Số lần đọc/download: 1946 / 89
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:17 +0700
XIV: Sự Trở Lại Của Cô Độc
B
ụi cùng những tơ vải khiến Dina hắt hơi khi cô lau dọn lại phòng may và phân loại vải thừa. Luồng hơi thở ra thổi bay những vụn vải nhỏ. Lô váy cuối cùng đã chuyển đến công ty Au Revoir, và bà Gupta đã được thông báo về kì nghỉ dài sáu tuần.
Lúc này, Dina chờ đợi cảm giác trống vắng sắp ập với vẻ hiếu kì. Giống như một giai đoạn làm quen lại với cô độc vậy, cô nghĩ. Đó sẽ là một bài tập tốt. Không có thợ may, không có khách trọ, còn lại một mình với những kí ức, lật giở lại từng chút một, săm soi nghiền ngẫm như một bộ sưu tập tiền xu, để xem xét độ sáng bóng hay mờ xỉn cùng những đường rập nổi. Nếu cô quên mất cách chung sống với nỗi cô đơn, rồi đến một ngày, việc đó sẽ trở nên khó khăn đối với cô.
Cô xếp riêng những mảnh vải đẹp nhất dành cho tấm chăn, nhồi đống vụn còn lại vào ngăn kéo dưới cùng. Hai chiếc máy Singer được kê gọn vào một góc còn ghế đẩu chồng lên trên, nhờ thế xung quanh chiếc giường có thêm nhiều khoảng không hơn. Chiếc rương của hai người thợ may, được gói ghém xong xuôi và đã sẵn sàng, đứng ngoài hành lang. Những thứ họ không mang theo được đựng trong các thùng các tông.
Chỉ còn hai ngày nữa là đến lúc lên đường và lại chẳng còn việc gì làm, những giờ đồng hồ trôi qua mang một vẻ gì đó thật kì dị đối với họ, lỏng lẻo và rời rạc, như thể những đường may đã đứt chỉ, chiếc lều thời gian thoắt xẹp, thoắt phồng.
Sau bữa cơm tối, Dina quay lại may tấm chăn. Ngoài một khoảng hụt chừng mấy chục phân vuông ở một đầu, tấm chăn đã đạt đến kích cỡ cô mong muốn, mét tám nhân hai mét. Om ngồi trên sàn nhà, xoa bóp bàn chân cho bác cậu. Nhìn họ, Maneck tự hỏi không biết cảm giác được mát xa chân cho bố sẽ như thế nào.
“Tấm chăn này trông đẹp thật, chắc luôn,” Om nói. “Chắc đến khi nhà cháu quay trở lại thì cũng xong rồi.”
“Có thể, nếu tôi thêm vào mấy mảnh vải còn thừa từ những đợt hàng trước kia,” cô nói. “Nhưng lặp lại thì nhàm lắm. Tôi sẽ chờ đến khi có vải mới.” Họ cầm hai đầu tấm chăn và trải rộng ra. Những đường may gọn ghẽ đan chéo nhau như những đội quân kiến hành quân đối xứng.
“Đẹp quá,” Ishvar xuýt xoa.
“Ôi dào, ai chẳng may được chăn,” cô khiêm tốn nói. “Chỉ toàn vải vụn, từ các thứ quần áo hai người đã may ấy mà.”
“Phải, nhưng cái khó là phải có tài năng khi ghép các mảnh với nhau, như cô đã làm.”
“Xem này,” Om chỉ, “nhìn miếng vải kia kìa – chính là từ súc vải pô pơ lin trong đơn hàng đầu tiên chúng ta làm.”
“Cậu vẫn nhớ à?” Dina nói, giọng hài lòng. “Hồi đó hai bác cháu may xong lô váy đầu tiên nhanh kinh khủng. Tôi cứ tưởng mình vừa tìm thấy hai thiên tài.”
“Bụng đói, đầu gối phải bò mà lị,” Ishvar cười khà khà.
“Rồi đến loại vải trúc bâu màu vàng sọc cam. Và anh chàng trẻ tuổi kia đã làm tôi khốn khổ biết mấy. Động tí là cãi vã vùng vằng.”
“Cháu? Cãi cọ á? Không đời nào.”
“Cháu nhận ra miếng vải hoa xanh và trắng đấy,” Maneck nói. “Lấy từ mấy chiếc váy hai người đang may dở đúng vào ngày cháu dọn đến.”
“Cháu có chắc không?”
“Chắc chứ, đấy là ngày chú Ishvar và Om không đến làm – họ bị bắt cóc để đi dự cuộc mít tinh cưỡng bức của thủ tướng.”
“Ô, phải rồi. Thế cậu còn nhớ miếng vải voan đẹp đẽ này không, Om?”
Cậu tái mặt và vờ như không nhớ gì cả. “Cố lên, thử nghĩ lại xem,” cô khuyến khích. “Làm sao cậu có thể quên được? Đây chính là miếng vải bị vấy máu của cậu, khi cậu cắt kéo trúng ngón tay cái ấy.”
“Cháu không nhớ vụ đó,” Maneck nói.
“Việc đấy xảy ra trong tháng ngay trước khi cháu đến. Còn cái loại vải the này ngộ thật, làm Om đến phát điên phát rồ lên. Rất khó ghép khớp họa tiết, vải trơn quá mà.”
Ishvar rướn người tới để chỉ vào một ô vuông vải lanh. “Mọi người thấy cái này không? Nhà của chúng tôi đã bị chính phủ phá mất vào đúng hôm chúng tôi bắt đầu may loại vải này. Cứ nhìn nó, tôi lại thấy buồn.”
“Lấy cho tôi cái kéo,” cô đùa. “Để tôi cắt bỏ nó đi.”
“Không không, cô Dina, cứ để nguyên thế, trông đẹp mà.” Những ngón tay của ông vuốt ve lên mặt chất vải lanh, hồi tưởng những ngày nào. “Gọi nó là mảnh buồn thật vô nghĩa. Đây này, nó được nối với một mảnh vui – ngủ trên hành lang. Và mảnh tiếp theo – bánh chapati. Rồi đến miếng vải tuýt xi tím này, hôm ấy chúng ta làm chả đỗ chay và bắt đầu nấu ăn cùng nhau. Và đừng quên ô vải nhiễu gioóc-giét này, đó là lúc Ông trùm ăn mày cứu chúng ta khỏi tay bọn đầu gấu của lão chủ nhà.”
Ông bước lùi lại, cảm thấy tự hài lòng với chính mình, như thể ông vừa làm sáng tỏ một định lý phức tạp. “Thế nên, đấy chính là quy tắc cần ghi nhớ, cả tấm chăn quan trọng hơn nhiều so với bất kì ô vải đơn lẻ nào.”
“Hay, hay!” Hai cậu trai đồng thanh reo lên cùng một tràng vỗ tay.
“Câu nói thông thái thật,” Dina nói.
“Nhưng đấy là triết học hay ‘làm bộ học’ thế bác?” Ishvar bèn vò đầu thằng cháu để trả đũa.
“Giời ạ, thôi, cháu còn phải giữ gìn bộ mã cho đám cưới nữa chứ.” Om lôi cây lược ra và rẽ ngôi, chải tóc cho bồng bềnh trở lại.
“Mẹ cháu từng nhặt nhạnh các mẩu dây vụn và nhồi thành một quả bóng,” Maneck nói. “Hồi cháu còn bé, hai mẹ con hay chơi một trò, ấy là moi ruột bóng ra và cố nhớ xem mỗi mẩu dây có xuất xứ từ đâu.”
“Ta hãy thử trò chơi đó với tấm chăn này xem,” Om rủ. Cậu và Maneck tìm đến mảnh vải cũ nhất và rà qua từng mảnh theo trình tự thời gian, tái dựng chuỗi tai ương và chiến thắng của họ, cho đến khi đi tới góc chăn chưa hoàn thành.
“Ta bị tắc ở góc thiếu này rồi,” Om nói. “Cùng đường rồi.”
“Hai đứa sẽ phải đợi thôi,” Dina nói. “Tất cả còn tùy thuộc vào việc chúng ta được nhận loại vải nào cho lô hàng tiếp theo.”
“Ai chà, thưa hai cậu, hai cậu phải kiên nhẫn thôi. Nếu hai cậu muốn đặt tên cho cái góc ấy, tương lai của chúng ta phải trở thành quá khứ trước đã.”
Những lời bâng quơ của Ishvar dội xuống đầu Maneck như một cơn mưa lạnh toát; niềm vui của cậu tắt ngóm chẳng khác nào một ngọn đèn. Tương lai đang trở thành quá khứ, tất thảy tan biến vào hư không, và khi quay lại cố níu giữ điều gì đó, rốt cuộc người ta chỉ giật lại được – cái gì đây? Một mẩu dây, một vuông vải, những bóng ma của một thời vàng son. Giá như con người có thể đảo ngược vòng trời đất, biến quá khứ thành tương lai, và giữ chặt đôi cánh của nó, giữa hành trình rong ruổi trên dòng chảy không ngưng nghỉ của hiện tại…
“Hai đứa có nghe không đấy?” Dina hỏi. “Trí nhớ của hai đứa tốt đến đâu? Liệu hai đứa có nhớ được mọi chuyện đã xảy ra trong vòng một năm qua mà không cần nhìn vào tấm chăn của dì không?”
“Cháu có cảm giác phải dài hơn một năm ấy,” Om nói.
“Đừng ngốc thế,” Maneck nói. “Ngược lại thì có.”
“Hô hô,” Ishvar cười. “Thời gian thì làm sao dài hay ngắn được? Thời gian chẳng có chiều dài hay chiều rộng gì sất. Vấn đề là, việc gì đã xảy ra khi nó trôi qua. Và việc đã xảy ra là, cuộc sống của chúng ta đã được nối làm một.” “Như những vuông vải này này,” Om nói.
Maneck nói tấm chăn không nhất thiết phải hoàn thành khi góc khuyết đã được bổ sung. “Dì có thể may rộng ra thêm, dì ạ, cho thành một tấm chăn thật to vào.”
“Đấy đấy, anh chàng này lại nói năng lảm nhảm rồi,” Dina nói. “Dì biết làm gì với một tấm chăn khổng lồ như thế? Đừng có nhầm dì với ngài Thượng Đế may chăn của cháu.” Đến giữa buổi sáng, Dina trở nên lặng lẽ. Các công việc dính đến nước nôi đã hoàn tất, bát đĩa từ tối hôm trước đã được rửa sạch. Thiếu tiếng chuyện trò cùng tiếng lạch xạch của hai chiếc máy Singer, khoảng thời gian còn lại của ngày kéo dài lê thê. Cô ngồi xuống và nhìn Maneck ăn bữa sáng muộn.
