm chạp, vụng về hai tay dính cám.
Gã con trai nhìn quanh, ngờ rằng bố đang ở quá gần mình. Nó không muốn bị đụng chạm. Những hình thù tầm thường và quen thuộc của cái chuồng đang hiện ra lù lù xung quanh. Lẽ ra nó đã có thể đá ụp những bức tường xuống, cùng với bộ mặt của người đàn ông tầm thường là bố nó kia, người lẽ ra nó đã yêu quý, nếu như nỗi kinh tởm cho phép.
- Bố mẹ sẽ phải đưa con ra khỏi cái hố Bangalay kia, - người bố tìm cách nói, - có lẽ bố đã sai lầm khi đưa con đến đó.
- Con không cần, - gã con trai khàn khàn nói. - Con có thể thích nghi ở đó cũng như ở bất kỳ nơi nào.
Câu nói ấy thực hư ra sao còn phải xác minh.
Khi mưa đã ngớt, hoặc giả gió thổi nhiều hơn mưa rơi, và trước hết là tiếng mưa đã bớt phần đáng ngại, Ray Parker trốn khỏi cái nơi đã từng là nhà mình. Nó đi ngược con đường cái, đầu cúi xuống, hai tay thọc túi quần. Những xúc động suốt buổi chiều hôm đó còn mạnh mẽ cuồn cuộn trong lòng nó giờ đây đã lắng xuống, chí ít cũng là tạm thời, trở thành một cuộn dây thụ động.
Bố mẹ nó đinh ninh rằng một chuyện đại loại như thế tất nhiên sẽ xảy ra và lấy làm mừng vì chuyện ấy không khiến họ hoang mang hơn. Mãi họ mới hỏi thăm tin tức, trước hết là từ bà Northcott, rồi đến ông Jarman, thợ làm yên ngựa, về chỗ ở và ý định của con trai họ.
Rõ ràng Ray đã bỏ đi rồi.
Chẳng bao lâu nó viết thư về, một bức thư từ Brisbane, trong đó viết:
“Mẹ quý mến,
Con đã lên đây do tình thế thúc đẩy và nghĩ rằng con quyết như vậy là phải, dù việc chuyển đi ấy có tốt hay không, song con phải làm, như bố đã nói, chỉ có điều chính con là người phải tiến hành việc đó.
Con đang làm việc tại một tàu thủy trên bờ biển này. Con làm trong nhà bếp. Bác bếp là người Tàu nhưng sạch sẽ. Bác ấy cho con một mảnh vỏ trai, mặt có chạm trổ đôi chút, con sẽ giữ cho mẹ, đó là thứ mẹ sẽ thích.
Ồ, hãy vui lên, mẹ ạ. Chẳng có gì là mãi mãi cả, dù cuộc sống của con cũng tạm đầy đủ nơi bờ biển này. Về ban đêm, con tỉnh giấc thì thấy những cần cẩu bốc hàng hoặc những con ngựa người ta cưỡi đến dự cuộc đua. Nếu thích, con có thể tới vùng đất liền với một tôn ông đã ướm con làm một chân lao công tại một nhà ga, song con không nghĩ mình sẽ đi. Con sẽ cân nhắc xem thế nào. Con có thể đến bất kỳ nơi nào. Đêm qua con mơ thấy mình đang bơi ra những hòn đảo, biển nhờn như dầu và đầy lân tinh, mà con thì cứ bơi, bơi mãi không nghỉ, nước biển đầy ánh sáng, nhưng cho đến khi tỉnh dậy con vẫn chưa tới đảo…”
Khi được trao bức thư để đọc, ông bố nói:
- Cũng tự nhiên thôi, Amy ạ.
Ông đưa trả bức thư cho bà vợ giữ, vì họ không quen nhận thư từ, trừ những hóa đơn và những tờ quảng cáo hàng. Ông nhớ lại thời thanh xuân của chính mình, những quần áo xuềnh xoàng vận trên người đã khiến ông quên đi tình trạng trần như nhộng của mình. Bất kỳ bước đường nào ông đã đi hầu như không do ông quyết định. Nhưng câu trả lời đó đâu phải vợ ông lúc ấy muốn nghe.
Bà thấy ông thật đáng thất vọng, vẫn luôn như thế vào những giờ phút gay go.
Bà nói:
- Ông nói hay thật. Ông có bao giờ mang nặng đẻ đau đâu. - Giọng bà xúc động vì tính bất công của nó và bởi bà bị bất ngờ.
Bởi Ray đã ra đi, tuột khỏi tay bà dễ dàng và tự nhiên như cái hạt tách khỏi vỏ, để mà mất hút trong cỏ rậm. Nếu như vào giây phút nhận ra điều đó lòng bà quặn đau và suốt nhiều ngày sau đó những cơn đau nhẹ hơn thường tái diễn thì có lẽ phần nhiều do tính hợm mình của bà, dù bà quả có nhớ cái thằng bé đầu tóc bờm xờm, mặc quần soóc, cái đứa trẻ sơ sinh bình thản bú chùn chụt bầu vú của mình. Vì vậy đôi lúc bà khóc, chủ yếu vào lúc hoàng hôn, khi đứng bên cửa sổ, khi vạn vật đã trở nên mong manh và bản thân bà đang tan ra, bị hút về phía trước, năm tháng cứ tuôn chảy về phía sau bà như những tà áo, hoặc mái tóc trong gió. Lúc đó thật hãi hùng. Khuôn mặt bà đã mất đi lớp bột phủ đau buồn riêng tư như lớp bột phủ và trở thành một cái xương sọ ủ ê, hoặc một bộ mặt trơ xương.
Mình đã quan tâm quá nhiều đến thằng Ray mà chưa quan tâm đầy đủ đến con Thelma. - Bà Amy Parker nói bừng tỉnh. - Suy cho cùng con gái đáng tin cậy hơn con trai, con gái cần phải như vậy.
Khi Thelma rời nhà đi Sydney, đến trường nữ Cao đẳng Thương mại, bà mẹ đã sắp xếp va li cho nó. Bà đặt vào đó một cái túi thơm mà bà đã làm dành cho dịp này và vài gói chocolate phòng khi con gái cảm thấy đói bụng vào ban đêm; con bé sẽ ăn với lòng biết ơn, vừa ăn vừa giở sột soạt tờ giấy bạc và nghĩ đến mẹ.
Đêm cuối cùng Amy Parker vào phòng con gái, hôn lên mái tóc dài, sáng màu, ôm lấy con và nói:
- Ai có thể nghĩ, Thel ơi, con lại đơn độc một mình ở thành phố, nhưng con đừng lo.
- Con sẽ ổn thôi, mẹ ạ. - Cô gái điềm tĩnh nói, nó bị bất ngờ và nóng lòng muốn gỡ mình ra. - Vả lại còn có bà Bourke. Bố bảo bà ấy là người tốt, dù rằng hồi đó có sự hiểu lầm về vài chuyện gì đó.
- Ờ nhỉ, còn có bà Bourke, - Amy Parker nói. - Song cũng sẽ không như ở nhà đâu.
Qua lần áo ngủ bà cảm nhận thân hình mảnh mai được giấu kín của con gái và tự hỏi đã bao giờ cô thuộc về bà chưa. Nỗi băn khoăn truyền sang cơ thể cô con gái, cô ho rũ rượi suốt đêm và phải đốt một ít thuốc bột mà cô vẫn giữ để phòng những lúc trở bệnh. Khi trời rạng sáng cô trở dậy, dò dẫm qua làn khói cay xè của thuốc bột. Ban mai như con dao thép cắt sâu vào cô gái hâm hấp sốt. Lúc chuẩn bị tắm rửa, cởi hết quần áo ra để được mổ xẻ, cô run rẩy và rúm người lại. Nhưng cô vui sướng. Toàn bộ nỗi đau đớn khó chịu ấy là cần thiết để cuối cùng cô có được hình dáng đẹp, hoàn hảo.
Thelma đáp tàu ở Bangalay, mình vận bộ đồ màu xám và đầu đội mũ trang nhã. Cô không bao giờ tỏ ra bối rối ở chỗ đông người. Bố mẹ đã đưa cô ra thị trấn bằng chiếc xe Ford, lúc này đang đứng bên cửa sổ toa tàu, băn khoăn về mọi chuyện. Người bố không day dứt vì tình hình đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông. Tuy nhiên, suốt một thời gian dài, người mẹ vẫn tỏ vẻ đầy uy quyền và khuyên bảo, cho tới khi bà cúi đầu dưới cái vành mũ rộng, sẫm màu của mình. Thế ra bọn trẻ quả đã lớn khôn, bà buộc phải thừa nhận. Bà lấy làm biết ơn, thậm chí tủi nhục khi nhận cái hôn cuối cùng trên môi và băn khoăn không hiểu cái hôn đó có biểu thị tình thương hay không, bà những muốn tin là như thế.
Cô con gái ngắm nhìn chiếc khăn tay vẫy lần cuối cùng mà cảm thấy xót xa cho tuổi niên thiếu đang rời xa của mình, cảm giác ấy càng thấm thía hơn bởi những miền đất tẻ nhạt đang vùn vụt chạy qua. Cuối cùng cô an ổn lại, mong thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên khuôn mặt những người khác. Việc cố tìm ra điều bí ẩn trong những bóng gương như vậy thật là một cảm giác mới mẻ và khoan khoái.
Thế là Thelma Parker đến thành phố, vào học trường nữ Cao đẳng Thương mại và trở nên có năng lực. Cô lãnh đạm như cái chuông trên máy chữ kêu leng keng khi đánh hết dòng. Cô thường vừa đẩy hất trục máy trở lại, không chút tức giận, nhưng khinh khỉnh, vừa nhìn vào những vật thể lờ mờ ở phía cuối căn phòng. Bản đánh máy của cô bao giờ cũng sạch không một hạt bụi. Quả thật, cô rất sạch sẽ. Những chiếc móng tay dài, hơi hình trái xoan của cô hồng hồng, còn người cô ngát mùi nước hoa oải hương mà cô đã cất trong một ngăn bàn và vẫn kín đáo rảy lên hai bàn tay sạch sẽ của mình. Trên cổ tay trắng mảnh mai của cô đeo một chiếc đồng hồ vàng nhỏ, rẻ tiền nhưng thanh nhã. Da Thelma rất trắng, gần như ốm yếu, và luôn sẵn sàng phản ứng lại những gì trần tục ở người khác, đến nỗi khi con bạn Genevieve Johnstone của cô nói đùa một câu gì đó, mặt cô đã ửng hồng, khó mà biết được do khoái trá hay xấu hổ.
Genevieve Johnstone, con bé mà Thelma Parker gặp lần đầu tiên ở chính cái trường Thương mại này, sống ở Bondi, trong khi đó Thelma lại sống với gia đình nhà Bourke tại Randwick. Đôi khi hai cô cùng đi chơi với nhau bằng tàu điện vì phương tiện ấy rẻ tiền mà lại giết thì giờ. Đối với Thelma những cuộc rong chơi ấy rất quan trọng vì chúng làm nổi bật quyền tự do của cô. Con tàu lắc lư leng ca leng keng. Những đêm ấy người ta cười ầm ĩ. Hai cô nữ sinh cùng ngồi với nhau, bạn bè đấy, nhưng không mến nhau lắm, hai đứa cảm thấy mái tóc mình nhớp nháp trong không khí mằn mặn. Hai đứa đu đưa và phá lên cười vì sự chuyển động của bản thân mình, vì những cái đầu gối xương xẩu của đám đàn ông ngồi đối diện hoặc đang đi ngang qua ép vào đầu gối chúng. Genevieve Johnstone thích nhìn bọn đàn ông. Nó là một cô gái đen đúa, nhem nhuốc, ngực nở. Nó khát khao được dâng hiến cho một người đàn ông nào đó, trong khi đó Thelma ngoảnh nhìn chỗ khác, hai bàn tay ôm cái xắc bỗng nóng ran lên. Chẳng rõ Thelma có khát khao không hay là cô đánh giá mình quá cao hoặc sợ sệt.
Về sau, chính những khác biệt về tính khí này đã khiến tình bạn giữa Thelma và Genevieve phai nhạt, Thelma đâm sợ phải cùng đi với con bạn đen đúa, nhem nhuốc, ngực to và hay cười cợt kia, cái con bé mà bọn đàn ông cứ liếc hoài mái tóc ướt mằn mặn và hai cái vú lắc lư trên tàu điện của nó. Đêm tối quá quyền lực khi cô đi cùng bạn. Thế là Thelma đoạn tuyệt với bạn vì những lý do không thật xác đáng. Cô vẫn tiếp tục rong chơi một mình trên tàu điện, để có không khí, nhưng không nhìn mọi người mà nhìn vào trời đêm rực sáng. Như thế cô vẫn có thể hưởng cái tự do của mình. Cô yêu thành phố, cô bảo thế, và biến vẻ rực rỡ của thành phố thành một chất thơ riêng của mình. Chất nhựa đường và chất thép của thành phố chẳng phải là mốc đánh dấu sự tiến bộ của bản thân cô đó sao? Vì vậy cô cứ rong chơi bằng tàu điện vào ban đêm, từ trên toa của mình nhìn xuyên vào những ô cửa sổ của dân chúng, để ý thấy họ đang ngồi ăn, đang cãi cọ, đang nới quần áo cho dễ chịu, đang xỉa răng, cho dù chưa vạch những kế hoạch rõ ràng cho chính cuộc đời mình thì cô vẫn khá vững tin là sẽ thành công trong bất kỳ việc gì mình lựa chọn, mà không gặp phải điều gì bất ngờ khiến phải lúng túng.
