Nguyên tác: Kidnapped
Số lần đọc/download: 410 / 22
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Chương 15 - Tôi Đi Qua Đảo Mull Với Chiếc Khuy Bạc Của Alan
V
ùng được gọi là con ngựa đảo Mull mà tôi đang dừng chân là một vùng gồ ghề, cũng vô chủ như hòn đảo tôi vừa rời khỏi. Khắp nơi là bùn lầy, lau sậy và vách đá. Những người biết rõ nó chắc sẽ tìm thấy đường đi, còn tôi thì luôn luôn phải mò mẫm. Người dẫn đường duy nhất cho tôi là biển Bon More trước mặt.
Ban đầu tôi đi về hướng có khói bốc lên mà khi còn ở trên đảo tôi luôn luôn quan sát.
Mặc dù mệt mỏi, địa bàn lại khó đi, khoảng giữa năm và sáu giờ chiều tôi đã đến được ngôi nhà nằm ngay trong thung lũng. Đó là một nhà nhỏ, dài và thấp, mái lợp bằng cỏ, tường ghép bằng đá thô không có vữa.
Trước nhà, trên một mô đất có một ông già ngồi hút một cái tẩu nhỏ.
Với chút tiếng Anh ít ỏi, nói ra rất khó khăn ông cũng làm tôi hiểu là các bạn tôi trên tàu đã lên bờ bình yên và một ngày sau đó, trong ngôi nhà này họ đã chia sẻ miếng bánh này với ông.
— Có một người ăn mặc như quý tộc trong đó không? – Tôi hỏi.
Ông nói rang tất cả đều mặc áo khoác bẩn thỉu, đúng là người đầu tiên bước vào mặc quần lửng, mang tất dài còn những người khác mặc quần thủy thủ.
— Và người thứ nhất đội mũ lông chim? – Tôi hỏi.
Ông già lắc đầu. Người đàn ông đó đầu trần như tôi.
Ban đầu tôi nghĩ có thể bị đắm tàu Alan đã đánh rơi chiếc mũ, sau đó tôi cho rằng có thể do cơn mưa anh đã giấu mũ dưới áo cho an toàn. Tôi phải mỉm cười vì ý nghĩ đó, thứ nhất do sung sướng vì bạn tôi đã được cứu thoát và thứ hai vì tôi chợt nghĩ anh sẽ kiêu ngạo ra sao nhất là về cái gì liên quan đến y phục.
Bỗng nhiên ông già đập tay vào trán và kêu lên rằng chắc tôi phải là cậu bé có chiếc khuy bằng bạc.
— Tất nhiên đó là cháu. – Tôi kêu lên ngạc nhiên.
— Ồ, – Ông già nói – thế thì tôi có tin cho cậu. Cậu cần đi theo bạn cậu qua Torosay về quê anh ta.
Sau đó ông hỏi tôi chuyện xảy ra như thế nào và tôi kể cho ông cuộc phiêu lưu của tôi. Ở miền Nam chắc người ta sẽ cười về câu chuyện của tôi. Những người điền chủ già – tôi gọi ông như vậy vì cách cư xử cho thấy nguồn gốc giàu sang của ông dù bây giờ quần áo của ông có tả tơi lộ hết da thịt đi nữa – người điền chủ già đã nghe tôi kể với một bộ mặt nghiêm trang và sự thông cảm hoàn toàn. Khi tôi kể xong, ông cầm tay tôi, dẫn tôi vào trong lều – vì có lẽ nếu gọi là nhà thì nó phải khác cơ – và giới thiệu với vợ một cách trịnh trọng, cứ như bà là hoàng hậu và tôi ít nhất cũng là một công tước không bằng.
Người phụ nữ tốt bụng đặt trước mặt tôi bánh mì và một con gà gô rán nguội, vỗ vào vai tôi và luôn cười thân mật vì bà không biết tiếng Anh.
Ông già không chịu thua, rót cho tôi một vại rượu pân tự nấu lấy. Tôi ăn ngấu nghiến và uống, không tin nổi vận may của mình. Mặc dù mái và vách lều nhỏ làm bằng cỏ đầy khói này thủng lỗ như một cái sàng, đối với tôi nó như một lâu đài.