“Lẽ ra dì nên đi cùng chú Ishvar và Om,” cậu cố gợi chuyện cho cô vui lên. “Dì có thể giúp họ chọn cô dâu.”
“Cháu giễu dì đấy à?”
“Không, cháu chắc chắn họ sẽ rất vui sướng nếu được dẫn dì đi cùng. Dì có thể tham gia vào Hội đồng tuyển chọn cô dâu.” Cậu bỗng mắc nghẹn bánh, khổ sở mãi không nuốt trôi được.
Cô vỗ lên lưng cậu cho đến khi cơn nghẹn qua đi. “Không ai dạy cháu không được nói lúc đang ăn à?”
“Đấy là chú Ishvar hiện về trong họng cháu đấy,” cậu toe toét cười. “Trả thù vì cháu dám lấy việc đại hỉ của chú ấy ra làm trò cười.”
“Tội nghiệp chú ấy. Dì chỉ mong chú ấy biết mình đang làm gì. Và dì hi vọng là dù họ chọn ai, cô ấy sẽ cố gắng hòa nhập, chung sống êm ả với tất cả chúng ta.”
“Cháu tin là cô ấy sẽ như thế. Om sẽ không lấy một cô vợ xấu tính hay khó gần đâu.”
“Ôi, dì biết chứ. Nhưng có thể cậu ta sẽ không được quyền lựa chọn. Trong những đám cưới sắp đặt kiểu này, các thầy chiêm tinh và gia đình họ hàng mới là người quyết định mọi thứ. Sau đó người phụ nữ trở thành tài sản của gia đình nhà chồng, để người ta tha hồ bóc lột và hà hiếp. Đấy là một chế độ kinh tởm, biến những cô gái đáng yêu nhất thành những mụ phù thủy. Nhưng có một điều cô ấy sẽ phải hiểu, đây là nhà của dì, cô ấy phải theo nề nếp của dì, như cháu và chú Ishvar và Om. Nếu không, chung sống sẽ là việc bất khả thi.”
Cô ngưng bặt, nhận ra mình đang nói năng không khác gì một bà mẹ chồng. “Thôi, ăn nốt miếng trứng kia đi,” cô đổi chủ đề. “Kì thi hết năm của cháu bắt đầu vào ngày mai phải không?”
Cậu vừa nhai vừa gật đầu. Cô bắt tay vào dọn dẹp bữa sáng. “Và năm ngày sau đó cháu sẽ lên đường. Cháu đã đặt vé chưa?”
“Rồi ạ, xong hết rồi,” cậu nói, đoạn nhặt nhạnh sách vở để chuẩn bị lên thư viện. “Và cháu sẽ sớm quay lại, dì đừng đem phòng của cháu cho ai thuê nhé.”
Thư tới, cùng một chiếc phong bì do bố mẹ Maneck gửi. Cậu mở ra, đưa tờ séc tiền nhà cho Dina, rồi đọc lá thư.
“Dì hi vọng mẹ… với bố cháu đều khỏe cả chứ?” Cô nói, khi thấy gương mặt cậu hơi sầm xuống.
“À vâng, mọi việc vẫn bình thường. Cũng như mọi khi. Bố mẹ cháu lại bắt đầu kêu ca than thở rồi đây. Họ bảo: ‘Sao con phải đi học đại học thêm những ba năm làm gì? Chi phí thì chẳng thành vấn đề, nhưng bố mẹ sẽ nhớ con lắm. Mà công việc ở cửa hàng nhiều quá, bố mẹ không kham nổi, con nên cáng đáng dần đi.’” Cậu đặt lá thư xuống. “Nếu cháu quyết định quay về thật, thế nào cũng lại cãi vã rồi quát tháo suốt ngày với bố cháu thôi.”
Cô thấy nắm tay của cậu siết lại, và bóp nhẹ lên vai cậu. “Bố mẹ cũng hoang mang trước cuộc sống như tất cả mọi người thôi. Nhưng họ vẫn rất cố gắng.”
Cậu đưa cô lá thư, và cô đọc nốt phần còn lại. “Maneck, dì thành thật nghĩ cháu nên làm việc mẹ cháu đề nghị – đi thăm gia đình Sodawalla ấy. Cả một năm vừa qua, cháu còn chưa gặp họ lần nào.”
Cậu nhún vai, nhăn mặt và bỏ về phòng. Khi cậu bước ra, cô nhìn thấy dưới nách cậu kẹp một cái hộp. “Cháu mang cả bộ cờ đến trường à?”
“Cái này không phải của cháu. Của một anh bạn. Cháu định trả lại luôn hôm nay.”
Trên đường đi ra bến xe buýt, cậu cứ ngẫm nghĩ mãi về lá thư – mớ bòng bong của bố, nỗi đau của mẹ, bao nhiêu hoang mang, bao nhiêu sợ hãi của họ quặn thắt trong từng con chữ. Nhỡ họ thực lòng nghĩ thế thì sao? Có lẽ lần này mọi chuyện sẽ ổn thỏa, có lẽ một năm thật sự đã giúp bố dần thích nghi với những biến động trong cuộc sống của ông.
Cậu đi vòng qua Vishram để vẫy chào Shankar. Lão ăn mày không nhìn thấy cậu, lão lơ đễnh cúi gằm đầu và nhìn chằm chằm dọc vỉa hè tới chỗ góc phố. Maneck cúi xuống, vẫy tay lần nữa, và Shankar chào lại cậu bằng cách gõ chiếc ống bơ lên mặt bệ lăn. “Chào cậu lớn, cậu có khỏe không?
Hai anh bạn của tôi lên đường bình an chứ?” “Hôm qua,” Maneck đáp.
“Họ sướng thật. Còn hôm nay cũng là một ngày sung sướng đối với tôi. Tay thợ cạo của Ông trùm sẽ đến cạo râu cắt tóc cho tôi. Nhưng tôi ước sao Ishvar với Om có ở đây. Họ sẽ rất khoái nếu được nhìn thấy cái mặt tôi lúc làm xong.” “Tôi sẽ đến, đừng lo. Mai gặp lại bác nhé,” Maneck nói, và tiếp tục đi ra bến xe.
Đôi mắt Shankar dõi theo Maneck cho đến khi cậu biến mất sau góc phố, rồi tiếp tục ngóng ngả chờ tay thợ cạo. Chiếc bệ đứng bất động bên lề đường. Cái ống bơ xin tiền vẫn trống không, bài hát xin tiền cũng im ắng. Shankar tịnh không làm gì để thu hút sự chú ý của những kẻ bố thí. Tất cả những gì lão có thể nghĩ được là chầu làm đẹp xa xỉ, gói chăm sóc toàn diện đắt tiền đang chờ đợi lão dưới bàn tay của gã thợ cạo riêng của Ông trùm.
Shankar không biết một điều, rằng từ sáng sớm hôm đó, gã thợ cạo riêng đã từ chối nhiệm vụ. Công việc vỉa hè là thứ anh ta không đụng đến, anh ta nói với Ông trùm. Thay vào đó, anh ta đã giới thiệu một người khác. “Đây là Rajaram.
Anh ta rất giỏi và rất rẻ, làm chuyên việc vỉa hè.” “Chào ông,” Rajaram nói.
“Nghe đây,” Ông trùm nói. “Shankar chỉ là một gã ăn mày thật, nhưng tôi yêu quý ông ấy vô cùng – tôi muốn những gì tốt nhất cho ông ấy. Không phải nói xúc phạm anh đâu, nhưng tôi không thể không nghi ngờ năng lực của anh được. Một người trọc thì phỏng biết mấy thứ về tóc tai chứ?”
“Đấy không phải là một câu hỏi hợp lý,” Rajaram nói. “Một gã ăn mày có sở hữu rất nhiều tiền không? Không. Thế mà anh ta vẫn rất biết cách làm tiền đấy thôi.”
Ông trùm thích câu trả lời đó, và đã chấp thuận. Và như thế, chính Rajaram là người bước tới phía ngoài Hotel đồ chay Vishram, với bộ dụng cụ thợ cạo dắt sẵn bên hông.
Shankar nghĩ lão đã thấy gã này ở đâu đó. “Ông lớn à, tôi đã gặp anh bao giờ chưa?”
“Đời tôi chưa nhìn thấy lão bao giờ,” Rajaram đáp, ám ảnh bởi mối quan hệ tóc giữa đôi bên, và chỉ mong rũ bỏ nó. Nấn ná ở thành phố là rất mạo hiểm, anh ta biết vậy, nhưng anh ta đã kết luận sẽ là an toàn hơn nếu thực hiện hành trình tới dãy Himalaya trong trang phục của một thiền sư. Thế nhưng, áo cà sa và tràng hạt cùng một chiếc bát khất thực bằng gỗ khắc tay đâu có rẻ rúng gì; món thù lao của Ông trùm cho công việc đặc biệt này chắc chắn sẽ đỡ được ít nhiều.
Anh ta buộc một tấm khăn trắng quanh cổ lão ăn mày và dùng cây chổi cạo mặt đánh bông một cốc bọt xà phòng. Shankar nghiêng đầu về phía cốc để hít hà mùi thơm, suýt chút nữa thì mất thăng bằng. Rajaram đẩy lão lại. “Ngồi im,” anh ta nói bằng giọng cộc cằn, những mong tiêu diệt mọi ý định chuyện trò.
Sự cộc cằn là món thường ngày với Shankar, và không thể dập tắt bản tính vui tươi của lão. “Trông y như bánh kem ấy nhỉ,” lão nói khi lớp bọt dâng đầy trong cốc.
“Sao lão không ăn luôn một bát đi?” Rajaram vuốt ướt phần hàm và trát xà phòng lên. Những cú phết bất cẩn tọng ít bọt kem vào cái mồm đang há hốc của Shankar. Rajaram lụt nghề đến độ, anh ta còn quên bóp kín hai lỗ mũi khi phết bọt phần môi trên. Anh ta mở dao cạo và bắt đầu liếc lưỡi dao sáng loáng lên dây da.
Shankar thích nghe âm thanh rin rít đó. “Anh đã bao giờ bị lỡ tay khi cầm dao chưa?” Lão hỏi.
“Bị nhiều rồi. Cổ họng nhiều người có hình thù kì quặc lắm, động tí là rách da chảy máu. Mà cảnh sát thì không được bắt thợ cạo vì tai nạn nghề nghiệp, luật nó thế.”