Niềm tin ấy thỉnh thoảng bị lung lay nếu khi đóng cửa cô nghe thấy tiếng cười. Đặc biệt là tiếng cười của bọn đàn ông. Vì lý do đó cô ghét bọn coi chuồng ngựa ở gia đình Bourke.
Horrie Bourke, chủ trọ của Thelma, đã lấy một người bà con của Stan Parker, là một người huấn luyện ngựa đua. Ông là một người chân thật và vì vậy đã không thành công như lẽ ra phải thế. Tuy vậy ông cũng thắng được vài trận kha khá và đã mua cho vợ những hạt kim cương và một tấm lông cáo có cái đầu đã bị cánh cửa xe tắc xi nghiến nát trong lễ Phục sinh, cách đó vài năm. Bản thân Horrie Bourke chẳng bao giờ ăn diện tuy ông lại tán thành chuyện đó đối với vợ mình, đối với những người giàu có, những khách quen của ông. Ông ưa đi dép lê. Ông vẫn thường mang cổ cồn nhưng không thắt ca-vát. Chỉ có mỗi một chiếc khuy đồng ghim trên cái cổ áo hơi vàng được hồ cứng của ông. Cứ như vậy ông đi khắp cái sân chuồng, chỉ dẫn mấy cậu thanh niên và một hoặc hai người đàn ông lớn tuổi hơn, sành sỏi và tự đắc về ngựa nghẽo, mặc dù vậy vẫn phục tùng Horrie, một con người tử tế.
Thelma Parker đã thấy cảnh này, khi nhìn từ cửa sổ phòng mình tại ngôi nhà gạch của gia đình nhà Bourke, vì phòng của cô khốn khổ lại ở phía có dãy chuồng ngựa. Nào mấy gã vận áo lót đang đu đưa những xô nước lóng lánh, nào mấy người đàn ông lớn tuổi khác có đôi chân vòng kiềng, nào những con ngựa vạm vỡ, óng mượt đang run rẩy.
Horrie Bourke bảo Thelma cứ tự nhiên như ở nhà. Hôm sau ông cho cô một hộp chocolate có cái nơ to bằng xa tanh hồng và bảo thỉnh thoảng cô có thể lấy cho ông một cái thật mềm. Ông thuộc loại người thích tỏ ra nhã nhặn với các cô gái như thể một lễ nghi trau chuốt. Ông thích nhìn những cô gái tóc cài nơ, cổ tay đeo vòng và thích pha những loại trò khiến các cô cười khúc khích, ăn chocolate lúc chiều chiều. Ông thuộc cái trường phái hầu như cho rằng phụ nữ là một giống loại khác, ý niệm đó quả hợp với một vài phụ nữ.
Thelma Parker chẳng bao lâu hiểu ra rằng Horrie Bourke đáng mến nhưng không đáng để tâm lắm. Cô dần dà chấp nhận cái nghi lễ nhã nhặn của ông và cười vang khi nghe những câu pha trò của ông mà không biểu hiện một sự giả trá nào.
- Bố thật tội nghiệp, - bà Bourke nói, bố quá tốt bụng.
Cứ như thể ông đang bị bệnh.
Bà Bourke trước đây mang họ Bott. Tên bà là Lily, một trong ba cô gái mà Stan Parker đã không cầu hôn, và vì lý do ấy bà đâm có thói quen nheo mắt nhìn Thelma, như để nhìn cho kỹ hơn một chút, với một vẻ rất đỗi khoan dung đầy giễu cợt. Song không thể bảo Lily Bourke không phải loại người tốt. Bà có phấn son đôi chút nhưng cũng chẳng đáng kể gì. Bà thích có vài ba người bạn đến chơi vào buổi tối và uống một ly gì đó, tốt nhất bia đen, khi bà sắp sửa hát những bài ca xưa cũ bên cây dương cầm thẳng đứng, sau khi đã tháo những chiếc nhẫn.
“Con có thích bà Bourke không? Con không nói điều đó,” mẹ Thelma viết trong thư.
“Bà Bourke cũng được, bà ấy rất tử tế,” Thelma viết cho mẹ như vậy.
Bà Bourke lấy phấn của mình thoa lên mặt Thelma và bảo cô phải gọi bà là dì Lily. Song Thelma quyết không mắc bẫy mà gọi bà bằng cái tên thánh. Cô nghĩ là mình sẽ không cần đến một sự ấm cúng lâu bền của gia đình Bourke, và đã cảm thấy một chút bất an trong lòng.
Vì vậy cô không hứa hẹn gì mà trở về buồng đánh móng tay.
Khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Thương mại Thelma Parker nhanh chóng kiếm được một chân đánh máy bậc thấp tại một công ty tàu biển. Đó không phải là công việc cô muốn nhưng vào thời điểm này thì cũng được. Chẳng bao lâu mọi người đều thấy hiển nhiên rằng cô có năng lực xuất sắc. Nhiều phần việc đặc biệt được giao cho cô, kết quả là cô bị những người không muốn làm việc đó căm ghét. Nhưng cô không nản lòng. Khoảng thời gian này Thelma cắt tóc ngắn, cái gáy cô chẳng ai có thể tóm được khi cô đi ngang qua các phòng làm việc giữa những dãy bàn giấy, tay mang một thếp giấy mới hoặc xà phòng, khăn mặt từ phòng tắm trở về.
Đôi khi cô quả cũng nghĩ đến gia đình, chẳng hạn lúc đang ăn cái bánh sandwich kẹp cá trích trong khoảng nửa giờ nghỉ ăn trưa. Nỗi khắc khoải nhớ quê ấy khiến cô buồn phiền nhưng không thể nào tránh được. Hình ảnh mẹ cô luôn hiện ra, bà thực sự xứng đáng với mọi tình cảm yêu kính, dù rằng ăn mặc xấu xí và làm hầu hết mọi việc đều vụng về, luôn đánh đổ xô, vại hoặc bị đứt tay khi thái bắp cải, mặt nghệt ra khi quên khuấy những ý định mà bà sợ rằng mình không nhớ ra nổi, mà mọi thứ lại đều phụ thuộc vào nó. Thelma Parker thường thấy nóng ran người vì niềm thương yêu đáng xấu hổ và đáng bực đối với mẹ. Bố là đàn ông, vì vậy không đáng kể bằng, trừ về mặt kinh tế. Bố hay lơ đãng, nét mặt ông biểu hiện điều ấy, lại bị thua trong cuộc đấu tranh tư tưởng kia, vì lý do đó, có thể bị xem thường. Hơn nữa, cô không hiểu bố có những nhu cầu gì. Cô coi khinh và e ngại những điều mình không hiểu. Rồi cô nhớ ra là cổ bố đầy những vết nhăn. Thế là Thelma bị kéo lại. Những vết nứt nẻ trên đôi bàn tay ông đang níu lấy áo cô. Thế là cô không thể trốn thoát, khỏi việc bị bố mẹ làm cho bẽ mặt cũng như khỏi sự thấp kém của họ, và cuối cùng, có lẽ, để đỡ tỏ ra quá nhẫn tâm.
Cô thường vun thành đống những mảnh vụn từ chiếc bánh sandwich vô vị của mình, thứ vẫn đáp ứng đủ nhu cầu của cô. Thelma thường làm một cái bồ đài nhỏ bằng giấy đựng những miếng vỏ bánh sandwich khốn khổ, vì cô không thích vỏ bánh.
Thelma chẳng nghĩ gì đến anh mình. Cô dẹp anh trai sang một bên, và tự thuyết phục mình rằng Ray đã không chọn được lúc xuất hiện.
Nhiều người tốt bụng thấy Thelma Parker cũng tử tế. Đó là vợ chồng nhà Gough, bạn bè, hoặc đúng hơn, người quen của bà trưởng trạm bưu điện ở Durilgai, những người này tuy buôn bán tạp phẩm nhưng khấm khá hơn, họ không còn mặc tạp dề ngồi sau quầy hàng, hoàn toàn không phải loại người như vậy. Vợ chồng nhà Gough sống tại một vùng ngoại ô khá hơn, tuy không phải là nơi tốt nhất, có vô khối đồ đạc bóng loáng, có cả một tủ phục vụ hút thuốc - uống rượu hỗn hợp mà ta có thể lục các ngăn moi ra một chai cocktail chuối. Sau khi rửa tay, Thelma sờ xem những chiếc khăn tắm của họ, chúng được thêu chữ Khách theo hình một vòng hoa păng xê, rất nghệ thuật. Vợ chồng nhà Gough mở những bữa tiệc tối, chẳng có gì trang trọng ngoài bánh mì mềm và những bộ y phục nửa dạ hội. Chẳng bao lâu Thelma biết mình phải làm gì. Cô được cái tài quan sát mọi phía, tài biểu lộ những cử chỉ đúng điệu, cứ như thể chân tay cô đến lúc ấy là bằng sáp, tài chơi đùa với con chữ như thể những lời lẽ ấy từ chính cổ họng cô bật ra chứ chẳng phải của một người nào khác. Cô làm tất cả những điều đó, phấn chấn vì biết bao khám phá khả năng và bất ngờ.
Vào một ngày Chủ nhật, tại trang trại nhà Bourke, có một người nuôi trâu bò để bán, đã đứng tuổi nhưng có thế lực, sau khi sờ thử chùm lông ở khuỷu trên móng con ngựa của mình và thảo luận về triển vọng sau này với người huấn luyện ngựa, đã ngợi khen vẻ ngoài của Thelma Parker, cố nhiên điều đó thật ngớ ngẩn. Song cô nhớ đôi ủng của ông ta bóng láng biết bao và bộ quần áo của ông, dù ăn vận cẩu thả đến đâu, vẫn thuộc loại hàng xa xỉ. Thelma nhớ tên ông ta là Letourneur, tuy cô không gặp lại nữa.
Trong lúc đánh móng tay bên cửa sổ nhà Bourke, Thelma phải nghĩ đến và quan sát bao nhiêu là chuyện, vì người ta cứ dắt ngựa qua lại hoặc những con ngựa cứ khua vó vào cánh cửa chỗ chúng vào buổi tối, thở phì phì đầy bụi. Vài cậu nhóc lượn lờ xung quanh lúc tối để nghịch ngợm hoặc chơi bài hoặc chơi xu sấp ngửa. Những thằng bé trong sân đứa nọ kẹp đầu đứa kia vào nách thực hành các hình thức tra tấn. Chúng cười bằng cái giọng đang vỡ và hút thuốc, chúng pha trò và phác những cử chỉ tục tĩu, hoặc thây kệ cô gái đứng bên cửa sổ, dù sao cô cũng đã bị lãng quên. Chẳng ai nói chuyện với cô, loại bà con kênh kiệu của Horrie Bourke, trừ khi cần thiết, và gọi là Quý cô. Chẳng bao giờ họ có thái độ sỗ sàng. Trừ cái việc nhún vai tặc lưỡi ở đằng xa, mà việc đó, dĩ nhiên, có thể là một biểu lộ của joie de vivre[2].
[2] Joie de vivre (tiếng Pháp): niềm vui sống.
Tuy vậy vẫn có anh chàng Curly.
Khi Thelma đã bắt đầu ngợp vì cái cách thu xếp đời sống của mình - người ta đã thăng cấp cho cô ở cơ quan và cô đã mua một chiếc áo khoác lửng bằng lông thỏ nhuộm - thì Curly nói chuyện với cô. Thực tế gã nói rất xược. Gã đi ngang qua một vạt cỏ cho trâu ăn mà ông Bourke vẫn tự mình cắt. Gã bước nhanh, thẳng người, đôi giày cát giẫm lên cỏ thô, vẫn cái dáng đi lắc mông mà cô đã để ý thấy, vừa đi vừa vung vẩy hai cánh tay trai trẻ lực lưỡng, láo xược một cách vô ý thức, rồi tì cằm lên bậu cửa sổ và nói:
-Tối nay có nghĩ gì đến bọn anh không hả Thel?
Cô nhìn gã, đôi môi hé mở, không mỏng như trước cứ như thể bị châm. Đồng thời cô sửng sốt, phấn khích và hơi hoảng sợ.
Thelma nhìn gã. Gã trẻ hơn cô, điều nay khiến sự việc tồi tệ hơn. Song tóc gã cắt đẹp, hoe vàng. Gã có thể từng phạm tội, nhưng bằng một cách vui vẻ.
- Thế nào? - Gã tán tỉnh.
- Làm gì có chuyện, - Thelma nói, chỉ muốn quay gót bỏ đi, - Không phải bọn con trai táo tợn như cậu đâu.
Muốn diệt gã, cô tỏ ra thật nghiêm nghị, nhìn hai cánh tay gã đặt dọc theo bậu cửa sổ.
- Chà, - gã nói. - Anh không phải toàn ngựa nghẽo đâu nhé. Cứ thử gãi anh mà xem. Cho em dùng dĩa đấy.
- Tôi sẽ mách ông Bourke, - Thelma nói.
Khi ấy gã bắt đầu cười cợt. Thelma có thể nhìn thấy hàm răng to oành gã.