Rượu pân đã làm tôi đổ mồ hôi và ngủ một giấc sâu, ngon lành. Những con người tốt bụng này không muốn đánh thức tôi và khi tôi thức dậy vào hôm sau thì đã gần trưa. Cổ tôi không còn đau như trước, thức ăn ngon cộng với tin tức tốt lành đã làm tinh thần tôi sống lại. Ông già nhất định từ chối không lấy tiền khi tôi cố ép ông chấp nhận. Ông tặng tôi một cái mũ cũ để khỏi phải đi đầu trần. Nhưng khi đã xa căn nhà không còn có thể nhìn thấy nữa, tôi đã phải giặt nó bên một dòng suối.
Nếu đó là những người cao nguyên hoang dã, tôi nghĩ, thì tôi mong đồng bào ở quê tôi hãy hoang dã hơn một chút.
Tôi không chỉ đã lên đường muộn mà còn luôn luôn lạc lối. Tất nhiên tôi gặp khá nhiều người đang vun trồng trên cái thửa ruộng cằn cỗi của mình, với thu nhập đó chắc họ không nuôi nổi một con mèo. Những người khác thì chăn những con bò không lớn hơn những con lừa. Từ sau cuộc nổi dậy họ bị cấm mặc y phục cao nguyên. Họ phải ăn mặc như dưới đồng bằng, dù họ hoàn toàn không muốn và quần áo của họ bây giờ rách nát thảm hại. Một số chỉ quấn một cái măng tô hay áo vét dài, phía dưới để đầu trần. Quần của họ được vắt trên vai như một vật vô dụng. Một số làm từ những mảnh vải vụn nhiều màu, tạo ra một thứ giống như áo Scot. Rất nhiều người vẫn mang y phục của người cao nguyên giống như trước đây, chỉ tội quần may rất thô thiển. Nhưng những thứ tạm bợ đó cũng bị cấm và sẽ bị phạt nặng. Vì với hy vọng bẻ gẫy sự chống đối của người cao nguyên luật kể trên được giữ nghiêm ngặt. Nhưng ở trên một hòn đảo trơ trọi, bị biển bao xung quanh này chỉ rất ít người muốn làm theo hoặc tố cáo việc đó.
Dân đảo Mull sống có vẻ rất nghèo khổ, điều này chẳng làm ai ngạc nhiên vì quân khởi nghĩa đã bị đàn áp và thủ lĩnh của họ không thể sống công khai nữa. Trên các con đường, ngay cả một số đường quê khó đi mà tôi đã qua, đầy những người ăn xin. Và ở đây tôi cũng thấy rõ sự khác nhau giữa quê tôi và vùng này của Scotland, ở đồng bằng, những người ăn xin kể cả những cậu bé lang thang, đều vụng về, nhút nhát, nếu người ta cho họ một đồng tiền lớn và yêu cầu thối lại số tiền dư thì họ làm theo rất lịch sự. Còn những người cao nguyên này, như họ nói, cần bảo vệ danh dự của mình, chỉ xin chút ít khi cần bột thuốc lá hít. Họ không bao giờ thối lại tiền nhỏ.
Trên đường đi tôi gặp lối cư xử đó, nó làm tôi quan tâm đến và làm tôi thích thú. Điều khó khăn lớn là quá ít người nói được tiếng Anh và số người này, nếu không thuộc đám ăn xin, thì rất ít khi họ chỉ đường cho tôi. Tôi chí biết rằng mục tiêu của mình là Torosay, luôn luôn nhắc lại cái tên đó và dùng tay hỏi hướng đi. Nhưng đáng lẽ dùng động tác để chỉ đường cho tôi thì họ lại nói một tràng tiếng Gaelic làm đầu óc tôi quay cuồng. Không có gì ngạc nhiên là tôi thường hiểu sai và đi nhầm đường.
Cuối cùng, vào một tối khuya, đã khá kiệt sức, tôi đến được một căn nhà trơ trọi. Tôi yêu cầu một chỗ ngả và bị từ chối ngay. Tôi hiểu ra là một người có tiền trong túi có sức mạnh như thế nào ở đất nước nghèo nàn này. Tôi giơ cao đồng tiền vàng giữa hai ngón tay, người chủ nhà trước đó làm như không biết tiếng Anh, chỉ dùng ký hiệu bào tôi rời khỏi cửa, bỗng nhiên hiểu rất rõ những điều cần thiết. Ông ta giải thích là sẵn sàng cho thuê một chỗ ngủ với giá năm si-linh và hôm sau sẽ đưa tôi đến Torosay.