“Anh đừng lỡ tay với cổ họng của tôi nhé, nó đang đúng hình dạng chuẩn rồi đấy! Và Ông trùm sẽ trừng phạt anh cho mà xem!”
Tuy nói cứng là thế, nhưng Shankar ngồi rất yên, toàn thân căng lên cho đến khi lưỡi dao kết thúc hành trình nguy hiểm của nó trên mặt lão. Rajaram chùi sạch những vệt bọt nhỏ mà dao cạo bỏ sót, rồi xát một viên đá phèn lên những vùng vừa được cạo. Lớp da non ở nhiều chỗ đã bị cắt xẻo thậm tệ.
“Lấy cho tôi cái gương,” Shankar đòi, lão thấy đau và lo lưỡi dao có lẽ đã đi chệch hướng.
Rajaram giơ chiếc gương lên. Khuôn mặt lo lắng của lão ăn mày dí sát lại, nhưng chất se da đã cầm máu và tịnh không có một giọt đỏ nào nhểu ra hết.
“Được rồi, giờ đến mát xa mặt. Ông trùm bảo phải thế.” Từ một chiếc lọ trong hộp, anh ta múc ra một cục kem và xoa nó lên khắp hàm Shankar.
Người Shankar cứng đờ ra, không dám chắc đôi bàn tay hộ pháp này đang định làm gì. Rồi lão dần để mặc đầu mình xoay tròn theo những động tác xát, vuốt. Lão bắt đầu ô a một cách khoái trá khi những ngón tay xoa bóp má lão, miết vuốt bọng mắt, chà xát xung quanh và trên mũi, trán, và thái dương, đánh tan dần một đời người đầy đau khổ và bất hạnh.
“Thêm tí nữa đi,” lão nài nỉ khi anh chàng thợ cạo dừng lại và chùi sạch tay. “Một phút nữa thôi, tôi xin anh đấy, ông lớn, sướng quá đi mất.”
“Xong hết rồi,” Rajaram nói, mũi nhăn lại. Anh ta chưa bao giờ thích làm mát xa mặt, ngay cả cho những cái mặt trung lưu trong những ngày hoàng kim của sự nghiệp. Anh ta bẻ khục tay rồi lôi kéo cùng lược ra. “Giờ đến cắt tóc,” anh ta nói.
“Không, cái đấy thì tôi không muốn.”
“Ông trùm đã bảo tôi phải làm những gì rồi.” Anh ta ấn đầu lão xuống để xén phần tóc quanh gáy, nôn nóng muốn kết thúc cho nhanh và cuốn gói.
“Ối giời ơi, ông lớn ơi, tôi không muốn!” Shankar bắt đầu la hét ỏm tỏi. “Tôi bảo là tôi không muốn mà lị! Tôi thích tóc dài cơ!” Lão lắc ống bơ để gây tiếng động, nhưng hôm nay là một buổi sáng ế ẩm, cái ống bơ chỉ câm lặng. Lão bèn gõ nó xuống vỉa hè.
Những người qua đường đều ghìm bước để nhòm ngó bộ đôi bằng ánh mắt tò mò, Rajaram bèn ngừng giúi lão xuống, lo sợ sẽ càng thu hút thêm sự chú ý. “Đừng sợ, tôi sẽ cắt tóc cho lão thật cẩn thận, thật đẹp trai.”
“Tôi đếch cần biết đẹp trai đến đâu! Tôi không muốn cắt tóc!”
“Làm ơn đừng la hét. Cứ nói cho tôi biết lão muốn gì, tôi sẽ làm cho lão. Mát xa da đầu nhé? Hay trị gàu?”
Shankar thò tay xuống gầm bệ và lôi ra một cái bọc. “Anh là chuyên gia về tóc, phải không?” Anh ta gật đầu.
“Tôi muốn gắn cái này lên tóc tôi.” Lão đẩy cái bọc về phía anh ta.
Rajaram mở bọc, và sợ nhũn cả người khi hai bím tóc đuôi ngựa mượt mà rơi tuột ra. “Lão muốn tôi buộc cái này vào đầu lão ư?”
“Không phải chỉ buộc tôi đâu. Tôi muốn có nó suốt đời. Nó phải mọc trên chính đầu của tôi cơ.”
Rajaram không biết phải làm thế nào. Anh ta, giữa cái đận còn làm thợ cạo, đã từng nhận không ít yêu cầu lạ lùng: tân trang cho một quý cô có râu của một đoàn xiếc; tết lông vùng kín của một gã đĩ trai thành những cái đuôi sam tí hon; thiết kế một kiểu lông mu nghệ thuật cho một ả điếm đang mong tiến lên thị trường cao cấp để nhắm vào các bộ trưởng và giám đốc tập đoàn; cạo lông (trong tình trạng mắt bị bịt kín do khách hàng vốn tính cả thẹn) vùng tam giác cho bà vợ của một người đàn ông đầu óc mang nặng tư tưởng đẳng cấp vì ông chồng không muốn bà vợ bị ô uế khi phải tự mình thực hiện nhiệm vụ thấp hèn này. Với những việc này và cả nhiều thử thách khác, Rajaram đã xử lý bằng thái độ vững vàng chuyên nghiệp của một thợ cạo. Nhưng thỉnh cầu của Shankar vượt quá khả năng của anh ta.
“Không được đâu,” anh ta đáp thẳng thừng.
“Phải được, phải được, phải được!” Shankar gào lên. Gần đây, sự quan tâm đột ngột và thái quá của Ông trùm, đã làm hư lão ăn mày vốn hiền lành, cam chịu. Lão kiên quyết không chịu nghe lời giải thích của anh chàng thợ cạo. “Một bông hồng còn có thể ghép được!” Lão hét. “Thế nên hãy ghép tóc cho tôi đi! Anh là chuyên gia cơ mà! Không tôi sẽ đi tố với Ông trùm cho mà xem!”
Rajaram van vỉ lão làm ơn nói nhỏ thôi, làm ơn tạm cất hai cái đuôi tóc đi, ngày mai anh ta sẽ quay lại với những dụng cụ đặc biệt để làm công việc phức tạp này.
“Tôi muốn ngay hôm nay cơ!” Shankar thét. “Tôi muốn có tóc dài ngay bây giờ!”
Anh chàng thu ngân kiêm bồi bàn của Hotel đồ chay Vishram đứng trên ngưỡng cửa thò đầu ra nhìn, cả ông bếp cũng nhìn theo. Thêm nhiều người đi đường khác dừng lại, mong chờ chuyện gì đó thú vị sẽ xảy ra. Rồi một gã bán vé số dạo bỗng bới vụ hai người ăn mày bị giết để lấy tóc từ rất nhiều tháng trước ra. Trùng hợp thật, gã nói, sao hai cái bím tóc dày đến thế lại nằm trong mớ của nả của lão ăn mày này.
Đồn đoán đua nhau nảy nở. Có lẽ có một mối liên hệ nào đó – một nghi thức của dân ăn mày đòi hỏi phải có vật hiến tế là người sống. Hoặc có thể lão ăn mày này là một gã tâm thần. Có người còn nhắc nhỏm đến vụ giết người hàng loạt Raman Raghav rùng rợn xảy ra cách đây vài năm; vụ hai người ăn mày bị giết cũng mang hơi hướng khát máu kiểu này.
Run bần bật vì sợ, Rajaram cố tách mình khỏi Shankar. Anh ta gói ghém đồ nghề rồi thối lui cho đến khi nhập thành một phần của đám đông đang vây quanh lão ăn mày. Khi vớ được cơ hội đầu tiên, anh ta chuồn thẳng.
Mọi người tiến sát lại xung quanh Shankar. Nó khiến lão hoảng sợ. Lúc này lão mới hối hận vì đã làm ầm ĩ với tay thợ cạo. Lão tiếc vì đã quên mất quy tắc số một của những kẻ lão luyện trong nghề sống bằng của bố thí: ăn mày có thể để người ta nhìn thấy, nghe thấy cũng được, nhưng không được to tiếng quá – nhất là trong những vấn đề phi ăn mày.
Lão bỗng nảy sinh nỗi sợ không gian kín khi đám đông cao lừng lững đứng quanh lão dần che khuất mặt trời. Khoảng vỉa hè của lão tối sầm lại. Lão cố dỗ dành họ bằng cách hát rống lên bài hát ăn xin, “Ới ông ơi, làm ơn làm phước cho lão một xu,” lòng bàn tay quấn băng của lão liên tục chạm lên trán. Chẳng ăn thua gì. Lời ong tiếng ve tiếp tục cuộn lên đầy đe dọa.
“Mày ăn trộm mớ tóc kia ở đâu, hả thằng lừa đảo kia?” Một người quát.
“Bạn tôi cho tôi,” Shankar kêu khóc, tuy sợ hãi, lão vẫn vô cùng căm phẫn trước lời buộc tội nọ. “Đồ sát nhân táng tận lương tâm!”
“Lão đúng là đồ quái vật!” Một người khác thốt lên, giọng nửa kinh tởm, nửa ngưỡng mộ. “Tài đến thế là cùng! Ngón tay không có, chân cũng không, thế mà lão vẫn làm được những trò tàn bạo kia!”
“Có lẽ lão chỉ giấu ngón tay và chân đi thôi. Bọn này có nhiều cách để biến đổi cơ thể lắm.”
Shankar khóc mếu, kêu rằng lão chưa từng làm việc gì xấu, lão là một ăn mày tốt, chẳng làm hại ai bao giờ, chỉ ở đúng chỗ của mình. “Cầu Thượng Đế phù hộ cho các ngài suốt đời! Ối các ông lớn bà lớn ôi, xin nghe tôi, lúc nào tôi cũng chào hỏi ông đi qua bà đi lại! Kể cả những đận đau ốm tôi cũng gắng cười với các ngài! Phải lúc được ít tiền, nhiều ăn mày còn chửi lại, nhưng tôi luôn luôn chúc phúc dù nhận được xu to hay xu nhỏ! Cứ hỏi bất kì ai đi qua đây mà xem!”
Một viên cảnh sát bước tới để xem vụ ầm ĩ nọ từ đâu mà ra. Ông ta cúi xuống, và Shankar trông thấy khuôn mặt ông ta bên ngoài một rừng chân. Đám đông giãn ra để cho vị đại diện công quyền vào xem cho rõ. Shankar biết rằng giây phút sống còn chính là đây. Lão đẩy cái bệ lăn đi và phóng vọt qua khe hở.