- Không đùa đâu, - gã cười. - Anh mang cho em một lời nhắn đây này. Em sẽ trả công bao nhiêu?
- Lời nhắn kiểu gì thế? - Cô hỏi.
Cái đầu cô, dù đã cố trấn tĩnh, đã bắt đầu lắc la lắc lư đều đều, khi đánh móng tay và cẩn thận tránh nhìn bất kỳ cái gì khác. Việc đó đã trở thành một trò chơi hầu như làm Thelma thích. Cái mùi thuốc bóp và cỏ khô cứ dai dẳng khiến cô đâm khinh suất, lại thêm những tiếng kêu ré lên của con ngựa cái non đang lăn mình trên cát sau những cọc rào của sân tập.
Gã thanh niên bắt đầu cậy chất mát tít rắn trong một kẽ nứt trên khung cửa sổ.
- Lời nhắn gì thế? - Thelma hỏi.
Trên bức tường nóng gã chuyển dịch sang một tư thế mới thờ ơ, lãnh đạm và bình thản.
- Từ anh của em.
- Của anh tôi à? Làm thế nào mà anh biết anh tôi?
- A! - Gã nói. - Anh gặp anh ấy ở trang trại Warwick hôm thứ Bảy.
- Không thể là anh tôi được. Anh tôi ở mãi trên miền Bắc.
- Anh ấy đã về miền Nam, hiểu không, mới gần đây thôi.
- Tôi không thể tin là anh biết anh tôi.
- Cô không phải là em gái Ray Parker à?
- Phải chứ, - Thelma nói. - Nhưng…
- Ray nói: “Bảo Thel là vài hôm nữa tao sẽ sang thăm.”
Thelma ngồi suy nghĩ. Cô, một cô gái mảnh mai trong khuôn cửa sổ, lo âu vì nghĩ rằng một chuyện gì đó có thể vượt qua ngưỡng cửa, xâm phạm vào cái riêng tư mờ ảo trong phòng mình.
- Thôi được, - gã con trai nói, - anh tưởng là em sẽ vui mừng được gặp anh trai.
- Ồ, tôi sẽ vui mừng.
Nhưng cô đẩy ghế đứng dậy, và gã con trai bắt đầu bỏ đi, cảm thấy cô gái già hơn mình. Gã là một cậu bé, thực sự, hầu như lúc nào cũng vậy, to lớn và chỉ muốn làm bộ làm tịch vì to xác. Giờ đây, về phần mình, gã chẳng biết tiếp tục thế nào, thế là gã bỏ đi, đôi giầy đi cát bước qua vạt cỏ mềm dành cho trâu ăn.
Thelma Parker lo lắng. Cô vào phòng khách và ngồi lên chiếc trường kỷ bọc nhung kiểu Genoa của bà cô Lily Bourke và xem một tờ tạp chí, nhìn ngắm những bức ảnh các cô dâu và đồ nội thất. Những đỉnh cao không thể nào đạt tới khiến cô nghẹn thở và cảm giác cơ thể bị hẫng hụt dẫn đến cơn co thắt đầu tiên. Cô ho và giở lướt những trang tạp chí. Nhiều viễn tưởng rực rỡ vụt hiện rồi lại tắt. Ánh ngày tàn mang theo cái buồn ngột ngạt của cùi dừa và thời niên thiếu. Cô đứng dậy để chuyển sang một tư thế khác dễ thở hít hơn, rồi ngồi bên cây dương cầm của Lily Bourke, mà sáp nến đã chảy ra trên lớp vỏ gỗ màu hạt óc chó vào buổi đồng ca lần trước. Lúc này Thelma bấm các phím đàn. Các bản nhạc trở về với cô, với cảm xúc và thậm chí cả đôi chút tài hoa từ phòng làm việc của bà trưởng trạm bưu điện. Vôn dĩ cô có thể trở thành một nhạc công. Khi ngồi một mình, từ đôi tay cô tỏa ra một dòng âm nhạc đặc biệt. Lẽ ra Thelma đã có, hoặc vẫn sẽ có một chiếc đại dương cầm với một bình cắm đủ loại hoa và một bức ảnh cô ăn vận đầm dạ hội. Rồi một người đàn ông nào đó, chồng cô, lúc ấy gương mặt còn mờ ảo, đang bước vào và thận trọng đặt lên vai cô hai bàn tay khô cứng để khẳng định với cô niềm khâm phục của mình.
- Cháu cần phải ra ngoài mà vui chơi Thel ạ - Bà Lily Bourke nói. - Nhất là ở tuổi của cháu.
Bà Lily Bourke trước đó đã uống một viên aspirin rồi đi nằm, giờ đây nom sáng sủa vì mới đánh phấn và vì chất brandy bồi bổ sức khỏe bà vừa mới uống. Bà đã nghe nói hoặc đọc được ở đâu đó là con người tùy theo lứa tuổi mà có những hành vi cụ thể khác nhau, vì vậy bà đã ra lệnh như thế. Nhìn Thelma qua chứng đau nửa đầu của mình và qua bóng tối, nếu lòng nhân hậu cho phép, bà hẳn sẽ nghĩ cô thật đáng thương. Bà Lily thích những cô gái vui đùa ầm ĩ triền miên trong những điệu vũ bốn người vào lúc vui vẻ và lúc thoải mái. Bản thân bà lẽ ra cũng đã tham gia nhảy nhót nếu không sợ bị ông chồng đoạn tuyệt, hơn nữa những tiêu chuẩn đạo đức của bà chẳng khích lệ những người đàn ông khác. Vì vậy bà mời khách đến nhà và vận bộ đồ xanh hoàng gia mà chơi nhạc đệm.
Lily Bourke nói:
- Khi bố của bác mở cửa hiệu ở Yuruga bao giờ cũng nườm nượp khách đến khách đi. Ba chị em bác chẳng bao giờ lúng túng. Đó là một thị trấn nhỏ nhưng náo nhiệt. Nào những chủ trại sữa. Nào những bạn buôn của ông cụ luôn luôn ghé qua, nào bố cháu từ chỗ làm của mình tới. Ờ, bác vẫn nhớ cái đêm bố cháu đánh vỡ cái giá chậu rửa mặt. Đúng vậy.
- Nhưng cháu thấy thỏa mãn. - Thelma nói, trên chiếc trường kỷ vững chãi chứa đựng những bài ca ballad.
Cô không chơi thêm nhiều nữa, trừ mấy nốt lẻ tẻ cuối cùng, vì tiếng nhạc của cô đã mất đi chất riêng biệt.
- Nếu cháu thấy thỏa mãn, - bà Bourke vừa nói vừa rũ tung những chuỗi hạt của một cái chao đèn đã quấn vào nhau trong một bữa tiệc - thì cháu cứ thỏa mãn. Tuy nhiên, cháu phải cẩn thận, ai mà lường hết được, trừ phi cháu đã thử hết các con đường.
Rồi bà ra ngoài đun trà. Tối hôm ấy bà có một miếng thịt ngon, có một viền mỡ vừa đủ láng nhờn miếng thịt tươi ngon. Bởi vì rõ ràng cánh đàn ông phải ăn thịt.
Đêm hôm ấy Thelma Parker chỉ ăn nhỏ nhẻ một chút, rồi suốt mấy ngày sau cô bỏ ăn. Cô băn khoăn không biết có nên viết thư kể với mẹ là Ray giờ đây đang ở trong thành phố không. Tuy nhiên cô đã không viết vì lúng túng không biết nói năng thế nào, thế rồi Ray đến.
- Cháu là Ray Parker. - Nó nói trên bậc cửa.
- Vậy hả, - bà Bourke nói, - bác chẳng rõ cháu giống bố hay giống mẹ nhỉ? Em gái cháu sẽ mừng lắm, nó vừa về nhà đấy và chắc chắn sẽ mời cháu ở lại ăn một món gì đó. Như cháu thấy đấy, bác sắp sửa ra phố mà.
Thực tế bà đang níu chặt gã con trai bằng hai bàn tay nhỏ nhắn mà bà rất lấy làm tự hào.
- Nếu không tiện thì… - nó bắt đầu nói.
Nó là một thanh niên có vẻ mặt phóng khoáng và cởi mở, nước da sáng sủa khiến người ta dễ tin tưởng. Nó đang ngẩng nhìn bằng cái vẻ tin cậy vẫn dành cho những người không có quan hệ gần gũi với mình.
- Nếu không thuận tiện, - nó nói - cháu có thể trở lại lần khác. Bác là bác Lil ạ? - Nó hỏi, điểm một nụ cười thăm dò, một nét duyên thô lỗ nhưng hơi có vẻ dày dặn.
- Bác là chỗ bà con, - bà Bourke thừa nhận.
- Bố cháu nói về bác luôn, - Nó nói.
- Ồ, - bà cười tin lời nó vì người ta vẫn bảo bà thế. - Nói chuyện về ngày xưa thật thú vị.
Lẽ ra nó có thể ca tụng sắc đẹp của bà để lấy lòng nhưng bà lại béo và xấu xí.
Thelma gặp anh trai ở phòng khách. Hai anh em ngồi trên chiếc tràng kỷ của gia đình Bourke, cảm thấy được độ nhún của nó trong những phút yên lặng, thấy lớp độn lông đuôi ngựa phình ra và những tiếng sột soạt của lớp nhung Genoa. Thelma ước mong Ray sẽ bỏ đi sớm, tất cả họ hàng bà con cô sẽ để mặc cô suy tư về lợi ích cao hơn của bản thân mình. Song Ray còn phải kể cho cô nghe về nó. Có vẻ như nó sẽ lưu lại Sydney. Nó có công việc làm ăn với một tay bán vé cá cược đua ngựa, như một viên thư ký của y. Tiền kiếm được không đến nỗi tồi. Thế mà nó còn đắn đo suy nghĩ.
Thelma lần tìm đường viền trên chiếc tràng kỷ phòng khách.
- Từ trước đến nay lúc nào mày cũng căm ghét tao Thel ạ. - Nó vừa nói vừa châm một điếu thuốc, đầy điệu nghệ.
Vì trước giờ, chưa hề thấy Ray biểu diễn như thế Thelma thấy tức giận, như thể nó đã đánh cắp động tác đó của một người nào khác.
Đứa em gái đột ngột thay đổi tư thế, co hai đầu gối lên và đặt hai bàn chân thanh nhã vào với nhau rồi nói:
- Em không căm ghét anh.
- Có lẽ chính là quyển nhật ký kia nó ghét.
Nó thở một hơi khói dài.
- Xì, - cô gái nói. - Em đã quên chuyện đó rồi. Những chuyện vớ vẩn người ta viết vào nhật ký khi còn là con nít.
Song, qua làn khói lan tỏa và ký ức, Ray nhớ lại một điều kỳ cục, niềm say mê của bản thân nó đối với anh chàng Hy Lạp.
- Vài người, - gã nói - không thích mày biết quá nhiều về họ.
- Anh biết gì về em nào? Anh chẳng biết gì hết, chẳng gì hết. Chúng mình thậm chí có thể chẳng liên quan gì với nhau, ngoại trừ cái việc là anh em…
Khả năng đứa nọ biết chút gì về đứa kia vừa có thể có, lại vừa không chắc chắn, bởi hai đứa cứ nhìn nhau trong phòng khách, hoặc phòng chờ, điều đó chỉ duy trì một kiểu liên kết khó chịu. Hoặc thậm chí có thể dưới lằn quần áo chúng đã chọn mặc, chúng biết về bản thân mình, biết phải tiến lùi theo cách nào. Tình trạng không xác thực bắt đầu khiến gã trai trẻ bồn chồn. Nó đứng dậy đi loanh quanh, vừa đi vừa sờ mó các món đồ trang trí và nhìn vào những hòm xiểng. Song đứa con gái chỉ đan hai bàn tay vào nhau chặt hơn trên đầu gối, nắm chặt cái khăn mùi soa ấm nóng đã vo tròn.
- Mày nghĩ rằng mày sẽ chết dí mãi nơi đây à? - Thằng anh hỏi, chẳng quan tâm lắm đến câu trả lời.
- Cố nhiên, - con em trả lời.
Cô vẫn còn có thể cảm thấy phẫn nộ nếu bị gợi ý là sẽ không hoàn thành được điều đã dự định.
Nhưng thằng anh muốn nói về cái nơi hai đứa đã cùng sống với nhau.
- Mày nhớ anh em nhà Quigley chứ? - Nó hỏi.
- Từ trước em không nghĩ đến họ, - con em trả lời lạnh nhạt. - Nhưng em không quên.
Cô không muốn bị kéo về quá khứ.
- Đứa con gái thật xấu xa nanh nọc, - Ray nói. - Cái cục bướu cổ ấy.
Nó thấy ghê tởm nhưng lại buồn rầu.
- Nhưng luôn sạch sẽ đấy, - nó nói. - Mày có thể thấy nó lau chùi cái bàn đến vẹt đi một nửa. Tao nhớ chị em nó có cái đuôi chim trĩ cắm trong một cái bình trên mặt lò sưởi. Tao bảo tao sẽ đổi sáu quả trứng chim chào mào đỏ cho thằng em khùng nếu nó chịu để tao lấy cái đuôi chim. Và nó đồng ý. Nhưng tao không đem trứng đến. Nó khóc om lên.