Tôi ngủ không yên trong đêm vì lo sợ bị cướp. Đáng lẽ tôi khỏi lo chuyện đó vì chủ nhà không phải là kẻ cắp, chỉ có quá nghèo và bần tiện mà thôi. Sự nghèo khó không chỉ một mình ông ta có vì vào ngày hôm sau chúng tôi phái đi bộ năm dặm đến một nhà mà ông ta nói là giàu, có thể đổi tiền vàng cho tôi. Trên đảo Mull này, ông ta được coi là giàu, còn ở miền Nam người ta sẽ nghĩ khác. Ông ta phải lấy tất cả số tiền có trong nhà, chạy sang cả hàng xóm mới thu nhập được hai mươi si-linh bạc. Còn thiếu một bảng ông ta xin nợ và luôn luôn giải thích là ông ta không muốn giữ một số tiền lớn như thế trong nhà. Còn thì ông ta rất cởi mở, nói rất nhiều, đã mời chúng tôi cùng ăn trưa với gia đình. Ông đổ vào một bát sứ lớn một loại rượu pân và người dẫn đường bất lương của tôi ham tới mức nhất định từ chối lên đường.
Tôi đã muốn nổi giận và đề nghị sự giúp đỡ của con người “giàu có” mang tên Hector Maclean người đã chứng kiến sự thỏa thuận của chúng tôi và đã trông thấy tôi trao cho người dẫn đường năm si-linh. Nhưng Maclean đã uống phần rượu pân của mình và tuyên bố: không một người tử tế nào có thể rời bàn ăn của ông khi vừa mới uống xong rượu pân. Như vậy tôi không còn cách gì khác là ngồi nghe dân Jakobit chúc rượu và hát những bài Gaelic cho đến lúc tất cả say mèm, bò lên giường hoặc chui vào nhà kho ngả nốt phần còn lại của đêm.
Vào hôm sau, ngày thứ tư tôi bị lạc, chúng tôi lên đường trước năm giờ. Nhưng tay dẫn đường bất lương của tôi lại xách theo một chai rượu mạnh và phải ba tiếng sau tôi mới kéo được hắn ra khỏi nhà. Bạn đọc sẽ biết ngay bây giờ: tôi đã vô cùng thất vọng.
Lúc chúng tôi đang xuống một cái dốc đầy những bụi thạch thảo trước nhà Maclean, mọi việc còn êm đẹp, nhưng tay dẫn đường luôn nhìn về phía sau, khi tôi hỏi duyên cớ, hắn ta chỉ nhăn mặt, không nói gì. Khi chúng tôi vừa leo qua một giờ nữa và không còn nhìn thấy nhà Maclean, hắn nói là Torosay đang ở trước mặt và ngọn núi mà anh ta chỉ cho tôi sẽ là người dẫn đường tốt nhất.
— Tôi không quan tâm đến điều đó. – Tôi tuyên bố – Vì anh cùng đi với tôi đến đó.
Tay hỗn xược này trả lời tôi bằng tiếng Gaelic, bây giờ hắn lại không hiểu tiếng Anh.
— Này anh bạn, – Tôi nói – tôi biết rõ là kiến thức tiếng Anh của ngài khi còn, khi mất. Hãy nói cho tôi biết làm sao nó quay lại bây giờ. Ngài muốn có tiền không?
— Thêm năm si-linh nữa và tôi sẽ tự đưa ngài tới Torosay.
Tôi suy nghĩ một lát, rồi đưa cho hắn hai si-linh, hắn chấp nhận ngay. Nhưng tôi phải đưa ngay tiền cho hắn, hắn nói rằng điều đó sẽ đem đến may mắn cho hắn, nhưng lại mang nhiều hơn bất hạnh cho tôi.
Hai si-linh chỉ đưa hắn đi được vài dặm. Sau đó hắn ngồi xuống vệ đường và tháo đôi giầy bẩn thỉu ra, như cách người ta vẫn làm khi muốn nghỉ lâu.
Người tôi dần dần sôi lên. Tôi hét lên giận dữ:
— Hả, anh lại quên tiếng Anh rồi à?
Hắn trả lời hỗn xược:
— Đúng.
Đó là quá quắt với tôi. Tôi giơ tay định tống cho hắn một quả, nhưng hắn đã rút con dao găm từ trong đám quần áo bẩn thỉu ra và như một con mèo rừng, muốn nhảy vào tôi. Trong nỗi căm giận, tôi quên hết tất cá, liền nhảy vào hắn, dùng tay trái đánh bật con dao và tay phải đấm vào miệng hắn. Tôi là một thanh niên khoẻ mạnh và giận dữ, còn hắn chỉ là một con người nhỏ nhoi, yếu đuối, đã ngã gục xuống. Con dao văng ra, tôi cầm lấy cùng với đôi giầy của hắn và tiếp tục cuộc hành trình. Hắn nằm lại, không giày dép, không vũ khí.