“Cái gì chạy được tức là xe[46] đấy!” Ai đó nói to, khơi thêm những tràng cười khác từ những người còn nhớ ra bộ phim cũ kĩ nọ.
“Giải Grand Prix ăn mày đê!” Một người khác hét.
Đi quá Vishram chừng trăm bước, Shankar nhận ra lão đã rơi vào vùng địa hình chưa bao giờ được khai phá. Ở chỗ này, vỉa hè khá dốc, và bánh xe bắt đầu quay nhanh dần. Rẽ ngoặt khi đang lăn với tốc độc cao sẽ là chuyện bất khả thi. Nhưng Shankar chẳng nghĩ được xa đến thế. Lão phải thoát khỏi cái đám đông khủng khiếp kia, chỉ thế thôi.
Lão lao đến cuối vỉa hè và rú lên. Cái bệ lăn bắn vọt tới, bay thẳng vào giữa ngã tư đông nghìn nghịt.
Maneck bước đi ở chính giữa cầu thang, tránh xa dải lan can nhoe nhoét nước bã trầu và những vết bẩn lem nhem kinh tởm có-trời-mới-biết-là-do-thứ-gì dính đầy trên tường. Nỗi khiếp sợ xưa cũ ùa về khi cậu leo dần lên từng bậc thang kí túc xá. Những chiếc vỏ bao thuốc lá rỗng không, một cái bóng đèn vỡ, một cái vỏ chuối đã thâm xì thâm xịt, bánh chapati gói trong giấy báo, vỏ cam nằm la liệt khắp hành lang. Cậu băn khoăn tự hỏi đây là do lao công lên làm muộn, hay những thứ rác rưởi này đã được xả ra từ sau ca quét dọn buổi sáng?
Cậu không mong hòng gì gặp được Avinash ở đây, nhưng cậu quyết định sẽ gửi chiếc hộp có ai đó, có thể là ở quầy lễ tân ngoài sảnh. Trên đường lên tầng mình từng ở, cậu nín thở khi đi qua toa lét. Hơi thối xộc ra xác nhận tình trạng thiếu sửa chữa vẫn tái diễn, mùi nặng đến độ như nếm thấy được cả vị ở tận sâu trong họng.
Căn phòng cũ của cậu còn trống, cửa không khóa. Chưa có một ai dọn đến ở kể từ ngày cậu rời đi, quang cảnh vẫn y hệt như những gì cậu đã bỏ lại. Nhìn vào đó có một vẻ gì thật kì quái, như thể cậu đã bị xẻ làm đôi – một nửa vẫn sống ở đây, một nửa đang ở cùng dì Dina. Và cái giường, kê cách xa tường mấy chục phân, bốn chân vẫn nhúng trong bốn lon nước. Biện pháp xua đuổi các sinh vật lắm chân của Avinash – nó đã tỏ ra rất hiệu quả. Avinash từng đùa rằng những gì anh ta không biết về gián và rệp sau những ngày được nuôi nấng trong khu tập thể nhà máy dệt thì cũng chẳng đáng biết mà làm gì.
Maneck tiến lại gần, nửa như hi vọng sẽ nhìn thấy nước trong lon. Tất cả đều khô nỏ, trống trơn, chỉ có vài cái chân gián nâu nâu, một con thiêu thân đã chết, và một con nhện lờ đờ. Nước đã để lại những đường vòng xung quanh chân gỗ. Dấu ấn bằng nước của riêng cậu: Maneck Đã Ở Đây. Bàn và ghế, hai chứng nhân trung thành của biết bao nhiêu ván cờ, vẫn ở sát cửa sổ, chúng đã được kê ra đây để lấy được nhiều ánh sáng hơn. Cảm giác như đã lâu lắm rồi.
Cậu đi ra và nhẹ nhàng đóng cánh cửa khép lại quá khứ. Cậu bỗng sửng sốt nhận ra, có tiến động phát ra từ phòng bên. Avinash sẽ nói gì khi anh ta nhìn thấy cậu? Cậu sẽ nói gì với Avinash? Cậu cố trấn tĩnh lại; cậu không muốn mình tỏ vẻ hồi hộp hay bối rối.
Cậu gõ cửa.
Cửa mở, và một cặp vợ chồng trung niên nhìn cậu lom lom dò xét. Tóc cả hai đều đã bạc, ông chồng má hõm sâu và ho rũ rượi, bà vợ mắt đỏ ngầu. Có lẽ là bố mẹ anh ta, cậu nghĩ thầm.
“Cháu chào hai bác, cháu là bạn của Avinash.” Có lẽ họ đang chờ anh ta quay về, chắc anh ta đang ở đâu đó trong khu nhà này. “Hai bác đang đợi anh ấy ạ?”
“Không,” ông chồng nói rất nhỏ. “Hết chờ đợi rồi. Hết tất rồi.” Họ chậm chạp quay trở vào phòng, lưng còng xuống vì những gánh nặng vô hình, và ra hiệu mời cậu vào trong. “Chúng tôi là bố mẹ nó. Hôm nay chúng tôi đã hỏa táng nó rồi.”
“Bác nói gì cơ ạ? Hôm nay làm gì ạ?”
“Hỏa táng hôm nay, phải. Sau một khoảng thời gian trì hoãn rất dài. Chúng tôi đã tìm con suốt hàng tháng trời.
Đến đủ các sở cảnh sát khác nhau, van xin được giúp đỡ. Chẳng ai thèm giúp chúng tôi.”
Giọng ông run run, ông ngưng bặt, gắng hết sức để kiềm chế. “Bốn ngày trước, họ báo với chúng tôi là có một thi thể ở nhà xác. Họ đưa chúng tôi đến nhận mặt.”
Bà mẹ bắt đầu khóc, giấu mặt sau vạt sari. Những tràng ho của ông bố đâm vào không khí khi ông cố vỗ về bà; ngón tay ông dịu dàng chạm lên tay bà. Một cánh cửa ở đâu đó dọc hành lang đóng sầm lại.
“Nhưng sao cơ… ý cháu là… không có thứ gì, không có ai…” Maneck lắp bắp. Ông bố đặt tay lên vai cậu.
Maneck đặng hắng và nói lại. “Chúng cháu là bạn.” Và hai bậc cha mẹ gật đầu, dường như cảm thấy được an ủi nhờ chút thực tế mơ hồ này. “Nhưng cháu không biết gì cả… chuyện gì đã xảy ra thế ạ?”
Giờ đến lượt bà mẹ tiếp lời, những chữ bà nói thều thào phả ra đến gần như vô âm. “Chúng tôi cũng có biết gì đâu. Chúng tôi đi thẳng từ chỗ làm lễ hỏa táng về đây. Mọi sự suôn sẻ, nhờ ơn trời. Không có mưa, nên giàn thiêu bốc cháy to lắm. Chúng tôi đã ở đấy suốt đêm.”
Ông bố gật đầu. “Họ nói với chúng tôi là thi thể thằng bé được tìm thấy từ nhiều tháng trước, trên đường ray tàu hỏa, không có giấy tờ gì đi kèm. Họ nói thằng bé chết vì ngã xuống khi tàu đang chạy nhanh. Họ bảo chắc nó đang bám ngoài cửa hoặc ngồi trên nóc tàu. Nhưng Avinash là đứa cẩn thận, nó có bao giờ làm những việc như thế.” Mắt ông lại giàn giụa nước; ông ngừng lại để chùi cho sạch. Bà mẹ chạm nhẹ mấy ngón tay lên tay ông.
Ông lại có sức tiếp tục. “Cuối cùng, sau một khoảng thời gian rất dài, chúng tôi cũng được nhìn thấy con trai mình. Chúng tôi nhìn thấy vết cháy xém ở rất nhiều bộ phận đáng xấu hổ trên cơ thể nó, và lúc mẹ nó cầm tay nó lên để áp vào trán bà ấy, chúng tôi thấy móng tay của nó đã mất hết. Vì vậy chúng tôi hỏi những người ở nhà xác, là làm sao những chuyện này có thể xảy ra với một người bị ngã từ trên tàu xuống? Họ nói chuyện gì cũng có thể xảy ra được. Chẳng ai chịu giúp chúng tôi.”
“Hai bác phải đi trình báo việc này!” Maneck kêu lên, giận dữ kìm nén những giọt nước mắt. “Phải báo! Với… với bộ trưởng… ý cháu là, thị trưởng. Hoặc cảnh sát trưởng!”
“Chúng tôi đã làm rồi, chúng tôi làm đơn kêu cứu. Cảnh sát đã ghi hết vào sổ rồi.”
Họ quay lại với nhiệm vụ góp nhặt đồ dùng của Avinash. Maneck bất lực nhìn họ cẩn trọng ôm quần áo, sách vở, giấy tờ xếp, đôi lúc lại áp môi lên một món đồ nào đó trước khi đóng gói nó lại. Căn phòng im ắng, chỉ có tiếng chân họ bước qua bước lại nhè nhẹ.
“Nó có kể cho cháu nghe về ba đứa em gái của nó không?” Đột nhiên bà mẹ cất lời. “Hồi chúng còn bé, nó thường giúp bác chăm chúng. Nó rất thích cho chúng ăn. Lắm lúc chúng cắn ngón tay nó, làm nó cười như nắc nẻ. Nó có bao giờ kể với cháu thế không?”
“Anh ấy kể với cháu hết rồi.”
Sau ít phút, họ đã sẵn sàng lên đường. Cậu khăng khăng đòi bê chiếc rương xuống cho họ, cậu mừng vì công việc nặng nhọc này sẽ giúp mắt cậu khỏi tràn nước. Niềm biết ơn của ông bố và bà mẹ chỉ càng nhắc nhở cậu rằng những gì cậu có thể làm để cất bớt gánh nặng đau thương của họ thật ít ỏi làm sao. Cậu chỉ có thể nghĩ đến một điều, chính là cái ngày khi Avinash xuất hiện trên ngưỡng cửa với bình xịt Flit. Họ đã giết gián. Họ đã chơi cờ đam. Họ đã kể cho nhau nghe chuyện đời mình. Và nay anh ta đã chết.
Cậu chào tạm biệt rồi đi đến tòa nhà của khoa kĩ thuật. Rồi cậu sực nhớ ra mình vẫn giữ cả quân cờ lẫn bàn cờ. Cậu vội vã chạy ra cổng. Chẳng thấy tăm tích hai người kia đâu. Sao mình lại ngu ngốc thế cơ chứ, cậu nghĩ, nó sẽ có ý nghĩa với họ biết nhường nào, vật kỉ niệm này, phần thưởng thời trung học của Avinash nhờ vô địch giải đấu.