- Sao anh lại lừa nó? - Cô gái hỏi, giọng thờ ơ.
- Tao không biết, - nó nói. - Tao muốn có cái đuôi ấy, mà tao lại không có trứng chim.
Theo cách hiểu ấy, và bằng tiếng cười khá vui vẻ của nó, sự việc dường như hợp lý. Đến nỗi đứa em gái lại quay đầu sang một bên. Cô không muốn nhìn thấy cái bàn đơn sơ của Doll Quigley, bởi vì với sự hiện diện của cái bàn ấy cô đâm cũng bị nghi ngờ. Những việc không lương thiện của cô trong quá khứ mà cô vẫn phạm phải đang quay cuồng trong cô.
- Em nghĩ rằng sẽ không có đủ thức ăn cho mọi người, - cô nói để thằng anh bỏ đi.
Nhưng gã thanh niên, vì đã khiến được em gái chia sẻ tội lỗi thời thơ ấu, lại khao khát có cô bầu bạn. Nó có cảm giác cuối cùng một thực tế nhất định đã được xác lập giữa chúng. Vì vậy nó không muốn để tuột mất điều đó, và nói:
- Không hề gì. Tao có đến đây để ăn đâu.
Ray quên khuấy hẳn là mình đã đến vì mục đích đó.
Ngay sau đó, Horrie Bourke cũng vào phòng và phải gặp gã thanh niên, người bà con của mình.
- Cháu là một anh chàng bảnh trai, - ông Horrie vừa nói vừa đặt cánh tay trong ống tay áo sơ mi có cái băng bằng kim loại đàn hồi khoác vai gã thanh niên. - Một anh chàng bảnh trai. Một anh chàng mà bố cháu có thể tự hào.
Khi ông Horrie đã tin chắc, bao giờ cũng có một giọt nhỏ nước dãi xuất hiện ở mép và bắt đầu chảy xuống theo một nếp nhăn. Ông là một ông già vô vị về một vài khía cạnh, nhưng tốt bụng. Ông thường khóc nếu những con ngựa của mình làm việc quá sức, rồi cứ để nước dãi chảy ròng ròng mà chỉ dẫn đám người trông nom chuồng ngựa, cuối cùng vớ lấy chai thuốc bóp, gắn bó số phận mình với cái cẳng chân bị thương, chịu nhiều đau đớn khi bàn tay ông run rẩy trên miếng băng hoặc khớp xương.
Giờ đây, để tỏ ra trọng vọng, ông muốn phô bày phần hòa ái và dễ tổn thương nhất của mình, kể cho Ray Parker nghe về những con ngựa. Ông vẫn đứng, cánh tay khoác trên bờ vai gã thanh niên, ở một tư thế nếu không phải là do câu nệ thì hẳn là vì chứng thoát vị bắt buộc. Khi hiểu Ray Parker thêm chút đỉnh nữa là ông sẽ kể nó nghe về chứng thoát vị của mình. Trước kia Horrie có lẽ cũng muốn có con. Giờ đây ông đang khoản đãi Ray như con mình, những thổ lộ thầm kín đầy tình cảm và kể cả chứng thoát vị. Đương nhiên điều đó đặt gã thanh niên không phải là con ông kia vào một tình thế khó xử. Bị buộc phải tán thưởng, nó muốn cư xử như một đứa con nhưng không được, điều đó khiến nó biểu hiện một thoáng ác ý, biểu hiện mà lẽ ra nó đã phải có, nhưng bình thường hiếm gặp. Tuy nhiên, ông huấn luyện ngựa quá là vui vẻ nên chẳng để ý bất kỳ điều gì ngoài cái điều ông muốn.
- Lạy Chúa, - Thelma nói.
Bởi chú Horrie đã bắt đầu kể cho Ray nghe về một cuộc đua ngựa.
- Khi Don Antonio đã vượt qua vài trăm mét, - ông nói, - hoặc có lẽ không xa đến thế, con Harcourt sắp sửa đuổi kịp, và con Cantaloup, à không, chính con Phù Thủy của Georgie Abbott đã làm một chuyện nực cười. Lúc ấy chú không nói gì nhiều, nhưng chú nhìn thấy cả, và chú nhớ thầm trong óc, hiểu chứ. Chú thấy Georgie ngó nghiêng hai bên, có vẻ như thế, và thả khuỷu tay trái của y xuống. Chú bảo đó là một mánh lới buồn cười. Chú nói với Cec Docker, Cec đang đứng ở đấy, lão già tội nghiệp đó năm sau đã chết vì một khối u. Chú nhớ là đã bảo Cec: “Ông có nhìn thấy cái điều tôi đã thấy không, ông Cec?” “Ô, Horrie,” lão ta nói, “điều đó tùy thuộc vào cái ông đã nhìn thấy.” Bởi vì Cec thận trọng dễ sợ. Lão ta là cái mà người ta gọi là một tay tử tế thứ thiệt. Còn con Harcourt cứ ngày một áp sát, và con Cantaloup à không, chính con Phù Thủy…
Khi ấy Lily Bourke bước vào. Bà đã cởi bỏ chiếc áo lông cáo và trang điểm qua loa bộ mặt trong phòng ngủ, rồi hai ông bà sẽ mở hai chai bia đen, bà bảo thế, làm một buổi liên hoan nhỏ mừng con trai của Stan, và theo Thelma nghĩ, có một khoanh thịt bò, nửa con gà ở ngăn dưới cùng tủ lạnh, chằm chằm nhìn nó nếu nó mở cánh cửa tủ ra.
Ông bà Bourke rất hài lòng với thằng Ray. Họ hau háu nhìn nó, thèm khát tuổi trẻ của nó, khi vặt xương từ món thịt gà nguội ngắt và nhai những mảnh da màu nâu. Hai ông bà nài nỉ nó kể cho nghe những mẩu chuyện vặt.
Ray bối rối. Nó ngượng ngập nhìn vào cái cốc đầy bia của mình. Nó kể cho họ nghe một, hai câu chuyện. Hiển nhiên nó đã bắt đầu thấy thích nói chuyện về ngựa nghẽo với ông già nhất. Nó hỏi Horrie về khả năng đoạt Cúp Vàng của con Eggcup. Ông già, môi đã bóng nhẫy vì một đĩa đầy thịt mỡ vàng điểm một lát thịt bò đỏ và nửa củ hành tây muối, nhìn miếng bánh mì ông đang cắt ra để ăn và thừa nhận rằng khả năng đó của con Eggcup là khá tốt.
Khi Ray ra về vợ chồng nhà Bourke mong nó trở lại lần nữa. Mà nó trở lại thật. Nó đến khá thường xuyên. Cả ba người bọn họ hầu như quện chặt lấy nhau trong một mối quan hệ mới mẻ, kích thích và gần như nồng nhiệt.
- Anh cháu chẳng giống như hai bác hình dung chút nào, - Lily Bourke nhận xét với Thelma. - Bố cháu bao giờ cũng chậm chạp. Ô, cả nhà bác đều mến Stan. Nhưng cậu ấy chậm chạp quá, chính là mẹ cháu đã lấy bố cháu, cả nhà bác đã bảo thế.
- Thực khó mà bảo Ray là người thế nào, - Thelma nói. - Cháu cảm thấy là cháu biết. Cháu không thể nói được. Cháu bị thành kiến vì là em anh ấy, cháu nghĩ thế.
- Cháu là một cô gái buồn cười thật, Thelma ạ, - Lily nói.
Trong thời gian sự việc đó xảy ra Thelma vẫn tiếp tục làm công tại văn phòng hãng tàu biển, ở đấy người ta ghét cô, tuy cũng kính nể. Không cô nào làm việc xuất sắc hơn Thelma. Nếu cô Halloran bận một công việc gì, như cô ta vẫn thường xuyên thế, ông chủ thường gọi cô Parker vào và đọc cho cô đánh máy một bức thư. Cô thường đánh một mạch, giật mạnh khỏi chiếc máy chữ và thế là tờ giấy lạnh ngắt đã nằm gọn trong cái khay của ông Fulbright trước khi ông đặt điện thoại xuống. Nhưng cô không thích trêu đùa.
Rồi, bỗng nhiên Thelma Parker bỏ hãng tàu biển, nơi cô đang thăng tiến, và làm cho một cố vấn luật pháp với đồng lương thấp hơn. Cô không thể giải thích một cách thuyết phục tại sao mình làm như vậy mà chỉ nói rằng sự việc phải thế. Có lẽ cô được xoa dịu bởi cái vẻ cẩn trọng và không bó buộc thời gian. Nhiều người trong số các khách hàng phụ nữ mặc áo lông thú, đeo hạt trai, họ được các ông chồng dẫn ra ngoài với những ước hiệu thân tình kín đáo và quan hệ xã giao, và những cái bắt tay thờ ơ.
Trong hoàn cảnh ấy, cuộc sống của cô ở gia đình nhà Bourke trở nên ngày càng khó chịu. Nào những mùi khai từ các chuồng ngựa chọi với mùi nước oải hương mà cô dùng thoa hai bàn tay dài của mình, nào những con ngựa trùm đầu len lén đi ra ngoài một cách đơn điệu, hoặc được những người đàn ông có tuổi đầu tóc bù xù dắt, hoặc do những chú thiếu niên cưỡi, lưng khom khom ra dáng ta đây có trách nhiệm. Những cái đó chẳng liên quan gì đến Thelma Parker và cô cũng chẳng bận tâm, song chúng vẫn hiện hữu. Nào những hình thù thô lỗ của đám đàn ông, những kẻ nhổ nước bọt qua kẽ những chiếc răng vàng khè. Nào những cậu trai hay đánh lộn, như cậu Curly, cái cậu hôm nào đã nói chuyện khi mà cậu ta trong khoảnh khắc trở thành người đưa tin.
Ray đôi khi đến thăm Curly. Gã là bạn nó, hình như thế. Tại chuồng ngựa, Ray đã cởi ca-vát ra cho thoải mái, vắt lên vai Curly và chúng nghiên cứu phụ chương của tờ báo Chủ nhật; chúng chia sẻ với nhau những chuyện thầm kín, đôi khi nghiêm chỉnh, đôi khi dâm dật, với mẩu kịch câm có sự tham gia của cơ thể. Đôi khi, vào một chiều thứ Bảy buồn tẻ, nền gạch nóng như nung và những con mèo lim dim ngủ. Ray thường vật nhau với Curly trên một cái cáng cũ lợp vải bao tải trong phòng đóng yên ngựa, như đã từng vật nhau với anh chàng Hy Lạp, đến lượt mình, cậu thanh niên kia khóa chặt gã con trai, gã thường vùng vẫy và cuối cùng thét lên, muốn thoát khỏi cảnh nhục nhã về sự yếu ớt của bản thân mình. Tuy nhiên, trước đó, cô gái vẫn bận rộn với những nghi thức bí ẩn bên cửa sổ, thường đã kéo rèm xuống. Nỗi giận và tính ưu việt của cô muốn được âm ỉ trong bóng tối màu nâu mỏng manh kia hơn, nơi một con nhặng xanh cũng không thể nào ra khỏi được.
Đôi khi Thelma đi dự các buổi hòa nhạc một mình. Âm nhạc của cô không tiến bộ, vừa do tính lãnh đạm vừa do sợ hậu quả, đối với cô là một nỗi buồn, mà cô vẫn thích theo đuổi. Đợt sóng âm nhạc đã gieo vào lòng cô những nốt buồn tê tái và chạnh lòng. Cô uống no nê những tiếng vĩ cầm.
Một lần, trên đường phố vào buổi tối, cô gặp Genevieve Johnstone, cô bạn không được chỉnh tề như trước nhưng lại vui vẻ và dễ chịu khi thấy Thelma, còn Thelma thì chí ít cũng ngạc nhiên. Trong lúc cùng ăn món thịt hầm sốt rưới nước hàng và bí luộc, Genevieve bảo Thelma là nó từng phải nạo thai vì một gã đàn ông đã có vợ mà nó quen biết ở Wentworth Falls. Thelma dùng dĩa khoắng món nước thịt rất khéo. Hầu như cô chẳng nghe gì cả. Còn Genevieve thì cứ kể.
Rồi từ, Thelma với vẻ ưu việt hơn câu chuyện thất bại ấy, nói:
- Mình đang trên đường đi dự một buổi hòa nhạc đây, Genevieve ạ. Sao cậu không đi với mình? Âm nhạc sẽ làm cậu khuây khỏa.
- Nhạc cổ điển không phải là sở thích của mình. - Genevieve nói, hơi lưỡng lự. - Nhưng đó là một cách tiêu khiển cho hết buổi tối, mình nghĩ thế. Nếu như vé rẻ.