Trong lúc tiếp tục đi, tôi sung sướng cười một mình vì đã thoát được tay dẫn đường này với nhiều lý do. Thứ nhất, hắn không còn lấy được tiền của tôi nữa, ngoài ra mang đôi xăng đan thô thiển và con dao găm của hắn là điều cấm kỵ ở đây.
Sau khoảng nửa giờ đi rất nhanh, tôi vượt, một tay cao kều, quần áo tả tơi. Anh ta đi rất nhanh nhưng dùng một cái gậy dò đường phía trước. Anh ta bị mù hoàn toàn. Anh ta kể với tôi rằng anh ta là người dạy giáo lý vấn đáp, điều này làm tôi yên tâm. Nhưng tôi không thích bộ mặt anh ta, trông rất khó chịu, vẻ đe dọa và quỉ quyệt. Khi đi bên cạnh, tôi trông thấy một nòng khẩu súng lục thò ra khỏi áo măng tô. Bị bắt với cái đó trong người ở xứ này, lần thứ nhất sẽ bị phạt mười lăm bảng, lần thứ hai đày đi thuộc địa. Tôi cũng không hiểu được tạ sao một người đi giảng đạo lại phải mang theo súng và một người mù thì dùng súng làm gì.
Tôi kể cho anh ta nghe chuyện về người dẫn đường vì tôi đang tự hào về việc đã làm và đây là một lần tính kiêu ngạo của tôi vượt lên lý trí. Khi tôi nhắc đến năm si-linh, anh ta kêu to đến nỗi tôi phải quyết định không kể thêm về hai đồng bảng còn lại nữa. Tôi rất mừng là anh ta không thấy mặt tôi đỏ bừng lên như thế nào.
— Thế là nhiều quá à – Tôi hoi.
— Quá nhiều! – Anh ta kêu lên – chỉ cần một ly rượu tôi sẽ đưa anh tới Torosay và ở đó anh có thể ở chỗ tôi. Tôi không phải là người không được học hành.
Tôi không hiểu một người mù sẽ làm người dẫn đường như thế nào. Nhưng anh ta đã cười lớn vì việc đó và nói rằng cái gậy cũng giá trị như đôi mắt chim đại bàng.
Ngừng một lát, anh ta nói thêm:
— Ít ra trên đảo Mull này tôi biết rõ từng bụi thạch thảo, từng viên đá. Anh hãy trông đây này, – Anh ta nói để chứng minh ý kiến của mình – bên dưới kia là một dòng suối nhỏ và ở kia, chỗ thác chảy, là một ngọn đồi nhỏ có một khối đá trên đỉnh, và sát chân đồi con đường chạy giữa rừng về Torosay, con đường mọc đầy cỏ và bị dẫm nát.
Tôi phải công nhận tất cả điều đó đều đúng. Tôi rất ngạc nhiên và nói với anh ta điều này.
— Ồ, – Anh ta nói vẻ thỏa mãn – đó chưa phải là tất cả. Anh có tin là trước khi có lệnh cấm vũ khí ở nước này, tôi đã có thể bắn rất giỏi không. Và anh cần biết tôi có thể bắn như thế nào! – Anh ta kêu lên và luôn tiến sát người tôi trong khi tôi luôn né tránh, sau đó anh ta nói thêm – Nếu anh có một loại như súng lục bên mình, tôi sẽ chỉ cho.
Tôi nói với anh ta là tôi không có vũ khí bên mình và tìm cách tụt lại sau một chút. Nếu anh biết rằng cái nòng súng của anh ta đã nhô ra khỏi túi và lúc này nước thép đang ánh lên dưới mặt trời! Rất may cho tôi là anh ta không biết gì và tưởng đã giấu kỹ súng rồi. Vì không biết vậy, nên anh ta tiếp tục nói dối tỉnh khô.