Cậu quay gót trở lại, bước đi trong vô định, và thấy mình lại đứng ở sảnh kí túc xá. Rồi cậu khựng lại và quyết định: bộ cờ vua – bằng cách nào đó, cậu phải trả nó lại cho bố mẹ Avinash. Cậu có cảm giác mình giống như một tên trộm, cướp đi của họ một nguồn an ủi. Càng giữ nó lâu, cậu càng chồng chất thêm nỗi khổ đau của họ.
Nhiệm vụ trả lại bộ cờ bỗng mang một tính cấp bách tiên quyết, một vấn đề sinh tử. Cậu lặng lẽ khóc khi bước lên những bậc thang, và bị một đám sinh viên hiếu kì săm soi. Có đứa hú hét câu gì đó mà cậu không nghe ra. Bọn kia bắt đầu đồng thanh hát ông ổng: “Bé con ơi đừng khóc, mẹ còn đi cào thóc, bố bận đi bắt cóc…”
Cậu lẩn vào căn phòng cũ và ngồi xuống trên chiếc giường mốc meo. Có lẽ vẫn còn thứ gì đó trong phòng Avinash, trong giỏ giấy vụn, một chiếc phong bì cũ hay một lá thư có địa chỉ chẳng hạn. Cậu sang tìm. Chẳng có gì. Dù chỉ là một mẩu giấy. Địa chỉ, cậu phải tìm địa chỉ của bố mẹ anh ta, để gửi bộ cờ cho họ. Cậu có thể hỏi quanh trong tầng này. Nhưng mấy thằng khốn ngoài hành lang sẽ lại diễn tiếp trò trêu chọc trẻ con của chúng, nếu thấy cậu lật đật chạy hết từ phòng này sang phòng khác, tự biến mình thành kẻ ngớ ngẩn.
Siết chặt cái hộp lên ngực, cậu nhắm mặt lại, cố suy nghĩ thật bình tĩnh. Địa chỉ. Câu trả lời thật đơn giản – phòng bảo vệ. Phải, họ sẽ có địa chỉ. Cậu có thể gửi nó cho bố mẹ Avinash.
Cậu mở mắt ra và trân trối nhìn chiếc hộp gỗ dán màu nâu sẫm bơi qua làn nước mắt của cậu. Cậu vẫn nhớ cái hôm ở căng-tin: phải chơi bằng quân trắng và chiếu tướng trong ba nước – và rồi những sinh viên ăn chay thi nhau nôn mửa. Kí ức ấy khiến cậu bật cười. Cách mạng qua đường nôn mửa, Avinash đã nói thế. Và anh ta đã nhờ cậu giữ gìn bộ cờ vua.
Và anh ta không bao giờ đòi trả lại. Món quà của anh ta. Trò chơi cuộc đời. Trả lại nó là sai lầm. Cậu sẽ giữ nó. Cậu sẽ giữ nó từ giờ cho đến cuối đời.
Dina cố thuyết phục Maneck giữ bình tĩnh và nhẩm lại trong đầu một bài kinh Ashem Vahu[47] trước khi đọc đề thi và một lần nữa trước khi đặt bút viết câu trả lời. “Bản thân dì cũng chẳng phải một người sùng đạo lắm,” cô nói. “Nhưng cứ coi đó là một kiểu bảo hiểm đi. Dì thấy khá hữu hiệu đấy. Và chúc cháu may mắn.”
“Cảm ơn dì.” Cậu mở cửa đi ra và suýt chút nữa thì đâm sầm vào Ông trùm, ngón tay trỏ đang giơ ra định bấm chuông cửa.
“Xin thứ lỗi,” Ông trùm nói. “Tôi mang đến tin rất xấu.” Ông hoàn toàn kiệt quệ, mắt sưng vù vì khóc. “Xin cho tôi gặp hai người thợ may được không?”
“Nhưng họ đã đi từ hai ngày trước rồi.”
“Ôi, phải rồi. Tôi quên mất – vụ đám cưới.” Trông ông như sắp quỵ ngã đến nơi.
“Mời ngài vào,” Dina nói.
Ông ta bước vào hành lang và, cố nuốt nước mắt, ông thông báo Shankar đã chết.
Nghi hoặc, loại cảm xúc cho người ta thời gian chấp nhận một cú sốc, là thứ Maneck đang cố nắm lấy. “Nhưng chúng tôi vừa nói chuyện với chú ấy mới cách đây ba ngày kia mà – chú Ishvar và Om và tôi, khi chúng tôi đi uống trà. Và sáng hôm qua chú ấy còn khoe tôi việc thợ cạo sắp tới. Chú ấy vẫn còn khỏe mạnh vui vẻ, lăn đều như ngày thường.”
“Phải, cho đến sáng hôm qua thôi.”
“Có chuyện gì xảy ra sau đó à?”
“Tai nạn khủng khiếp lắm. Cái bệ lăn của nó bị mất kiểm soát. Bay vọt khỏi vỉa hè… đâm thẳng vào một cái xe buýt hai tầng.” Ông nuốt nước bọt và nói ông không được chứng kiến tận mắt, nhưng đã tới nhận diện những gì còn sót lại. “Với bao nhiêu năm làm trong nghề này, mắt tôi đã nhìn thấy đủ thứ rùng rợn. Nhưng chưa bao giờ có thứ gì lại hãi hùng hơn. Cả Shankar và cái bệ đều bị cán nát bấy – đến độ không thể tách bạch nổi người với bệ. Cố gỡ những mảnh gỗ và bánh xe ngập lút trong da thịt nó là càng xé nát thi thể khốn khổ của nó thậm tệ hơn nữa. Đành phải hỏa táng cái bệ theo nó thôi.”
Họ gồng mình đương đầu với hình ảnh ghê rợn nọ trong câm lặng. Ông trùm không thể ghìm được và òa lên khóc nức nở. Nỗ lực kìm nén tiếng khóc khiến ông run lên. “Lẽ ra tôi nên nói với nó chúng tôi là anh em. Tôi đã chờ quá lâu. Và giờ thì đã muộn mất rồi. Giá như cái bệ lăn của nó có phanh… tôi đã nghĩ tới một lần, nhưng ý tưởng ấy nghe có vẻ ngớ ngẩn. Hầu như nó chỉ lê cái bệ đi quanh đi quẩn… nào có phải một cái xe tốc độ cao hay gì đâu. Lẽ ra tôi nên thôi, không bắt nó ra đường nữa.”
“Ngài không nên tự trách mình như thế,” Dina nói. “Ngài đã cố làm những gì tốt nhất cho ông ấy, như ngài đã nói đấy.”
“Thật ư? Tôi đã làm thế ư? Làm sao tôi biết được?”
“Chú ấy là người tử tế lắm,” Maneck nói. “Chú Ishvar và Om kể với chúng tôi là chú ấy đã chăm sóc họ thế nào khi họ bị ốm ở trại lao động. Dì chưa bao giờ gặp chú ấy, nhưng trong hầu hết các mặt, chú ấy cũng giống như những người bình thường thôi. Lắm lúc chú ấy còn pha nhiều trò vui lắm.”
“Dì có cảm giác dì biết ông ấy. Ishvar và Om đã có lần mang số đo của ông ấy về và mô tả về ông ấy cho dì nghe, nhớ không? Còn cả chiếc áo vét đặc biệt dì thiết kế cho ông ấy nữa?”
“Cô thật tốt bụng,” Ông trùm nói, mắt lại tràn nước khi nghĩ đến lúc mình đã xé rách và bôi bẩn tấm áo đó một cách đầy thiện chí cho phù hợp với hoàn cảnh của của Shankar.
“Ngài có muốn một cốc nước không?” Cô hỏi. Ông gật đầu, Maneck bèn mang ra.
Ông trùm dần lấy lại bình tĩnh sau khi uống nước. “Tôi muốn mời hai người thợ may đến dự lễ hỏa táng của Shankar. Ngày mai, lúc bốn giờ. Họ là những người bạn duy nhất Shankar có. Sẽ có rất đông ăn mày ở đó, nhưng Ishvar và Om mới là khách mời đặc biệt.” Ông trả lại chiếc cốc không.
“Cháu sẽ đi,” Maneck nói.
Nỗi ngạc nhiên của Ông trùm lóe sáng giữa cơn đau buồn. “Thật không? Tôi sẽ rất biết ơn.” Ông cầm lấy bàn tay Maneck và lắc lấy lắc để. “Đoàn đưa tang xuất phát ở Vishram. Tôi nghĩ đó là một nơi thích hợp để mọi người tụ họp – tỏ lòng kính trọng với Shankar. Cậu có nghĩ thế không? Địa điểm cuối cùng của nó ấy?”
“Vâng, cháu sẽ gặp ngài ở đó.”
“Thế còn bài thi của cháu thì sao?” Dina nói.
“Ba giờ là cháu thi xong rồi.”
“Phải, nhưng còn bài thi ngày kia nữa?” Cô cố gắng can ngăn cậu. Ý nghĩ cậu tham dự đám tang của một lão ăn mày khiến cô cảm thấy bất an. “Lẽ ra cháu phải về thẳng nhà mà ôn tập để chuẩn bị thi chứ?”
“Cháu sẽ ôn, sau khi dự lễ hỏa táng xong.”
“Xin thứ lỗi cho tôi một phút,” cô nói với Ông trùm, đoạn đi vào nhà trong. “Maneck!” Đứng từ phòng trong, cô gọi vọng ra. Cậu nhún vai và vào theo.
“Cái quái gì thế này? Sao cháu lại phải đi?”
“Vì cháu muốn đi.”
“Đừng có trả treo! Cháu biết ông ta làm dì sợ tới mức nào rồi còn gì. Lý do duy nhất khiến dì cố gắng chịu đựng ông ta là vì ông ta bảo vệ cho căn nhà này. Không cần phải làm thân thêm nữa.”
“Cháu không muốn tranh cãi nữa đâu, dì ạ. Cháu sẽ đến dự lễ hỏa táng.” Giọng cậu nhỏ nhẹ, nhấn mạnh từng chữ.
Dina băn khoăn không hiểu sao cậu lại tha thiết với đám tang của lão ăn mày đến thế. Cô quy nguyên nhân là do áp lực của kì thi cuối năm. “Thôi được, dì không ngăn nổi cháu. Nhưng nếu cháu đi, dì cũng đi cùng.” Để trông chừng cậu, chứ không phải vì lý do nào khác, cô nghĩ thầm.