Thế là hai cô gái nghe nhạc, hoặc Genevieve thì ngồi còn Thelma thì bay bổng; cô có thể vươn tới những đỉnh rất cao, vượt lên trên sự thờ ơ của bạn mình. Sự bay lượn của bản thân cô hầu như tùy thuộc vào khúc nhạc tuyệt vời của những cây vĩ cầm kia. Vì vậy, cô hết sức để tâm theo dõi. Đường mòn bất tận nhưng mê ly ấy của cô dẫn đến một nơi nào đó. Cuộc sống riêng của cô, trên các tàu điện và trong các văn phòng, lúc đánh bóng móng tay, khi nhìn vào những cốc nước trà mà bói tương lai, cũng không kém phần rõ nét. Chỉ có những nốt nhạc nhỏ long lanh như ngọc trai lắc rắc trên con đường trước vực thẳm tối tăm. Đó chính là Ray, Thelma thú nhận, ta không được nghĩ đến Ray. Cô thận trọng bước dọc cái cầu làm bằng những thanh gỗ mảnh, còng quèo. Trên mảnh ruộng buồn tẻ kia, lởm chởm những chân rạ tùm lum và đám dương xỉ, chính bà mẹ và ông bố lại trở nên đậm nét. Họ thật là mộc mạc và tẻ ngắt biết bao, đặc biệt là ông bố khi giải thích về tác dụng của hàng rào hay về tật bệnh của lũ bò.
Đây là một đoạn mà mình phải tập trung chú ý, Thelma vừa thầm nói vừa bắt chéo chân, hơi ngả người về phía trước. Đôi khi cô đâm hoảng vì những cái khó của âm nhạc. Nhưng chính do tập trung chú ý mà cô được những người đàn ông thượng lưu đánh giá cao. Giờ đây không một nhạc khí bộ gõ nào có thể khiến cô từ bỏ. Không một niềm hân hoan nào của con bạn nhem nhuốc, mồm cứ khoan khoái nhắc lại những điệu nhạc ở những đoạn nghe rõ kia. Những chiếc kèn co phát ra mệnh lệnh đối với những phụ nữ tự nguyện. Bản thân cô, theo kiểu bất đắc dĩ của mình, cũng thích những điệu bộ lẫm liệt của những chiếc kèn đồng và của một vài gã đàn ông, nếu đôi tay họ được giữ thật gọn và thật kiềm chế. Cô mang những tách trà pha sữa rồi lẳng lặng bỏ đó để nghe tiếng những cây kèn ô-boa tuôn chảy.
Kết cấu của bản nhạc không thể nào bị hủy diệt, có chăng là cái mục đích của nó. Thelma Parker lang thang dưới vòm âm nhạc, chân vận đôi giày đẹp nhất của mình. Hãy kiếm một căn phòng ở đâu đó, cô nói, có bốn bức tường vững chãi, và có thể sử dụng bếp. Tiếng chan chát từ đôi giày chính bản thân cô đi không hủy diệt được nỗi niềm riêng tư. Thế là cô trèo lên cao hơn nữa, lúc này bước chân đã vững vàng: có thể lần theo những khúc lượn dù lối đi có phức tạp đến đâu, thậm chí xoắn ốc gấp bội, nơi đó có đặt những tấm gương nhỏ phản chiếu quá khứ về những bông hồng và phân gà vịt, thậm chí cả cái gương vỡ trong đó bộ mặt óng ánh như bạc của cô vụn ra, nhưng lại nhanh chóng được đẩy vào phía sau cái sân khấu tẻ nhạt của tiếng sáo gỗ. Chà, cô hít một hơi không khí qua kẽ răng, cài những món tóc nóng hổi ra sau tai, rồi nó hiện ra. Xa hơn chút nữa, phía bên kia một bục diễn trang trọng, cao hơn một chút, quả chuông chiến thắng đang run rẩy. Cô rướn người lên, cao đến nỗi bộ ngực cô biến mất, và tự tay mình đặt vòng hoa.
- Hết rồi à? - Genevieve hỏi, đối với nó chẳng có lý do gì để vỗ tay.
- Ừ, - Thelma nói, trở lại con người thực tại của mình.
Sau khi họ đã bị đẩy ra ngoài đường phố ẩm ướt, Genevieve nói:
- Nãy giờ cậu đã nghĩ gì khi nghe cái loại âm nhạc ấy, nếu như cậu có nghe?
- Đúng ra là mình chẳng nghĩ - Thelma chậm rãi trả lời - mà sống với nó.
- Mình không sống theo kiểu ấy. Không giống như kiểu ấy - Genevieve nói. - Ôi, cậu sâu sắc quá!
Thelma vui thích, nhưng cũng quá lúng túng nên không trả lời được. Cô không có kinh nghiệm và lượng bao dung của tình bạn, vì thế lời nói, hay một cử chỉ có thể khiến cô trở nên cứng nhắc. Bởi vì Genevieve đã nắm lấy cánh tay nàng.
- Đằng kia có một anh chàng chơi vĩ cầm - Genevieve nói. - Có thể cậu đã nhìn thấy anh ta rồi, tóc rẽ ngôi giữa ấy mà. Mình nhớ có lần đã gặp anh ta trên một chuyến phà. Anh ta từ Manly đến. Phải rồi, hôm ấy thời tiết rất xấu. Anh chàng thật là cừ, nếu đúng đó là anh ta. Nhưng làm gì được? Biển động là một chuyện. Mà lại mang theo một hộp đàn vĩ cầm đẹp tuyệt vời nữa.
Các khả năng được gieo mầm vào ban đêm trên những đường phố ẩm ướt và trong sương mù màu đỏ tía.
- Sếp của cậu có tốt không, Thelma? - Genevieve hỏi. - Ông ta đã già chưa? Các cố vấn pháp luật mình biết đều già cả. Mặc dù hẳn họ đã từng có lúc trẻ.
- Họ cũng được - Thelma nói. - Một người đã già rồi. Mỗi lần đau lưng thì ông không đến. Người kia thì ít tuổi hơn, nhưng không còn trẻ nữa. Ông Forsdyke. Ông ta hơi hói. Nhưng không đến nỗi.
Tàu điện đang tiến đến.
- Nói tiếp đi - Genevieve nói.
- Gì? - Thelma nói. - Thật đấy, chẳng còn gì để nói nữa.
- Mình mà làm việc với các ông cố vấn pháp luật thì mình sợ lắm. Họ nói chuyện buồn cười lắm.
Thelma rúc rích cười.
- Lão ta có cái kiểu ưỡn bụng lên - Thelma nói. - Hễ cứ nói chuyện là ưỡn bụng lên, rồi để nó xẹp xuống.
Cô cười vang.
- Thế lão ta có bụng à? - Genevieve cũng cười vang.
- Có, đúng thế. - Thelma lại cười. - Nhưng không to lắm. Lão ưỡn lên cái lão có, mình định nói như vậy. Ôi!
- Ông cố vấn pháp luật bụng bự - Genevieve rít lên.
Hai cô gái đung đưa người ở trạm chờ tàu điện, không đứng thẳng người được. Họ cọ xát nhau trong ánh sáng tim tím. Một vài người đàn ông đi qua, tay đút túi quần, ngắm nhìn, khạc nhổ, rồi đi tiếp. Hai cô gái cười.
Có lẽ đây là cuộc sống chăng? Thelma tự hỏi, chịu ảnh hưởng của ngôn từ và tiếp xúc. Nhưng cô lập tức cảm thấy khó chịu, giằng người khỏi Genevieve đang thở hổn hển, rồi ngừng cười.
- Mình định đi tìm một căn phòng ở đâu đấy - cô nói khá thô bạo - hay là một căn hộ, hay một cái gì đó. Mình không thể ở chỗ này mãi được.
- Còn mình thì mình không thích sống trong một căn phòng. - Genevieve nói. - Cậu có thể bị đánh đập. Thậm chí bị giết. Bởi một người đàn ông nào đó.
- Nếu cậu cần phải có một người đàn ông - Thelma nói.
- Nhưng mà cậu cần phải có.
- Mình hài lòng với một căn phòng, và một cánh cửa. - Thelma nói. Biết rõ là không phải lúc nào mình cũng lạnh lùng như thế, nhưng lại muốn nói dối, vì cần phải như thế.
- Tàu điện của mình đến rồi. - Cô nói. Và cảm thấy vui sướng.
- Hay là cậu kết quách với cái lão cố vấn pháp luật kia đi, - Genevieve thét lên. - Chính thức đi. Cái lão ưỡn bụng ấy.
Lúc này Thelma đã vào sâu trong tàu điện. Cô có thể nhìn xuống với vẻ thờ ơ lãnh đạm vào khuôn mặt tim tím của Genevieve. Các làn sóng tim tím lờ đờ cuốn cô xuống, trong khi Thelma tiếp tục đi, chẳng hề thương xót cô bạn chút nào, và còn băn khoăn không hiểu sao mình lại kết bạn được. Đưa đồng xu lạnh lẽo cho người bán vé, cô cảm thấy như mình đang mua sự tự do. Cô khát khao điều ấy, như hầu hết đàn ông, hơn bất kì điều gì, trong khi vẫn còn mơ hồ về bản chất của nó. Cô cũng muốn hỏi một người nào đó. Nhưng ai mới được? Bố mẹ thì không được rồi.
Chẳng ai lại đi hỏi bố mẹ cả. Có lẽ Ray đã mua nó nhưng cái giá phải trả là bao nhiêu thì cô chẳng biết.
Một lần Ray mua cho cô một đôi bít tất lụa. Hắn mở cửa và ném qua tấm thảm, rồi chúng nằm đấy, méo mó, không thể tách rời khỏi tình cảm của cô đối với Ray.
“Này” gã nói, nhìn qua khuôn cửa hé mở, “quà cho mày đấy.”
Hắn đợi một lúc xem cô có nhận không. Cô không tỏ ra dấu hiệu gì cả khi hắn ra đi, nhưng gương mặt của hắn cho thấy hắn tin khá chắc là cô sẽ nhận. Và cô đã nhặt đôi bít tất lên khỏi thảm một cách tội lỗi, gấp lại trên bàn tay. Cô cất nó trong ngăn kéo, rồi mang ra dùng, cố quên, và cuối cùng đã quên rằng đó là quà tặng của thằng anh.
Chẳng rõ Ray có ý định gì khi tặng cô đôi bít tất. Chắc chắn đó là món nợ hắn chuẩn bị sẵn cho tương lai, vì nói chung hắn thường tặng quà theo tinh thần ấy, nhưng có phải còn do sự thôi thúc của tình anh em hay không thì hắn không chắc lắm. Hắn cũng muốn có một loại quan hệ không chê trách được với một con người nào đấy. Hắn cũng muốn ngồi xuống chuyện trò với một ai đó về những điều bình thường, tinh khiết như trang giấy, mà cần thiết phải nói. Không thể làm điều đó đối với bố mẹ được, cũng giống như đối với những cái mở nút chai. Mẹ hắn chắc chắn sẽ tìm cách đi sâu vào, hy vọng rút ra được một cái gì đó. Không thể làm như thế với gia đình Bourke được, vì họ là những đứa trẻ già nua của cuộc đời. Không thể thế đối với bạn bè hay đồng sự được, vì họ luôn luôn chờ đợi hắn hành động theo những cách thức đã định trước. Vì thế chỉ còn Thelma. Nếu trong khoảnh khắc hai người có thể chống cự được những dòng chảy riêng biệt đang mang họ đi, thì hai người đã có thể có một mối quan hệ tiêu cực mà hắn cảm thấy cần thiết.
Dạo ấy Ray vẫn còn qua lại với Bernie Abrahams, tay bán vé cá ngựa chưa ai từng gặp, bởi vì Bourke không tham gia đánh cá ngựa. Trong bọn Ray chẳng ai tìm được cách thức tiếp cận gia đình Bourke. Lily vạch ranh giới. Bà cũng lo sợ cho số châu báu của bà, vì bà có một số châu báu thiệt trong mớ đồ giả. Tuy thế còn có Curly, người mà ai cũng biết là bạn thân của Ray, quê ở Bundaberg họ biết thế và chẳng gì nữa. Ray sống ở nơi nào đó bên trên một cửa hiệu hoa quả. Cũng có nói chuyện về một vài người Ý, và hai cô gái Ý, hai chị em, hình như thế. Ray mang đến cho gia đình Bourke những túi giấy đựng đầy táo, những quả táo to, nhợt nhạt hay màu tím mọng, hoặc một quả dứa thò đầu ra ở miệng túi.
Horrie hài lòng, như một đứa bé, nhưng Lily ít hài lòng hơn, bà vừa có thời gian hồi phục lại chút ít sau tình cảm của mình.
- Cậu bé quá tốt đối với chúng ta - Lily nói, nheo mắt lại. - Tại sao cậu bé lại tốt bụng đến thế?
- Kìa, thế thì sai ở chỗ nào? - Horrie hỏi, vừa gọt táo. - Cậu bé ấy xa nhà, nhớ bố, nhớ mẹ.
Thelma đã vào trong phòng tìm kiếm đồ vật gì đó, và lại đi ra với sự thận trọng lặng lẽ mà cô thường vận dụng trong ngôi nhà ấy. Cô đang đi qua cuộc đời họ.
- Horrie à, mình nói đúng đấy, - Lily nói. - Chúng ta không nên bàn về cậu bé như thế. Nhất là trước mặt cô em gái cậu ta. Stan sẽ nói thế nào đây?
Nhưng Thelma không bình luận gì cả.
Thật là những chuyện ghi chép về cuộc sống đáng hối tiếc của những người khác. Cô phải tìm cho ra căn phòng, có cả nhà bếp. Cho đến lúc đó cô phớt lờ tất cả.