Sau đó anh ta hỏi một cách tinh quái rằng tôi từ đâu tới, có giàu không, liệu có đổi anh ta một đồng năm bảng được không, đồng năm bảng mà anh ta tình cờ mang trong ba lô. Chúng tôi đang đi trên con đường đầy cỏ, con đường đi của súc vật, qua ngọn đồi tới Torosay. Như trong một điệu múa Gaelic, chúng tôi nhảy từ bên nọ sang bên kia. Rõ ràng tôi có ưu thế hơn anh ta nên tinh thần phấn chấn hơn và cái trò chơi gà mù này bắt đầu làm tôi vui vui. Nhưng tay dạy giáo lý vấn đáp này càng ngày càng bực tức và bắt đầu chửi bới ầm ĩ, tìm cách đập gậy vào chân tôi. Vì vậy tôi nói với hắn là tôi cũng có một khẩu súng trong túi như hắn, hắn cần biết điều đó. Và nếu bây giờ hắn không nhanh chóng biến đi, tôi sẽ thổi tắt tất cả ánh sáng cuộc sống của hắn.
Lập tức hắn trở nên lịch sự vô cùng. Sau khi tìm cách xoa dịu tôi không có kết quả, hắn lại chửi rủa bằng tiếng Gaelic và đi khỏi.
Tôi nhìn theo, thấy hắn dùng cái gậy dò phía trước, bước những bước dài, vội vã qua bùn lầy và bụi rậm cho tới khi mất hút sau một quả đồi trong thung lũng. Sung sướng lại được ở một mình, không bị vướng vào con người “được giáo dục tinh vi đó”, tôi lên đường tới Torosay. Đó là một ngày rủi ro đối với tôi, hai tên lừa đảo mà tôi may mắn thoát khỏi cũng là những kẻ đê tiện nhất mà tôi gặp ở cao nguyên.
Ở Torosay, trong eo biển của đáo Mull có một nhà trọ với phong cảnh của đất liền và một ông chủ nhà, cũng tên là Maclean có lẽ xuất thân từ tầng lớp quý phái. Ở cao nguyên, một quán ăn có giá hơn nhiều ở quê tôi, có lẽ là do nghề đó cần sự hiếu khách, cũng có thể vì đó là nghề nghiệp cho những kẻ lười biếng, rượu chè be bét.
Người chủ quán nói tiếng Anh rất tốt và khi thấy tôi có học chút ít, đầu tiên ông tìm cách nói chuyện bằng tiếng Pháp – về mặt này ông ta hơn tôi – sau đó bằng tiếng La-tinh, ở đây không rõ ràng ai trong chúng tôi trội hơn. Cuộc thi vui vẻ này lập tức tạo ra quan hệ thân mật. Chúng tôi ngồi với nhau rất lâu, tôi uống rượu pân với ông, hoặc nói đúng hơn, tôi ngồi nhìn ông uống cho đến khi không còn tỉnh táo nữa và dựa vào vai tôi ngủ ngon.
Tôi đã thử hỏi ông về chiếc khuy bạc của Alan, nhưng rõ ràng ông chưa bao giờ nhìn thấy và nghe nói về bạn tôi, ông nghi ngờ là có một sự đe dọa ngấm ngầm nào chống lại Ardshiel và họ hàng của ông ta. Trước khi say, ông đã đọc cho tôi nghe bài thơ châm biếm bằng tiếng La-tinh, rõ ràng có tất cả ác ý về một người nào đó của dòng họ Ardshiol.
Khi tôi kể về người dạy giáo lý vấn đáp, ông lắc đầu và nói rằng tôi đã gặp may, thoát khỏi hắn một cách nhẹ nhàng như vậy.
— Đó là một tên rất nguy hiểm, – Ông nói – hắn tên là Ducan Makkiegh. Tay này bắn súng dựa vào tiếng động ở khoảng cách vài bước chân, hắn cũng đã bị ra tòa nhiều lần vì tội cướp đường và một lần vì định giết người.
— Điều lạ lùng là hắn nhận là làm nghề dạy giáo lý. – Tôi nói.
— Tại sao lại không? Đúng hắn là một người như vậy. Maclean of Duart đã giao việc đó cho hắn mà. Có lẽ chính đó là nỗi bất hạnh của hắn. – Người chủ quán nói tiếp. – Vì do vậy hắn luôn luôn phải đi lại từ vùng này sang vùng khác để kiểm tra đám thanh niên về giáo lý. Cuộc sống du hành đó chắc chắn là một thử thách đối với con người nghèo khổ này.
Cuối cùng, khi người chủ quán không còn uống nổi nữa, ông chỉ cho tôi chỗ có thể nằm ngủ và tôi nằm xuống ngủ ngon lành. Tôi chẳng đã lội bộ qua vùng rộng nhất đảo Mull dài và lởm chởm này, từ Earaid đến Torosay, năm mươi dặm đường chim bay hay sao?
Ở cuối cuộc hành trình này tôi thấy mạnh hơn và tự tin hơn là lúc bắt đầu.