Họ quay trở ra hành lang. “Chúng tôi vừa bàn về buổi chiều ngày mai,” cô nói. “Cả hai chúng tôi đều sẽ đi.”
“Ôi, vậy thì tuyệt quá,” Ông trùm kêu lên. “Làm sao tôi cảm ơn được hai người đây? Mà, tôi đang nghĩ, thật ra cũng may là Ishvar và Om đã lên đường từ hai ngày trước. Nỗi đau buồn có thể sẽ làm hỏng đám cưới mất. Mà chuyện hôn nhân cũng như việc chết chóc, chỉ xảy ra có một lần mà thôi.”
“Quả đúng vậy,” cô nói. “Ước gì có nhiều người khác cũng hiểu được như thế.” Cô ngạc nhiên khi thấy những lời ông nói hoàn toàn trùng khớp với cảm nghĩ của cô về vấn đề này.
Ông trùm cho tất cả ăn mày nghỉ một buổi chiều để tham dự lễ hỏa táng. Cuộc tập họp của những kẻ tàn tật, mù lòa, cụt tay, cụt chân, bệnh tật, và mất mặt mũi trên vỉa hè chẳng mấy chốc đã thu hút không ít khán giả. Những người xem xôn xao không hiểu có phải bệnh viện nào đó, do thiếu không gian, đã phải mở một phòng khám ngoài trời hay không.
Dina và Maneck gặp Ông trùm đang uống trà trong nhà hàng Vishram. “Nhìn đám người kia kìa,” ông nói vẻ ghê tởm. “Chúng nghĩ đây là một gánh xiếc đấy.”
“Mà chẳng ai chịu bố thí lấy một xu nhỏ,” Dina nói.
“Cũng chả có gì lạ. Lòng thương hại chỉ có thể được bộc lộ bằng từng liều nhỏ. Khi có quá nhiều ăn mày tập trung ở cùng một chỗ, người đời sẽ xử sự thế này” – ông ta đưa hai nắm đấm lên mắt, hệt như một cặp ống nhòm. “Đúng là một sô diễn quái gở. Người ta quên mất rằng bản thân mình mong manh đến mức nào, bất chấp những áo xống và giày dép và cặp táp họ mang, rằng cái thế giới đói khát và tàn bạo này có thể lột truồng họ, ném họ vào vị trí y hệt như đám ăn mày của tôi.”
Maneck nghiền ngẫm những lời lẽ khoa trương của Ông trùm, nỗ lực của ông hòng che giấu nỗi đau đớn. Hà cớ gì loài người phải xử sự như thế với cảm xúc của mình? Dù là khi giận dữ hay yêu thương hay buồn đau, họ luôn cố đẩy một thứ khác lên thế chỗ nó. Và lại còn có những kẻ luôn vờ như cảm xúc của mình lớn lao cao cả hơn tất thảy những người khác. Một mối khó chịu cỏn con được họ biến thành một cơn thịnh nộ nghiêng trời lệch đất; còn những lúc chỉ một cái nhoẻn miệng hay một tiếng cười khúc khích là đủ dùng, họ lại lăn ra cười như hóa dại. Dù là trường hợp nào đi nữa, đó đều là thiếu thành thực.
“Ngoài ra,” Ông trùm nói, “sự thờ ơ của người đời mà hai người đang được chứng kiến minh họa cho một điểm quan trọng. Trong nghề này, cũng như các nghề khác, ba yếu tố có vai trò căn cốt nhất là địa điểm, địa điểm, và địa điểm. Ngay lúc này đây, nếu tôi chuyển đám ăn mày kia từ Vishram đến một ngôi đền lớn hoặc một địa chỉ hành hương, tiền của sẽ đổ về như nước cho mà xem.”
Thi thể Shankar nằm trên một chiếc kiệu đan bằng tre tươi đặt phía ngoài cửa hậu Vishram, ngay cạnh gian kho chứa bát đĩa, dao nĩa, bếp dự phòng, và dầu hỏa. Ông trùm giải thích là khuôn mặt không được để lộ ra cho người đến viếng nhìn vì cảnh tượng đó vượt quá sức chịu đựng. Một tấm vải che phủ cái thây nát bấy, và trên tấm vải đó là một lớp hoa tươi, gồm hoa hồng và hoa huệ.
Mắt trân trân nhìn chiếc kiệu, Maneck tự hỏi không biết có phải bố mẹ Avinash đã bắt đầu lễ đưa tang cho anh ta từ nhà xác hay không. Hay người ta cho phép đưa xác về nhà làm lễ cúng? Có lẽ tùy thuộc vào tình trạng phân hủy, và thời gian xác có thể giữ được trong nhiệt độ phòng. Trong thế giới không được làm lạnh. Nơi tất cả đều có kết cục đen tối.
“Hotel đồ chay Vishram thật tử tế vì đã cho Shankar nằm đây trước khi lễ tang bắt đầu,” Dina khen.
“Tử tế quái gì. Tôi đấm mõm thằng bếp với thằng bồi khẳm lắm.” Ông trùm nghển cổ lên để ngó qua cửa sổ, và vẫy tay với bốn người đàn ông vừa tới. “Tốt rồi, chúng ta có thể bắt đầu được rồi.”
Bốn người đàn ông nọ là cửu vạn ngoài ga tàu hỏa được thuê để khiêng kiệu. “Tôi chẳng còn cách nào khác,” ông phân bua bằng giọng khổ sở. “Tôi là người thân thích duy nhất. Dĩ nhiên thỉnh thoảng tôi sẽ khiêng em trai tôi, để tỏ lòng kính trọng với nó, nhưng tôi không thể cho phép bất cứ ăn mày nào của mình làm việc đó. Họ không đủ khỏe. Cả cỗ kiệu sẽ đổ mất.”
Ông không tiếc tiền tiêu cho Shankar, mua loại bơ sữa trâu và hương trầm loại nhất hạng, cùng hàng núi gỗ đàn hương. Tất cả đều đã đợi sẵn ở bãi hỏa táng, cùng một thầy tế giỏi để thực hiện các nghi thức tang lễ. Có cả những giỏ đựng cánh hoa hồng cho những người đi viếng tung lên kiệu trên suốt chuyến đưa ma dài. Và sau lễ tang, Ông trùm sẽ tiến một khoản công đức cho đền dưới tên của Shankar.
“Tôi chỉ lo duy nhất một điều,” ông nói. “Tôi hi vọng các ăn mày khác không cho đây là chế độ áp dụng chung, rằng người nào trong số bọn họ rồi cũng sẽ được hưởng một cuộc tiễn biệt hào phóng như thế này.”
Đám đưa ma di chuyển chậm nhất từng thấy xưa nay bắt đầu tiến về phía bãi hỏa táng ngay sau bốn giờ chiều. Số lượng người tàn tật đông đảo ghìm nó ở tốc độ rùa bò. Dị tật của một số người đã làm teo tóp cơ thể họ, khiến họ chỉ còn có thể ngồi xổm như con ếch: họ nhảy nhô nhảy nhốp theo đám, dùng tay làm đòn bẩy. Một vài người lại chỉ đủ sức bò ngang kiểu cua. Số khác thì có số lượng phương tiện được nhân đôi, bò tới bằng cả hai tay hai chân, đít nhổng lên như bướu lạc đà. Bằng một sự đồng thuận ngầm, đám rước di chuyển ở một tốc độ chung thấp nhất, nhưng tinh thần ai nấy đều rất hứng khởi, họ cười nói rôm rả, sung sướng tận hưởng một trải nghiệm mới, thành ra nhìn vào trông giống một lễ hội hơn là đám ma.
“Thật đáng buồn,” Dina nói giọng bất bình. “Ở đây có người chết, thế mà chẳng ai khóc lóc gì cả. Mà Ông trùm còn chẳng thèm nhắc họ cư xử cho phải phép.”
“Dì mong chờ cái gì chứ,” Maneck nói. “Có lẽ họ đang ghen tị với Shankar ấy chứ.” Mà dù sao đi nữa, cậu nghĩ vụng, khóc lóc phỏng có ích gì? Kẻ nằm trên kiệu kia có thể chính là cậu và thế giới cũng chẳng có gì đổi khác.
Ông trùm chạy ngược chạy xuôi khắp dòng người như một viên giám sát đội hình đội ngũ, đảm bảo không xảy ra bất kì sự chậm trễ có thể tránh được nào. Dina vẫy tay gọi ông khi ông đi xuống cuối đám. “Cả Maneck lẫn tôi đều chưa từng dự một đám tang Hindu nào,” cô thú thật. “Chúng tôi nên làm gì khi đến nơi?”
“Chẳng cần làm gì cả,” Ông trùm nói. “Hai người đã cho Shankar vinh dự chỉ bằng việc có mặt ở đấy. Thầy tế sẽ lo việc khấn khứa. Còn tôi sẽ phải châm lửa giàn thiêu và đập vỡ xương sọ vào phút cuối, vì Shankar không có con trai.”
“Có khó nhìn không? Có người bảo tôi mùi bốc lên nặng lắm. Ta có tận mắt nhìn thấy thịt da bị cháy không?”
“Có, nhưng xin đừng lo, đấy là một cảnh tượng rất đẹp mắt. Khi ra về, hai người sẽ cảm thấy rất thanh thản, cảm thấy như Shankar đã được tiễn đưa đàng hoàng trên cuộc hành trình còn tiếp diễn của nó. Và, tôi hi vọng, không phải cần đến một cái bệ lăn nữa. Đó luôn là cảm giác của tôi sau khi chứng kiến một cái giàn thiêu rực cháy – một sự trọn vẹn, tĩnh tại, một mối cân bằng toàn hảo giữa sự sống và cái chết. Thực ra, vì chính lý do đó mà tôi còn đến dự cả lễ hỏa táng của những người không quen biết cơ đấy. Khi nào có tí thời giờ rảnh mà thấy một đám đưa ma, tôi cứ tự tiện nhập hội thôi.”