Thế là mấy con ngựa tiếp tục lẻn ra ngoài. Buổi sớm tinh mơ khi nàng chải đầu, và những ngày Chủ nhật khi nàng ngồi trong phòng, những bóng dáng như thầy tu của chúng lọc cọc chạy qua con đường rải nhựa và những cánh cổng bằng gỗ. Đàn ông và trẻ con bàn tán về một cuộc hội họp lớn nào đó, mà bầy ngựa đang được sửa soạn. Đó là câu chuyện bí truyền về cân nặng và khung xương, về tỉ lệ tiền cược và bước kiệu, thứ mà con gái không lắng nghe, trừ phi có những đoạn lọt vào tai và không thể nào tránh khỏi được ghi lại. Con Malabar đã bỏ cuộc. Con Eggcup chắc chắn sẽ thắng, họ nói, một cơ hội lớn cho Horrie Bourke. Cô vừa chải đầu vừa nghĩ rằng những vấn đề ấy khác biệt biết bao so với những nguyện vọng của bản thân mình.
Trong khi ăn những quả trứng lòng đào vào bữa điểm tâm, người huấn luyện viên già run lên về tầm quan trọng của cuộc đua này. Thế rồi trong giây lát cô gái không cảm thấy những nỗi thống thiết của cuộc sống mong manh của con người là nỗi thống thiết của bản thân mình trong sự cô lập và tầm thường tương tự. Chiếc sọ của ông già mỏng manh như một cái vỏ trứng đang chờ vỡ tan dưới một cú đấm một kẻ nào đó, không phải ngay bây giờ, mà một lúc nào đó. Và chiếc áo cánh của cô không che nổi đôi vai. Cô tự làm bỏng mình khi rót nước trà đỏ nóng từ trên cao, và cắn môi, rồi hỏi:
- Khi nào đua?
- Gì cơ? - Ông ta nói, vẻ nghi ngờ. - Đua ngựa à? Hôm nay là thứ Bảy mà.
Sửng sốt vì phát hiện ra là mình có thể không tồn tại, ông vét chỗ mứt, rồi mở ra và ngậm miệng một vài lần.
- Anh trai của cháu đâu? - Ông hỏi cô gái, người mà ông bắt đầu nghĩ đến, nghĩ về cảnh sống bắt buộc của cô ta, giam mình trong phòng, chắc chắn cùng trong một ngôi nhà. - Chúng ta chưa gặp cậu ấy từ bao giờ chẳng biết nữa.
- Cháu không biết Ray ở đâu cả. - Cô nói - Chẳng bao giờ anh ấy nói cho cháu biết công việc làm ăn của anh ấy.
Cô cũng chẳng nom thấy hắn, cô nhận ra điều này với sự hài lòng hay ngờ vực, thậm chí không ở trong sân với Curly. Curly ở đấy, nhưng cô ít để ý tới. Anh ta đi rón rén hơn. Đôi lúc anh nom rất nghiêm trang. Anh ta đã trải qua nhiều chuyện, và chỉ là một đứa bé ở nơi này. Anh huýt sáo, nhưng thường im lặng nhiều hơn. Quả tình là cô sẽ không để ý đến Curly nếu Ray không thổi sự sống vào tứ chi cho anh ta.
Cứ thế cô thắc mắc tại sao Ray không đến, hôm ấy là thứ Bảy, ngày đua ngựa, mà Horrie Bourke thì sống vì cuộc đua ấy.
Ngày hôm đó Thelma không đến cuộc đua. Cô không đi bởi vì khi ngôi nhà chết thì cô lại sống. Cô thường cởi áo ngoài, ứng biến vài nốt nhạc trên chiếc dương cầm bằng gỗ óc chó, hay ghi nhật ký và pha trà. Hôm ấy, cô nằm duỗi trên chiếc đi văng ở phòng khách trong tư thế xa hoa và buông thả, điều này xa lạ đối với bản tính nghiêm cẩn của cô, nhưng bây giờ lại mang tính chất bản năng vì cô đang tập sống một cách sâu sắc và riêng tư, một cuộc sống mà sau này cô sẽ sống, vừa là do lựa chọn, mà cũng vừa là một điều không thể tránh khỏi, cô tin như vậy.
Vừa lúc đó Bourke phu nhân vào phòng.
Lily Bourke loay hoay mãi không cắm chìa khóa vào được. Hoặc giả bà cố sức vặn ra. Bà là nạn nhân của những chiếc coóc-xê và bất cứ điều gì đã xảy ra.
- Thelma à, bác sẽ bảo cháu biết, - Lily nói - nhưng trước tiên bác phải nằm xuống cái đã.
Thế là Thelma chờ đợi, trong chiếc áo khoác ngoài nàng vừa choàng lên, thâm tâm rất lo ngại vì nàng vẫn tránh tất cả những sự việc sôi nổi, và đây chắc là một sự việc như thế, bởi Lily Bourke đang tối sầm mặt mũi. Cái đầu con cáo nhìn chằm chằm từ trên ghế.
- Đúng là một ngày tàn nhẫn - cuối cùng Lily Bourke nói, bà đang nằm thẳng đuột chỉ có xi-líp và bít tất trên người - Thelma ạ, bác sẽ nói cho cháu rõ việc gì đã xảy ra.
Do vậy Thelma lắng nghe, và mãi tận khuya, sau khi suy ngẫm, nàng đã viết lá thư này cho mẹ cô.
Mẹ thân yêu.
Con viết thư này để kể cho mẹ nghe những gì đã xảy ra ở đây. Nó đã được đưa lên báo, vì thế mẹ sẽ cần phải biết, do con kể lại thì hơn là một người bạn tốt bụng nào. Mẹ ơi, đó là chuyện Ray. Anh ấy đang dính vào một vụ bê bối cá ngựa. Anh ấy có dính vào, nhưng cũng không hẳn vậy, nghĩa là người ta không thể gán chuyện đó cho anh ấy. Nhưng theo người ta nói thì đã khá rõ ràng. Mẹ biết đấy, đối với anh Ray thì chỉ có thể là cảm tính thôi, chẳng bao giờ có chứng cớ cả.
Dẫu sao, có thể mẹ đã nghe nói về cuộc đua lớn tên là Cúp Vàng ấy, được tổ chức hôm nay, và con ngựa Eggcup của ông Bourke thế nào cũng đoạt giải. Song lại chẳng được. Hình như con ngựa gặp chuyện rắc rối gì đó. Thậm chí người ta nói đến chuyện dùng thuốc kích thích, và đang mở cuộc điều tra. Một gã rất vạm vỡ ở chuồng ngựa, một tay bịp bợm, chơi với Ray (con thường thường nom thấy hai người đi với nhau ở đây, và có thể là họ âm mưu chuyện gì đấy, bây giờ đã rõ), hắn đã ít nhiều thú nhận là có cho con ngựa một thứ gì đó, nhưng do Ray xúi giục. Hắn rất hoang mang lo lắng, những vẫn không chịu nói đầy đủ. Hình như kẻ thắng cuộc là một kẻ ít có khả năng thắng, đó là Ngài Murgatroyd, đã trả Ray một số tiền lớn để được trợ giúp…
Hai ngày sau, các sự kiến tiếp tục diễn ra và mối ngờ vực rằng mình là một kẻ tử vì đạo đã thúc đẩy Thelma viết tiếp:
…Từ ngày sự việc trên xảy ra chúng con không gặp Ray, ông Bourke càng không cho phép anh ấy đến đây. Gần đây bà Bourke bị ốm, con đã phải quanh quẩn bên giường bà ấy, chăm sóc đêm hôm và làm lụng ban ngày đâu phải là chuyện đùa. Bà cứ để tóc dài ra, bà ấy quá lo lắng mà. Còn ông Bourke qua việc này đã trở nên già khụ, vì trước kia ông rất tốt với Ray, nên bây giờ ông chẳng thể nói chuyện gì khác ngoài chuyện đó.
Không cần phải nói mẹ cũng biết là tất cả câu chuyện này thật rất gay go cho con, là em gái anh ấy, con phải gánh chịu phần lớn hậu quả. Con thiết nghĩ bố nên đến đây và xem liệu cho thể làm được gì chăng, hoặc nói chuyện với Ray. Tuy con thấy thương cho những người này và có chút ít liên quan tới họ, nhưng con chẳng đứng về phía họ, con cảm thấy mối quan hệ kia hoàn toàn là ngẫu nhiên.
Con sẽ cho mẹ biết kế hoạch tương lai của con sau khi mọi chuyện đã ngã ngũ. Công việc của con ở văn phòng vẫn bình thường. Nghe đâu có một cô nữa sắp đi, con chắc là điều đó sẽ có lợi cho con, bằng vào điều ông Forsdyke, một trong hai ông chủ của con nói…
Đến đây, Thelma rất muốn khóc vào tờ giấy màu hoa cà nhạt cô vẫn dành cho những thư từ quan trọng, như là viết cho phu nhân Gough, cám ơn bà ta đã mời đến dự tiệc tối. Rồi bỗng nhiên cô sực nhớ đến mấy con mèo đang sưởi nắng ở cửa sau. Cô cúi xuống sờ vào lũ mèo đang ngủ. Mùi kẹo bạc hà đang nhai khiến cô cảm thấy tuyệt vọng trong căn phòng xây bằng gạch. Cô không chắc là mình đang ao ước hay nuối tiếc cuộc sống tự do hằng khao khát, nhưng nỗi hoài nghi của cô thật khủng khiếp. Cô kết thúc bức thư bằng một hành động kém phần thẳng thắn. Ngay cả những chỗ ngừng nghỉ trong thư cũng có phần mềm mại, như lông lũ mèo đang ngủ.
…Con hy vọng sẽ trở về vào dịp Noel. Con chỉ mong chẳng phải làm gì cả, buổi sáng thức dậy nhìn thấy những bông hoa hồng, loại hoa hồng bạch ấy. Con có trồng một cây con trong cái chậu con mua, đó là một cây ớt cảnh, mặc dù có người gọi nó là cây “táo tình yêu”, thế nào cũng được. Nó lên không tốt lắm, có lẽ nên trồng xuống đất thôi.
Con mong mẹ khỏe mạnh, mẹ thân yêu của con. Mẹ nên gìn giữ sức khỏe. Dạo này bệnh suyễn của con cũng không đến nỗi, trừ những buổi sáng có sương mù, hoặc khỉ con quá mệt. Con làm việc vất vả lắm, mẹ ạ! Đôi khi con đau đầu và có lúc phải tính đến chuyện mang kính đấy, loại kính không gọng thôi. Nhưng con không nên kể lể về mình.
Trong thư trước, mẹ có bảo là nhà bị dột. Quá lụp xụp. Hầu như ai cũng thế, không dột nhà thì lở tường…
Chẳng bao giờ cô biết cách kết thúc một lá thư, và thậm chí hơi lúng túng về việc này, nhưng cuối cùng nàng viết thật nhanh.
Con yêu của mẹ,
Thelma
Rồi cô đọc lại bức thư từ đầu đến cuối, xem thử mình có nói quá nhiều hay quá ít không.
Nếu cô có gợi ý cha mình tới, thì cô chẳng phải một, hai đòi cha mình phải đến, bởi gương mặt trung thực của ông, vẫn làm cho cô lặng thinh lúng túng. Khi viết thư, cô nghĩ đến mẹ nhiều hơn, người mẹ tuy trung thực nhưng giống cô, là một phụ nữ. Cái đạo lý linh hoạt của cô có thể được điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh.
Nhưng Stan Parker đã đến.
Ông không thể không đến được. Thuở ban đầu, còn là một thanh niên, thủa vỡ hoang, ông đã đốn cây mà không có kế hoạch cụ thể nào trong óc cả, nhưng cứ thế ông đốn, bất chấp cả hai bàn tay mình mặc dầu lúc đó chúng đã cứng đờ, lại còn phải dời bao nhiêu tảng đá, song ông và con ngựa đã dốc hết sức lực ra, đến mức cái bụng mềm mại của cả người lẫn ngựa cũng chai cứng như đá, cuối cùng ý chí sắt đá của con người đã thắng đất đá. Chính trong tâm trạng đó Stan Parker, người cha, đã đi xuống thị trấn. Ông chẳng có kế hoạch gì cả. Những điều người ta kể cho ông làm ông lúng túng. Nhưng nếu có cơ hội ông sẽ có đủ nghị lực để đối phó với tình hình, xoay chuyển nó bằng sức mạnh cùng quyết tâm. Ông đinh ninh như thế. Cuối cùng ông đã đẽo được một cái hình dáng và trật tự từ cái hỗn độn mà ông tìm thấy. Ông cũng là người đã tùy hứng tạo nên những đồ vật trung thực bằng sắt và gỗ, chúng tuy thiết kế vụng về nhưng đã tồn tại cho đến ngày nay. Tính giản dị của ông là kim chỉ nam duy nhất của ông trong toàn bộ chuyện này.
Như vậy ông đã đến, chờ đợi ở cửa ngôi nhà gạch của gia đình Bourke, cho đến khi cửa mở; ông nhìn thấy Thelma ở đó.
- Kìa, chào bố, - cô nói. - Con biết thế nào bố cũng đến, nhưng cứ nghĩ là bố sẽ báo cho chúng con biết trước.
Ông trả lời lí nhí, bởi vì đó là một lễ nghi vô giá trị, vật trang sức mà thôi. Sự im lặng chắc hẳn sẽ dạy cho ông cách sử dụng ngôn ngữ nhiều hơn là thực hành chúng.
- Dẫu sao, - cô nói - bố vào nhà đi.
Ông đeo vắt qua người một sợi dây đồng hồ mà cô không nhớ đã nhìn thấy bao giờ, cô cứ nghĩ rằng mình biết tất cả mọi thứ ông có. Trong bộ đồ vải xéc bất tiện ông nom thô cứng; cô nhìn thấy rõ, người bố của cô, ngồi một cách ngượng nghịu nhưng trang nghiêm trên chiếc ghế bọc giả da, giữa bao nhiêu tua và rua trong phòng khách của Lily Bourke. Ông nhanh chóng quyết định đặt cái mũ ở đâu, và đã đặt nó trên sàn nhà cạnh chỗ ông. Cô ngạc nhiên, hơi kinh tởm nhận thấy những sợi lông ở mu bàn tay ông và những sợi lông mũi màu gio. A, - cô ngao ngán nghĩ thầm, - đây là cha mình, người mà mình không biết đến; và cô bắt đầu nói chuyện về những chuyến du hành bằng tàu, về chuyện cơm nước. Cô cũng kể cho ông nghe chuyện một bức tranh sơn dầu cảnh núi non do một bà cô của ông Bourke ở Richmond vẽ khi bà còn trẻ. Cô cũng lạ là sao mình có thể chuyện trò với bố lưu loát đến thế, nhưng rõ ràng là sự xa lạ của ông đã giúp cho việc đó. Cô đang nói với một người đàn ông nhếch nhác nhưng tốt bụng mặc đồ vải xéc, chứ không phải nói với cha mình.
- Có chuyện gì về thằng Ray đấy? - Ông hỏi.
- Đại loại như con đã kể trong thư ấy, - Thelma nói. - Ông Bourke sẽ kể cho bố nghe các chi tiết khi nào ông vào. Bởi vì con chưa bao giờ thích thú cái trò đua ngựa, và sẽ chẳng bao giờ thích thú. Nhưng đoàn thẩm tra vẫn chưa nắm được thực chất của vấn đề. Anh chàng kia đã phần nào phản cung. Con cũng chẳng biết những điều cậu ta nói lúc đầu về Ray do thù hằn hay không. Dẫu sao họ chẳng gán được gì cho Ray, ngoài trừ cái cảm giác là anh ấy phạm tội.
- Thế nghĩa là Ray không phạm tội. - Người cha nói.
- Con đang nhớ một câu chuyện về mấy con chó con, - cô nói rất chậm rãi - về những con chó con đã biến mất. Cái gì thế nhỉ? Chúng ở trong cái lán nơi để chiếc cày. Con không tài nào nhớ lại được.
- Bố không biết. - Ông nói.
Cô đang cố buộc ông phải chấp nhận quy ước thiếu trung thực mà ông không hề theo. Lúc này ông cảm thấy vui mừng là đã không biết con gái rõ hơn. Ông cũng muốn suy nghĩ rõ ràng về thằng con trai ông, và đi đến một quyết định, như người ta vẫn nói vậy. Nhưng sự hiện diện của bàn ghế và đôi mắt cô con gái khiến ông co lại, trong thân thể vụng về và tâm trí đờ đẫn.
- Con cũng muốn nghĩ tốt hơn về anh ấy, - cô nói. - Bởi vì anh ấy cũng có thể là người tốt.
Cảm thấy đó là điều mà cha mình mong đợi, cô bỗng thay đổi chính kiến. Cô những muốn tin. Bởi vì đương nhiên cái tốt là điều người ta mong muốn.
- Trước kia thỉnh thoảng anh ấy có đến đây, - cô nói - và kể về gia đình Quigley, mọi người ở nhà. Một lần anh ấy mang đến cho con một món quà, mấy chiếc bít tất. Con chẳng biết tại sao. Đó là loại đắt tiền.
Như thế là cô đã buộc bản thân phải tin, và cảm thấy buồn, buồn cho chàng thanh niên đẹp trai, anh ruột của nàng, con người đứng bên cửa sổ, mặc áo vét thành thị, ánh sáng từ bức rèm kéo nửa chừng chiếu trên làn da vàng thau.
Nhưng ông bố chẳng muốn tí nào chuyện đó.
- Ray đâu rồi? - Ông hỏi.
Vừa lúc đó Horrie Bourke bước vào, chiếc mùi soa nhét vào cổ áo và khi đã ngồi xuống, Bourke nói:
- Nếu tôi không tin vào chàng trai ấy thì tôi cũng chẳng tin vào bản thân mình nữa.
Ông ta đã già và béo, mạch máu nổi trên mặt, lồ lộ nỗi bất bình vì chuyện đã xảy ra với ông, và nỗi lo sợ một ngày nào đó, sớm thôi, thậm chí ngay ngày mai, ông sẽ bị một cơn đột quỵ. Vì thế lẫn lộn với những giọt nước mắt mà ông rỏ xuống cho người con trai không phải là con ông, nhưng dường như là thế, một người vừa nhận vừa cho quà, là mối căm ghét chàng trai khỏe mạnh kia, chàng trai với cơ bắp cuồn cuộn trong tấm áo lót, đứng cười vang cạnh một đống phân giữa một bầy ngựa ngời ngời, và trâng tráo dọa sẽ tịch biên của cải của ông. Ray bước qua thân hình béo phị của ông khi thân hình đó đang nằm trong sân.
- Dù có dùng chất kích thích hay không, hoặc là tài cưỡi ngựa, thì mấy chàng trai kia cũng đã dính líu vào chuyện đó. Tay nài Tom Schmidt, kẻ cưỡi con ngựa Ngài Murgatroyd cũng chẳng hơn gì bọn kia. Đã có một sự cố ở Toowoomba. Tôi nghe nói thế, tuy chỉ nghe nói thôi. Do vậy hôm nay anh đến đây, phải không anh Stan? - Horrie Bourke nói.
- Vâng - người cha của nàng trả lời.
Ông cụ dịch cặp đùi để nói đôi lời cần thiết. Nhưng không thể được. Ngôn từ và giấy dán tường đã thắng ông.
- Lily sẽ rất vui mừng được gặp anh, - Horrie Bourke nói. - Tôi sẽ nghỉ không đua ngựa nữa. Đó là sở thích của nhà giàu và sự sa đọa của thằng ngốc. Cứ nghĩ mà xem, bắt đầu bằng những con ngựa. Mấy kẻ ăn mày vô tội đến đôi chân của chính chúng còn chẳng chắc chắn nữa là.
Từ sớm Stan chưa tiểu tiện. Cái ý định ấy đã mất đi ở đâu đó. Phải gặp con trai, rồi mọi chuyện sẽ rõ ràng.
- Tôi muốn gặp Ray, - ông nói, giọng to dần, to dần trong gian phòng, cho đến khi làm chủ được nó.
- Vâng, vâng - Horrie nói. - Dĩ nhiên rồi, Lily à, anh Stan đây này. Nhà tôi đau đầu phải nằm nghỉ. Chuyện này làm bà ấy choáng người, giống như mọi người khác.
- Stan, - Lily Bourke nói. - ơ kìa. Tôi vẫn thường nhớ anh đã đánh vỡ cái giá rửa mặt ở Yuruga như thế nào. Mẹ rất tức giận. Nó đi theo bộ, còn miếng đá thì chắc. Và bây giờ đến câu chuyện khủng khiếp này. Anh thay đổi nhiều quá, Stan ạ.
Gương mặt của bà nói với ông rằng nhiều chuyện đã xảy ra trong đời ông, nghĩa là bà không thể tin nó có thể xảy ra trong đời bà. Lily muốn ngồi xuống đọc khuôn mặt của Stan, với một tình cảm lẫn lộn giữa mỉa mai và hối tiếc. Nhưng giống như một người đi dự đám tang, bà luôn luôn nhớ rằng mình phải tỏ ra đau xót.
- Thật khủng khiếp quá - bà thở dài. - Dĩ nhiên Horrie sẽ được giải tội. Sự trung thực của ông ấy không có gì đáng bàn cãi. Nhưng cả hai chúng tôi đều đau khổ, và không thể đền bù được, chẳng có cách nào, những tác hại đối với sức khỏe của chúng tôi, anh Stan ạ.
Bà cần tiền phải không? Bà muốn mơ mộng?
Bà Lily bự phấn, đầu óc đang lơ mơ vì thuốc aspirin, xưa kia là một cô gái có tư tưởng kỳ quặc, nhưng chẳng phải là loại người xấu. Bà có thể chấp nhận những người đàn ông không hỏi han gì cả, bà cũng chẳng bao giờ quyết đoán được gì, lúc nào cũng xoa tay liếc mắt nhìn vào gương soi, đưa ra những câu hỏi hóc búa về món thịt quay. Cô gái nay đã thành bà già vẫn không chắc chắn. Bà có thói quen nhìn đồng hồ đeo tay và băn khoăn không biết đã đến giờ nhấm nháp cái gì chưa.
- Stan à, anh ở lại dùng trà nhé? Chị Amy ngày trước gầy lắm, - bà nói - có thể nhìn thấy rõ hõm cổ và cả khuỷu tay nữa. Chúng tôi vẫn thường bảo gia đình Fibbens được nuôi bằng vẹt và sữa không béo. Nhưng dĩ nhiên đó là cường điệu. Bọn con gái chúng tôi lúc nào cũng thích đùa. Chị Clara tội nghiệp không gặp may. Anh biết chưa nhỉ? Chồng chết và đang túng bấn lắm. Alice thì chết vì một bệnh nan y. Phải rồi, ngày trước chúng ta nhảy khỏe thật. Nhảy đến tận lúc cánh con trai về nhà vắt sữa.
Lily có phần nào dễ chịu đi vì dĩ vãng, vì những vận động và tính muôn màu của nó, cũng có thể vẫn quay cuồng trong gian phòng ấy, mặc kệ chao đèn và tràng kỷ bọc nhung xứ Genoa, nếu khách thuận lòng.
Nhưng ông đã đứng lên và nói:
- Tôi đến đây để gặp Ray. Nó ở đâu?
- Ồ! Cả hai trả lời. - Vâng.
Bởi vì cú sốc đối với thế giới của họ đã tạo nên một sự va chạm thực sự giữa các tinh cầu.
Rồi Horrie Bourke thông cảm cho sự tan vỡ này và nói:
- Chúng tôi không biết cậu ấy ở đâu cả, anh Stan ạ.
- Anh ấy đã biến mất - Thelma nói, sờ cái gấu váy.
Stan đứng sững. Chẳng có gì để đặt bàn tay lên, trừ phi nó là gỗ hoặc sắt, chứ không phải là những động cơ của kẻ khác.
Họ nói ông có thể hỏi thăm, nhưng chắc gì đã được. Bernie Abrahams, tay bán vé đã thuê Ray, chẳng thích thú gì toàn bộ chuyện này và cũng chẳng nói gì nhiều. Còn thằng Curly, hắn có trở lại lấy đôi giày vải để quên, nhưng hắn không biết và sẽ chẳng biết gì về Ray. Trước đây Ray sống ở tầng trên một cửa hiệu ở một phố nào đó, họ có ghi lại vào một mẩu giấy, để trong ngăn kéo.
- Đây rồi - Lily nói, giơ tờ giấy lên và đọc. - Phố Highclere, Surry Hills.
Đó là một cửa hiệu của tụi Latinh, và cậu ta từng nói đến mấy cô gái, một đứa còn bé. Tên chúng là Rose và Jean.
- Thế thì tôi sẽ đi hỏi xem - Stan Parker nói.
Tất cả người trong phòng đều nhất trí là ông nên làm như thế.
- Ray đã bị cảnh cáo rồi anh Stan ạ. - Horrie Bourke nói.
Như một ẩn ý. Vì Ray đã đi rồi. Chỉ còn lại sức khỏe và danh dự của Horrie.
- Thật kinh khủng cho mẹ hắn - Lily thở dài. - Chị Amy nhận tin này thì thế nào, anh Stan?
Ông lí nhí trong miệng, bởi vì ông không biết, bởi vì đến lúc ấy, khi vợ ông đọc những lời ấy, thì ông đang sống trong chúng.
Thelma bước đến và đưa ông ra, sau khi đã đi trở lại lấy chiếc mũ ông để quên trên thảm.
- Con xin lỗi bố, - cô nói, coi việc ấy như việc của ông. - Con sẽ đi với bố nếu con cho như thế là có lợi.
Rồi cô hôn ông, và cảm thấy thích thú được làm một đứa con gái trìu mến như một điều mới mẻ thoáng qua. Cô nghĩ thầm da của ông sao xa lạ với mình đến thế.
Stan nhận cái hôn của cô rồi đi. Ông muốn đi tìm Ray bây giờ. Ông rất tin tưởng vào đôi chân và sức mạnh dẻo dai của mình. Ông lên tàu điện khi có người gợi ý. Ông đi qua các phố. Một vài người chỉ dẫn cho ông tỉ mỉ, chính xác giống như loài kiến, như thể họ tiếp nhận ông một cách tin tưởng vào thế giới kiến của họ. Những người khác hối hả đi qua đường nhựa, trừng mắt nhìn ông, xua đuổi ông. Ông bảo với một người đàn ông là mình đang đi tìm con trai, hiện ở trên một cửa hiệu hoa quả ở phố Highclere, nhưng người ấy thắc mắc không hiểu người khách lạ này có điên không mà lại phơi trần mình như thế ở ngã tư.