Nói rồi, ông vội vã chạy lên phía trước đoàn để vỗ về mấy viên cảnh sát cáu bẳn. Đoàn đưa tang chậm rề rề khiến các nhân viên công lực ngành giao thông nổi đóa, cảm thấy nhịp độ đã thành ra rối loạn hết cả. “Liên tục di động” là cương lĩnh số một trong đời họ, và họ mắc chứng sợ đối với bất cứ vật gì di chuyển chậm, dù đó là xe ô tô, xe kéo, chó hoang, hay con người. Nếu thỉnh thoảng họ có châm chước cho một trường hợp ngoại lệ nào, thì đó là lũ bò. Sốt sắng muốn nhanh nhanh chóng chóng lùa đám người đưa ma đi qua, họ khoát tay, tuýt còi, quát thét và van lơn, hoa chân múa tay, cau có, bóp trán, nhứ nhứ nắm đấm. Nhưng những biện pháp đã qua thử nghiệm và chứng minh hiệu quả nói trên đều thành ra xôi hỏng bỏng không với đối tượng này: những chân tay đã mất không thể phản ứng lại, dù tiếng còi có xé tai, động tác vung tay của họ có dũng mãnh tới mức nào đi nữa.
Đám cửu vạn ga tàu, vốn quen bước thoăn thoắt với những hành lý nặng nề chất trên vai, cũng gặp khó khăn không ít khi phải thích nghi với tốc độ phi truyền thống này. Khi những tràng kinh “Tên của Ram là chân lý!” bắt đầu nhỏ dần sau lưng, họ nhận ra mình đã đi trước quá xa, và hò nhau dừng lại cho đến khi khoảng cách được thu hẹp. Nửa đường đến bãi hỏa táng, sau một tiếng đồng hồ lê lết, một toán cảnh sát chống bạo động đội mũ sắt bỗng lao vào đột kích đám rước mà không hề báo trước, tay vung loạn gậy gộc. Thi thể Shankar lăn tõm khỏi kiệu khi những người cửu vạn quay ngoắt đi để tránh những cú đánh. Miệng thét lên khiếp đảm, đám ăn mày ngã lăn lóc ra đất. Cánh hoa hồng rơi tung tóe từ khoảng nửa chục cái giỏ, và một vệt màu hồng đẹp đẽ tãi khắp mặt đất.
“Thấy chưa? Đấy là lý do tại sao dì không muốn cho cháu đi đấy,” Dina vừa nói vừa thở hổn hển khi cô cùng Maneck chạy lên vùng an toàn trên vỉa hè. “Cái thời buổi này loạn lắm – tai họa có thể ập đến mà không báo trước. Nhưng bọn cảnh sát ngu ngốc này bị làm sao vậy? Sao họ lại đánh đập mấy người ăn mày?”
“Có lẽ họ đang đi gom người cho một cái trại lao động mới. Như họ từng bắt Ishvar và Om ấy.”
Rồi, cũng đột ngột hệt như trước, đội quân rút đi. Đội trưởng của họ tìm đến chỗ Ông trùm và xin lỗi rối rít vì đã xâm phạm không khí tôn nghiêm của buổi lễ. “Bản thân tôi cũng là một người sùng đạo, và vô cùng nhạy cảm trước các vấn đề tín ngưỡng. Đây quả là một nhầm lẫn rất đáng tiếc. Tất cả đều do cơ quan tình báo làm ăn tắc trách quá.”
Ông ta nói họ vừa nhận được một bức điện báo cho hay một đám tang giả đang được cử hành, với mục đích đưa ra một tuyên bố chính trị nào đó, đây chắc chắn là hành động vi phạm các quy định của Tình trạng khẩn cấp. Nghi vấn đặc biệt nổi lên quanh vụ tập họp của quá nhiều ăn mày, ông giải thích. “Họ bị tưởng nhầm là các phần tử quá khích chính trị mặc những loại trang phục kì quái – bọn gây rối thích diễn tuồng trên phố, mô tả các nhân vật trong chính phủ như những tên lừa đảo và tội phạm đang hút máu hút mủ của đất nước ấy mà. Ngài còn lạ gì những trò đấy nữa.”
“Một lầm lẫn có thể hiểu được,” Ông trùm nói, chấp nhận lời giải thích. Ông bực mình hơn cả với bọn người đã chuẩn bị cỗ kiệu – hẳn bọn họ đã làm ăn rất cẩu thả khi buộc thi thể Shankar vào kiệu, vì chỉ sểnh tí nó đã lăn xuống. Cùng lúc, ông lại tự lý giải, đó không hoàn toàn là lỗi của họ, có lẽ họ chẳng có mấy kinh nghiệm khi xử lý một cái xác tan nát như của Shankar.
Vẫn chưa hết lúng túng vì xấu hổ, viên đội trưởng không ngớt lời xin lỗi. “Ngay khi nhận ra cái xác không phải là một hình nộm ước lệ, chúng tôi đã nhận ra ngay sai sót của mình. Sự việc quả thật rất đáng tiếc.” Ông gỡ chiếc mũ kếp đen ra. “Xin cho tôi gửi lời chia buồn.”
“Cảm ơn ngài,” Ông trùm nói, đoạn bắt tay vị kia.
“Xin hãy tin tôi, sẽ có kẻ bị kỉ luật vì nhầm lẫn này,” viên đội trưởng hứa, còn các thuộc cấp của ông ta vội vã đi nhặt lại phần thi thể đã bị rơi khỏi kiệu và lăn ra đường, cùng với vài thứ đồ tống táng khác.
Để chuộc lỗi, ông ta nhất quyết đòi bố trí một đội hộ tống chính thức cho đến hết quãng đường còn lại. Đội chống bạo động được lệnh chỉnh trang lại cỗ kiệu và gom nhặt hết cánh hoa bị rơi xuống đường vào giỏ. “Ngài đừng lo,” ông trấn an Ông trùm. “Chỉ ít phút nữa thôi, tất cả mọi người sẽ lại hành quân trật tự đến bãi hỏa táng.”
Khi đám đưa ma đã sạch cảnh càn quét, một chiếc ô tô đỗ lại bên lề đường và bấm còi. “Ôi không,” Dina kêu lên. “Anh trai dì đấy. Có lẽ ông ấy đang trên đường đi làm về.”
Ngồi ở ghế sau, Nusswan giơ tay vẫy và quay kính cửa sổ xuống. “Cô cũng đi đưa đám này à? Anh không biết là cô cũng có bạn người Hindu cơ đấy.” “Em có,” Dina đáp.
“Đám tang ai thế?”
“Một người ăn mày.”
Ông ta cười phá lên, rồi ngưng bặt và bước ra khỏi xe. “Đừng có đem những chuyện nghiêm túc ra làm trò đùa.” Hẳn là một nhân vật khá quan trọng, ông mường tượng, phải thế nào mới có cảnh sát hộ tống chứ! Có lẽ là vị tai to mặt lớn nào đấy ở tập đoàn Au Revoir, chủ tịch hoặc giám đốc điều hành chẳng hạn. “Thôi nào, đừng đùa nữa, ai thế?”
“Em đã bảo anh rồi. Là một người ăn mày.”
Nusswan há hốc rồi lại ngậm miệng vào: há vì điên tiết và ngậm vì khiếp đảm, khi nhận ra tính chất của đám rước. Ông hiểu rằng cô không hề nói đùa.
Giờ mồm ông lại há hốc ra, uất lặng, Dina bèn nhắc: “Khép mồm lại đi, Nusswan, kẻo ruồi lại bay vào bây giờ.”
Ông ta ngậm lại. Ông ta không thể tin nổi việc này đang xảy ra với mình. “Anh hiểu rồi,” ông chậm chạp nói. “Và cả đám ăn mày này là… bạn của người quá cố?” Cô gật đầu.
Hàng chục câu hỏi chạy qua đầu ông: Sao lại có hẳn đám ma cho một đứa ăn mày? Có cả cảnh sát hộ tống nữa? Mà sao em mình lại đi đưa, lại thêm thằng Maneck nữa? Ai chi cho vụ này? Nhưng câu trả lời có thể đợi sau. “Vào đi,” ông ra lệnh, đoạn mở cửa xe.
“Vào đi, ý anh là gì?”
“Nào, đừng có tranh luận. Vào đi, cả hai người. Tôi sẽ đưa cả hai về nhà.” Danh sách những nỗi bất bình chồng chất qua hơn ba chục năm, lướt loang loáng qua tâm trí ông. Giờ lại thêm cả chuyện này nữa. “Cô không được đi thêm một bước nào theo cái đám này nữa! Làm gì không làm, lại đi đưa ma một đứa ăn mày! Cô còn sa đọa đến mức nào nữa? Người ta sẽ nói gì nếu nhìn thấy em gái tôi…”
Ông trùm và viên đội trưởng bước tới chỗ họ. “Người này đang làm phiền cô à?”
“Không hề,” Dina đáp. “Đây là anh trai tôi. Anh ấy chỉ muốn gửi lời chia buồn về cái chết của Shankar.”
“Cảm ơn ông,” Ông trùm nói. “Tôi có thể mời ngài cùng dự đám rước được chăng?”
Nusswan ấp úng. “Ờ… tôi rất bận. Xin lỗi ông, để lúc khác nhé.” Ông ta biến vào xe, vội vã đóng chặt cửa lại.
Họ vẫy tay chào và trám lại chỗ của mình, thật ra quãng đường để bắt kịp cũng chẳng bao lăm, đoàn người mới di chuyển thêm được chưa đầy chục mét. Ông trùm đi lên phía trước đám và ghé vai đỡ kiệu thay một trong số mấy người cửu vạn đường sắt.
“Vui thật,” Dina quay sang nói với Maneck. “Dì nghĩ tối nay thế nào ông ấy cũng mơ thấy ác mộng. Về một cái giàn thiêu – danh tiếng của ông ấy tan tành mây khói.”
Maneck cười, nhưng suy nghĩ của cậu đang hướng về một lễ hỏa táng khác, tổ chức cách đây ba ngày. Nơi cậu lẽ ra phải có mặt. Nơi trật tự thế hệ của cái chết đã bị đảo lộn. Có lẽ ông bố má hóp của Avinash đã châm lửa giàn thiêu. Lửa nổ tí tách. Khói hun cay mắt. Và những ngón tay của lửa trêu chọc, đùa bỡn, mơn trớn cái xác. Khiến nó cong lên, như đang cố gắng ngồi nhổm dậy… dấu hiệu cho thấy linh hồn đang phản kháng, người ta thường nói thế. Avinash cũng thường cong người lên như thế khi chơi cờ, anh ta nằm ngửa, gần như duỗi dài trên giường, đầu ngoảnh sang, mắt ngắm nghía bàn cờ. Rồi chống khuỷu tay nhổm lên để với lấy quân cờ, đi nước của mình.
Chiếu tướng. Và tiếp đến là ngọn lửa.
Thời gian chậm chạp trôi đi, như thể nó đã mất hết hứng thú với cõi đời. Dina phủi bụi đồ đạc cùng hai chiếc Singer trong góc phòng. Chẳng có thứ gì thiếu sinh khí bằng mấy chiếc máy may câm lặng, cô nghĩ thầm.
Cô lại tự tạo việc cho mình bằng cách quay về với tấm chăn. Kéo thẳng một đường may, cắt tỉa một mảnh vải, căn chỉnh những điểm cô thấy chưa vừa mắt. Ánh nắng buổi chiều xuyên qua lớp kính ô thông gió, vẩy vô số chấm lốm đốm lên những vuông vải trong lòng cô.
“Dì ngồi dịch sang trái một chút đi,” Maneck nói.
“Để làm gì?”
“Cháu muốn xem mảnh vải vàng trông thế nào khi có thêm mấy đốm nắng.”
Cô tặc lưỡi, đoạn làm theo lời cậu.
“Đẹp thật,” cậu nói.
“Còn nhớ hôm đầu tiên nhìn thấy nó, cháu đã hồ nghi đến thế nào không?”
Cậu bật cười tự trào. “Hồi đấy cháu đã có kinh nghiệm gì về màu sắc và mẫu mã đâu dì.”
“Còn giờ cháu đã là đại chuyên gia rồi, phải không?” Cô kéo góc chăn đối diện vào lòng mình.
“Khi nào may xong, dì có đem trải lên giường của dì không?”
“Không.”
“Thế thì dì định đem bán à?”
Cô lắc đầu. “Cháu giữ bí mật giúp dì được không? Đây sẽ là quà cưới cho Om.”
Giả như chính cậu nghĩ ra ý tưởng ấy, cậu cũng không thể cảm thấy sung sướng hơn thế được. Khuôn mặt cậu dịu lại, cảm động vì kế hoạch của cô.
“Đừng bịu xịu như thế,” cô nói. “Dì cũng sẽ may một chiếc cho đám cưới của cháu mà.”
“Cháu có bịu xịu gì đâu, cháu nghĩ đấy là một ý tưởng số dách.”
“Nhưng đừng có đi ba hoa với chú Ishvar và Om ngay phút đầu tiên cháu gặp lại hai người ấy đấy. Dì sẽ hoàn thành nó khi công việc may vá chạy trở lại; lúc đấy dì sẽ nhận được vải mới của Au Revoir. Từ giờ đến đó đừng hở ra câu nào nhé.”
Kì thi của Maneck đã kết thúc; cậu nghĩ hầu hết các bài mình làm đều khá tệ. Cậu cầu mong sao điểm số đủ cao để giúp cậu được vào chương trình lấy bằng ba năm.
Dina hỏi cậu thi thế nào, cậu đáp “Tốt ạ.”
Cô nghe ra sự thiếu thuyết phục trong giọng cậu. “Phải chờ khi nào có kết quả rồi mới biết tốt đến đâu.”
Buổi tối cuối cùng, dưới sự hối thúc của Dina, cậu đành phải chiều theo những lời cầu khẩn của mẹ trong thư và rốt cuộc cũng đi thăm họ hàng. Cậu mất hai tiếng đồng hồ chịu đựng gia đình Sodawalla vồn vã sốt sắng và cự tuyệt khoảng chục loại đồ ăn vặt và đồ uống ướp lạnh. “Cảm ơn mọi người, nhưng cháu đã ăn rồi ạ.”
“Lần sau cháu phải nhịn đói trước khi đến đây nhé,” họ nói. “Cả nhà chỉ muốn được hưởng niềm vui cho cháu ăn thôi đấy.” Họ cất đồ ăn thức uống đi và cố nài cậu cùng cả nhà đi xem phim và đến tối muộn, mời cậu ngủ lại.
“Cháu xin phép, cháu phải về đây ạ,” Maneck nói khi cảm thấy cậu đã chịu trận đủ lâu. “Ngày mai cháu phải đi từ sớm.”
Về đến căn hộ của Dina, cậu đổ lỗi cho cô đã làm hỏng cả buổi tối của cậu. “Cháu sẽ không đi thêm một lần nào nữa đâu, dì. Họ nói liên tu bất tận và cư xử như những đứa trẻ con ngớ ngẩn.”
“Đừng nhỏ nhen thế, họ đều là ruột thịt của mẹ cháu cả đấy.”
Cô giúp cậu lấy chiếc va li không cất trên nóc tủ xuống, rồi phủi bụi cho nó. Vừa nhìn cậu dọn đồ, cô vừa liên tục xen vào để khuyên bảo, nhắc nhở, hướng dẫn: nhớ đừng quên, lấy cái này đi, làm cái kia đi. “Và quan trọng nhất là phải ngoan ngoãn với bố mẹ cháu, đừng bao giờ tranh cãi gì với họ. Suốt một năm qua họ đã nhớ nhung cháu biết bao.
Nghỉ ngơi vui vẻ nhé.”
“Cảm ơn dì. Mà dì đừng quên cho bọn mèo ăn nhé.”
“À xin vâng ạ, dì sẽ cho bọn nó ăn. Thậm chí dì sẽ nấu những món chúng thích nhất nữa. Dì có nên mang dao nĩa lên hầu chúng không, hay chúng chỉ ăn bốc thôi?”
“Không cần đâu, dì ạ, dì giữ bộ dao nĩa cho con dâu dì đi.
Ba tuần nữa là cô ấy đến đây rồi.”
Cô dọa đánh cậu. “Vấn đề là, mẹ cháu không chịu đánh cháu thường xuyên hơn hồi cháu còn bé.”
Sáng sớm tinh mơ hôm sau, cậu ôm cô và lên đường.
Sự trở lại của cô độc không hẳn giống như Dina đã mường tượng. Suốt bao năm qua, mình đã nặn ra một phẩm chất tốt đẹp cho hiện thực không thể vượt thoát khi gọi nó là yên bình và tĩnh tại, cô nghĩ thầm. Ấy thế mà, cớ sao cô lại có cảm giác cô đơn trở lại sau khi đã sống một mình gần hết cuộc đời này? Chẳng lẽ trái tim và trí óc không học được điều gì ư? Một năm thôi đã đủ để tàn hại bản tính kiên cường bền bỉ của cô tới mức này sao?
Đã không biết bao nhiêu lần cô giở lịch xem ngày: Còn ba tuần nữa Ishvar và Om mới quay lại; và tiếp đó là thêm ba tuần mới đến lượt Maneck.
Ngày ngày rề rà trôi qua. Cô quyết định đây chính là cơ hội tốt để tặng căn nhà một chầu dọn dẹp từ trên xuống dưới. Ở bất cứ phòng nào, cô cũng nghe thấy âm vang từ những cuộc đùa bỡn không mệt mỏi của hai bác cháu thợ may, quấn riết lấy cô khi cô cọ rửa bếp, quét trần nhà bằng cây chổi cán dài, lau các ô cửa sổ và ô thông gió, gột tẩy sàn nhà.
Trong phòng Maneck, cô tìm thấy bộ cờ của bạn cậu cất trong tủ. Chắc chờ đến khi trường mở cửa trở lại sẽ trả, cô đoán.
Tiếp theo, tủ của riêng cô cũng được trút hết đồ đạc, ngoại trừ ngăn kéo dưới cùng. Cô lau chùi phía trong, sắp xếp đống vải thừa từ công ty Au Revoir và phân loại quần áo của mình. Những món cô không còn mặc nữa được để riêng thành một chồng. Để cho vợ Om. Dĩ nhiên, còn tùy thuộc khổ người của cô ta. Và còn xem cô ta thuộc loại người nào nữa.
Sau đó, Dina chuyển sang xử lý ngăn kéo dưới cùng, được lèn chật cứng vải vụn từ mỗi ngày may vá trong suốt một năm trời, những mụn vải bé con con, chẳng dùng được vào việc gì trừ nhồi băng vệ sinh nhà làm. Cô xọc tay vào và cả một núi vụn đổ tung ra như thác, khiến cô bật cười thành tiếng. Cả năm chục năm hành kinh nữa cũng không thể tiêu thụ hết ngần này ruột bông. Cô nhồi một lượng vừa đủ vào một cái túi và chuẩn bị đem vứt bỏ toàn bộ phần còn lại.
Rồi cô bỗng nghĩ đến vợ Om. Chắc chắn tuổi trẻ và sức sống của cô ta có thể dùng hết một lượng rất lớn. Cứ để dành luôn là hơn, cô nghĩ bụng, đoạn hân hoan nhét hết số vải trở lại ngăn kéo.
Khối lượng công việc dọn dẹp khổng lồ giúp khỏa lấp nhiều ngày trôi qua. Cô dồn tâm trí sang đoạn hành lang, chỉ ít lâu nữa sẽ trở thành nhà cho cặp đôi mới cưới cùng ông bác. Một bọc chiếu gối của hai người thợ may thì chưa đủ, cô nghĩ, và bắt tay vào làm thêm khăn trải và vỏ chăn từ chỗ vải thừa của công ty Au Revoir.
Bàn đạp chân của chiếc máy Singer mà Ishvar vẫn dùng quá khó điều khiển đối với cô. Cô chưa bao giờ sử dụng kiểu máy này trong suốt những năm làm nghề may. Cô chuyển sang chiếc máy quay tay nhỏ của thím Shirin, và thấy rất thú vị. Với mỗi đường chỉ may được, cô lại tự nhủ: thật may khi có ngần này vải để đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người.
Cảnh tượng Ishvar, Om, và vợ Om cùng ngủ trên hành lang khiến cô hơi khó chịu. Cứ thử tưởng tượng nếu trong đêm tân hôn của mình, chú Darab và dì Shirin lại ngủ cùng một phòng với mình và Rustom thì sao, cô nghĩ.
Giải pháp duy nhất cô có thể nghĩ ra là chăng một tấm rèm ngăn ở chính giữa hành lang. Cô đo khoảng cách, rồi nối những mảnh vải dày dặn nhất trong kho vải thừa lại với nhau. Một bức tường giả cũng còn hơn là không có gì.
Cô hi vọng Ishvar và Om sẽ hài lòng với nỗ lực của cô. Cô đã làm những gì mình có thể. Nếu cô vợ mới chỉ cần cố gắng bằng một nửa như thế, cô tin chắc họ sẽ chung sống hòa thuận bên nhau.
Hai chiếc đinh cộng thêm một đoạn dây, và chiếc vách ngăn ước lệ đã được dựng lên. Cô đứng lùi lại, xem xét từng bên mép rèm. Cuộc sống của người nghèo quả thật rất giàu biểu tượng, cô kết luận.