Và cứ thế Stan Parker tiếp tục đi qua đường nhựa. Một lần ông ngỡ rằng Ray đang nhìn ông từ một cửa sổ, nhưng rõ ràng là ông nhầm. Một thiếu phụ đang ướm một tấm vải lên ngực kéo vội rèm xuống. Trên một phố khác, hai xe ô tô lao vào nhau, nghiền nát những người trong xe. Ông tiếp tục đi, buồn rầu nghĩ rằng cái động lực chạy đến cứu giúp họ đã bị tước khỏi ông; trên đường quê, mọi việc sẽ khác hẳn. Bây giờ, ông không nhìn mọi người chung quanh nữa mà chỉ nhìn cái biển ghi tên các đường phố đóng đinh ở các góc. Ông tiếp tục đi, qua một đám rau quả nát nẫu, báo cũ và dụng cụ tránh thai.
Tại một nơi dường như là đường phố cuối cùng ông có thể lọt tới, bây giờ hoặc mãi mãi, một người đàn ông đang nằm trong cống rãnh. Đây là phố Highclere, ông đọc. Ông bắt đầu tìm, và tìm ra hiệu hoa quả, cửa hiệu đã đóng.
Một cửa sổ của cửa hiệu sơn màu xanh lục không nhìn thấy gì, còn cửa sổ kia bít kín lên, đến nỗi việc sử dụng nó dường như khó hiểu nếu không có mùi hoa quả để lâu bốc ra, một mùi ngọt đậm của một trái cây màu nâu đã rữa. Trên cửa ra vào có một chiếc khóa, nhưng ngay lúc đó, một cô gái từ cửa sổ bên trên nhìn xuống, rồi một cô gái tương tự, tuy trẻ hơn, cả hai mặc chiếc áo len màu mà có lẽ tự đan lấy. Hai cô nhìn xuống. Đó là hai chị em. Cả hai cùng màu da xanh xao. Mũi rất xinh.
- Chào ông, - cô lớn tuổi hơn nói, hẳn đó là Rose. - Ông tìm ai thế?
- Tôi đang tìm Ray Parker, - người đàn ông vừa đến nói.
Hai cô nhìn xuống lớp quần áo dày cứng như dính vào người ông một cách ngẫu nhiên. Mũi của hai cô gái xanh xao phổng lên, e sợ rằng đây là một loại cây đặc biệt trung thực.
Cô gái tên Rose lầu bầu. Jean ngắm nhìn. Đôi mắt cô thường xuyên nhìn những cảnh sống mà bất kỳ lúc nào cô cũng có thể bị lôi vào. Song vẫn chưa. Đó là cuộc sống của chị gái cô.
- Tôi là bố nó, - người đàn ông nói.
Gương mặt màu da thuộc của ông nhìn lên, như muốn thề thốt với hai cô gái.
- A! - Rose nói.
Cô em, Jean, đến sát hơn, hất mớ tóc ra phía sau tai và sẵn sàng nghe chuyện suốt ngày.
- Ray không có ở đây - Rose giận dỗi nói.
- Tôi đến thăm nó, - người đàn ông nói. - Tôi từ Durilgai đến, đi chuyến tàu sớm. Có lẽ tối nay tôi có thể sẽ trở về. Không phải để vắt sữa. Nhưng tôi có thể sẽ về.
Rose lắng nghe những điều không thể tin được. Nhưng cô không nói gì. Ngón tay cô như đang bắt mạch cho ngôi nhà bị ốm.
- Cô bảo giùm nó. - Khuôn mặt ngẩng lên của người đàn ông thở ra.
- Tôi không bảo được đâu, - cô rầu rĩ. - Ray đã đi rồi.
- Đi đâu? - Gương mặt tuyệt vọng của người đàn ông hỏi.
Thế rồi cô gái đang lắng nghe bỗng gập người lại. Cô bắt đầu cười khúc khích. Cô bắt đầu cười ầm lên. Cô cười và che mặt lại, vùi sâu vào da thịt bên hông cô chị.
Rồi đến Rose cũng cười vang. Nhưng là tiếng cười sâu, bình thường, ục ục, phát ra qua những chiếc răng ngắn.
- Nói giùm tôi, - ông van xin.
Ông cũng cười, nhưng chậm hơn, ngập ngừng như thể ông vẫn chưa nắm được toàn bộ ý nghĩa của câu chuyện bông đùa. Mặt trời tỏa sáng trong mắt ông.
- Ở đâu? - Ông nói, giọng kém mạnh mẽ.
- Ở trên miền Bắc ấy. - Rose nói, giọng the thé và đưa tay vẫy về một nơi nào đó.
Nhưng Jean mở hai hàm răng, nói từng cơn khô khan, kinh sợ:
- Ông ơi, đừng nghe chị ấy. Ray đã đi về phương tây. Thành thật đấy.
Cô chỉ có thể nói thế. Cô rất trẻ và người luôn co giật, toát mồ hôi vì đã tham gia. Rồi nàng rút lui vào ngôi nhà hoa quả nẫu.
Sau đó Stan Parker đứng ngoài đường với những khuyết điểm và thiếu sót. Bây giờ ông biết mình chẳng thể nào gặp được Ray. Ông chẳng còn cảm thấy mạnh mẽ nữa. Gương mặt của ông đau đớn vì cái vẻ trẻ trung và lạnh lùng phải cố tạo với hai chị em đang bị khóa trong phòng kia.
Phía sau, sau nhiều phố, từ hướng ông đi tới, một bà cụ đưa cho ông xem một túi mận bà vừa mua.
- Này, - bà nói. - Khi tôi mua những quả mận này, chúng vừa to vừa thơm. Dầu sao đi nữa chúng cũng chưa tệ. Còn bây giờ hãy xem những thứ còi cọc này!
Nỗi căm giận khiến bà bước cạnh người lạ mặt.
- Chẳng ra sao cả, - bà nói, răng chuyển động. - Người ta ai cũng thế.
Ông đồng ý, vì ông chỉ có thể làm được thế.
Bà cụ vẫn bước. Bà bắt đầu kể lể về con trai bà. Anh ta là thợ mỏ.
- Cậu ấy có ổn không? - Ông hỏi với một nụ cười ngốc nghếch.
- Cũng được - bà nói, nhìn đi chỗ khác. - Một số người có thể có những ý nghĩ khác về sự thật là gì. Thế thôi.
Rồi bà bỏ đi, như thể không còn cần biết người lạ mặt nữa, ông thấy bà ném cái túi giấy đựng những quả mận còi xuống cống.
Ta mất phương hướng rồi, ông nhận thấy vậy. Ông tiếp tục đi, dò dẫm trong trạng thái vô hình, vô hiệu, trong đó cuộc đời ông kết thúc. Tuy ông có được thói quen đọc những câu kinh đơn giản, và thành khẩn tin ở Chúa, nhưng ông vẫn chưa đủ tự tin vào bản thân để tin vào sự hữu hiệu của điều này hoặc những điều khác. Sự giản dị của ông vẫn chưa nhận được sự rõ ràng và sức mạnh cuối cùng kia, cái có thể công nhận sự vô biên của lòng tin.
Vì thế, thay vì cầu kinh, ông bước vào một quán ăn và gọi một đĩa thức ăn.
Đó là một quán ăn Tàu. Khi người ta mang đĩa sườn đến, ông ngồi nhìn hay đặc biệt nhìn vào những miếng sườn to trên những đốt ngón tay bất động của ông.
- Ông có điều gì bực mình chăng? - Một thanh niên Trung Quốc hỏi, đến cạnh ông và sắp xếp lại dao thìa theo kiểu khác.
- Không. - Stan nói.
- Có ai đó chết - người thanh niên Trung Quốc nói, khẳng định hơn là hỏi, với một giọng của thế hệ thứ hai cao và phô trương.
Rồi anh ta đi, và bắt đầu làm con tính cộng, tính đi tính lại trên giấy, khuôn mặt Trung Quốc của anh ta nom sáng sủa, trung thực, mặc dù giọng anh ta cao và phô trương.
Thế là Stan Parker ngồi ở đấy và thấy rằng mình phải về nhà. Ông chẳng còn gì nữa để làm trong cái thành phố này.
Sau mấy ngày ông trở về. Cô con gái Thelma tiễn ông ra ga. Lúc ấy còn sớm, cô mặc quần áo đi làm, váy màu ghi, áo sơ mi trắng, vẻ quan trọng của cô không hề giảm sút khi cô lắc cổ tay áo và nhìn móng tay sạch sẽ của mình, vẻ thành đạt của cô khiến ông hơi lóng ngóng, song ông cảm thấy hãnh diện được đi cùng cô. Ông bước cạnh cô, lắc lư cái túi Gladstone cũ mà ông tìm thấy trong nhà mẹ mình lúc bà chết, nhưng ông không biết nó là của ai, cũng chẳng thấy ai dùng. Cái túi cứng và thô, mặc dù ông đã thêm một lớp xà phòng tẩy đồ da trước khi đi.
- Cái túi cũ nom buồn cười quá, - Thelma cười vang, khiến nó nom lạ lẫm, nếu không thì trông đến khiếp. - Bố cho quần áo vào mà không cuộn tròn sao?
- Miễn là đựng được, - ông nói.
Bỗng nàng cảm thấy phải nói điều gì thân mật, âu yếm với bố, nhưng viễn cảnh đó quá khủng khiếp với cô. Vì thế cô nói bằng một giọng cả quyết:
- Hình như ta đến sớm quá.
Ông đưa cô vào một cửa hiệu và nàng chưa kịp cười ông hoặc phản đối thì ông đã mua cho cô một cái kem ốc quế.
- Con có phải ăn thứ này không? - Cô hỏi.
- Sao lại không? - Ông nói. - Ngày trước con vẫn thích ăn kia mà.
Mình từng thích, ký ức cô vọng lại, mình đã mút món quà trẻ con này, trên cái ốc quế. Cô không muốn khóc, nhưng cô bị buộc phải khóc. Nó nằm trên cổ họng cô, cái lạnh trên cái nóng. Vào những buổi sớm mai u ám, cô thức giấc nghe tiếng hoa đèn nổ lách tách và tiếng gáy không tài nào chịu nổi của gà trống dự đoán tương lai với một niềm tin sầu não vào quá khứ.
- Khi con còn bé tí, - ông nói - con vẫn thích kem.
- Sao bố cứ nhắc đi nhắc lại mãi thế! - Cô nói. - Bố nghe đây, về Ray, đối với bố điều ấy khủng khiếp thật, con thấy rõ, nhưng anh ấy chẳng tốt tí nào.
- Quá sớm, - ông nói - để nói ai tốt ai xấu.
Thế là cô đã không xua đuổi được ông anh trai.
- Con không thể giải thích được, - cô nói.
Nàng ngờ vực sự giản dị, muốn tránh nó hoàn toàn, vì thế nàng vui mừng khi họ đến chỗ đoàn tàu hỏa, đã đến lúc hôn tạm biệt.
- Chào con, - ông nói và hơi đỏ mặt vì người thiếu phụ mình đang hôn; vừa là con gái vừa không.
Con cái của ông, đã rời xa. Hơi nước bắt đầu tỏa khắp ga, giống như những hạt giống màu xám. Điều không thể tin được hình như đã trở nên tự nhiên hơn, hay có lẽ đây là chuyện trở về nhà.
Thelma ngắm nhìn bố rời đi. Cô đã trở lại cuộc sống của mình. Đó là điều tàn nhẫn nhưng cần thiết. Cô đi dọc sân ga và bước xuống bậc cấp. Cô đã thuê được một phòng trong ngôi nhà của bà vợ góa của một ông bác sĩ, chẳng bao lâu nữa sẽ bắt đầu sống ở đấy, cụ thể là tuần sau; đã thỏa thuận rồi, dĩ nhiên được sử dụng bếp và buồng tắm. Thelma Parker lên tàu điện. Nếu hình như cuộc đời của cô bắt đầu ngưng đọng, thì cũng chẳng cần thiết phải nói về điều ấy. Chuyện đó hoàn toàn của riêng cô. Được lâng lâng trong buồng tắm của bà góa vợ ông bác sĩ, trong những đợt sóng của đàn hương và tử đinh hương, tại một ngoại ô yên tĩnh.
Stan Parker tiếp tục hành trình về nhà. Ông cảm thấy chút tội lỗi nhẹ nhàng khi nhìn những đường nét địa lý quen thuộc. Ông biết rõ cảnh quan, biết kỹ hơn những gương mặt con người, đặc biệt là những đứa con ông. Người ta biết trẻ con qua người mẹ, ông tự nhủ. Ông cũng thích kiểu đó. Nhưng nỗi bất hạnh của ông ít gây khó chịu hơn, con tàu tiết lộ. Từ Bangalay ông đi xe buýt băng qua những ngọn đồi đến Durilgai. Ở đây, ông xuống xe và đi xuyên qua các cánh đồng. Đôi khi ông chọn một lối đi cô quạnh hơn, bước chậm rãi qua đám cỏ vàng và những cây đen sì, nhìn quanh quẩn như thể mình là một người xa lạ ở đó, ngắm nhìn những mảnh vỏ cây rơi - một điều bí hiểm vĩnh hằng. Rồi sự dốt nát của người đàn ông đã đổi thành tri thức. Lớp da khô ráp của ông trở nên trong suốt dưới ánh sáng kia.