Thất bại đến với ta không phải làm ta buồn mà giúp ta thêm tỉnh táo, không làm ta hối tiếc mà khiến ta trở nên sáng suốt.

Henry Ward Beecher

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Đỗ Thư
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 186 / 18
Cập nhật: 2020-07-09 16:11:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
XV - Những Điều Trong Cuộn Phim
hính Elliot là người mở những tấm rèm trên một chiếc cửa sổ ra. Ánh sáng ban ngày tràn vào với sắc xám nhạt, làm chùm tia phát ra từ máy chiếu mờ hẳn đi, hé lộ hình ảnh thiếu tá Crow đứng trước một bức tranh vẫn đang bị bóp méo và yếu ớt mắc kẹt trên tấm màn treo giữa những cánh cửa xếp.
Và sự hào hứng của thiếu tá Crow đang không ngừng gia tăng.
“Thanh tra,” ông nói, “bản thân tôi chưa bao giờ thông thạo trong việc phân tích. Nhưng việc này quá rõ ràng đến mức chúng ta không thể nào bỏ qua được. Anh biết chứ? Marcus Chesney già nua tội nghiệp thực sự đã lên kế hoạch theo cách mà người khác có thể giết ông ấy.”
“Vậy nên?” tiến sĩ Fell trầm ngâm quan sát.
“Joe Chesney có thể đã biết tất cả về chiếc đồng hồ và ảo ảnh bóng. Anh có thấy điều đó không? Hoặc ông ta có thể quanh quẩn gần Bellegarde sau bữa tối. Marcus và Wilbur Emmet đang nghiên cứu về màn trình diễn, với những cánh cửa sổ để mở, trong gần ba giờ đồng hồ. Hoặc là, có nhiều khả năng hơn, Marcus và Emmet đã lên kế hoạch cho màn trình diễn từ nhiều ngày trướcv và Joe có thể đã biết hết mọi chuyện từ trước đó rồi.
“Ông ta biết Marcus sẽ không bắt đầu buổi diễn cho tới khi cây kim đồng hồ đó chạy đến chỗ thẳng đứng. Bình thường thì, anh biết đấy, chiếc đồng hồ đó sẽ không thể can thiệp vào được. Marcus không thể dịch chuyển được những cây kim. Nếu Joe có thể tạo ra một bằng chứng ngoại phạm tại nhà của Emsworth, nếu ông ta có thể trở lại Bellegarde, và nếu Marcus chọn bắt đầu buổi diễn vào thời điểm sau nửa đêm chứ không phải là thời điểm trước nửa đêm, Joe Chesney sẽ gặp may. Và chờ đã! Có một điều (Chúa ơi, tôi mới chỉ vừa nghĩ về điều này) có một điều ông ta chắc chắn phải làm sau đó.”
“Làm gì?” Elliot nói.
“Ông ta phải giết Wilbur Emmet,” thiếu tá nói. “Emmet biết tất cả về cái bẫy trong chiếc đồng hồ. Và có bao nhiêu người quanh đây, anh nghĩ, biết về cách sử dụng kim tiêm dưới da?” Thiếu tá có vẻ hoàn toàn tin tưởng vào lí thuyết của mình. “Các quý ông, chuyện đó cũng đơn giản như bất cứ thứ gì tôi từng nhìn thấy. Ông ta thông minh, gã đó cũng vậy. Ai sẽ nghi ngờ ông ta chứ?”
“Anh,” tiến sĩ Fell nói.
“Thế thì sao?”
“Trên thực tế, anh đã nghi ngờ ông ấy từ lâu,” tiến sĩ chỉ ra. “Ông ấy là nghi phạm đầu tiên anh nghĩ tới. Tôi ngờ rằng từ lâu trong đầu anh đã khuấy lên một sự ngờ vực sâu sắc về cách cư xử quá om sòm của Joseph Chesney. Nhưng cứ tiếp tục đi.”
“Trời, tôi chẳng có gì chống lại ông ta cả!” thiếu tá Crow phản đối một cách hơi cáu kỉnh. Ông lại trở về trạng thái kiểu cách lần nữa, và quay sang Elliot. “Thanh tra, đây là vụ án của anh. Sau sáng hôm nay, tôi sẽ chẳng còn việc gì để làm với nó hết. Nhưng tôi cho là anh đã có vài bệ đỡ rất chắc chắn ở đây. Mọi người đều biết Joe Chesney chán ghét công việc của mình, và đúng là thế. Và rằng Marcus bằng cách nào đó đã giữ ông ta phải làm việc hoặc buộc ông ta phải làm việc. Cho đến nay, đó là những luận điểm đáng quan tâm nếu anh muốn bắt giữ ông ta…”
“Những luận điểm nào?” tiến sĩ Fell chen ngang.
“Tôi không hiểu ý anh lắm.”
“Tôi nói: những luận điểm nào cơ?” tiến sĩ Fell lặp lại. “Trong giả thiết cực kì thông minh của mình, anh dường như đã quên đi một sự kiện nhỏ thôi nhưng có thể vô cùng quan trọng. Joseph Chesney không phải là người chơi khăm anh bằng chiếc đồng hồ đó. Là anh trai của ông ấy, Marcus. Anh đã bị cuốn theo những bằng chứng lẫn lộn và đi sai hướng. Anh đang kết tội nhầm người đấy.”
“Thì đúng là vậy, nhưng…”
“Và do đó,” tiến sĩ Fell nhấn mạnh, “do vài trò quỷ thuật tâm lí mà anh đã tự thuyết phục mình rằng anh nên bắt giữ một người đơn giản chỉ bởi vì anh phá vỡ được một bằng chứng ngoại phạm mà ai đó khác đã dựng nên cho ông ấy. Anh thậm chí còn không nghĩ tự ông ấy đã dựng nên bằng chứng đó. Anh muốn bắt ông ấy chỉ đơn giản bởi vì ông ấy không có bằng chứng ngoại phạm. Tôi sẽ không bình luận gì nữa về những sơ hở khá rõ ràng trong giả thuyết của anh, tôi sẽ chỉ giới hạn bản thân mình vào sự quan sát đơn giản mà anh không thể làm được ở đây thôi.”
Thiếu tá Crow rõ ràng đã bị xúc phạm.
“Tôi không hề nói bất cứ lời nào về việc bắt giữ Joseph Chesney. Tôi biết chúng ta cần phải có bằng chứng. Nhưng ông có gợi ý gì không?”
“Cứ tiếp tục xem cuốn phim thì sao, thưa ngài, Bostwick đề nghị, “và tìm ra sự thật đằng sau mọi chuyện?
“Hả?”
“Cái gã trong chiếc mũ chóp cao. Chúng ta vẫn chưa thấy anh ta.”
“… và hi vọng mọi người hiểu rằng,” tiến sĩ Fell nói một cách dữ dằn, khi mọi người lần nữa ngồi vào chỗ và những tấm màn lại được kéo lại, “lần này sẽ không ai làm gián đoạn quá trình chiếu phim nữa chứ? Đồng ý không? Tốt! Vậy thì làm ơn cố im lặng, kiềm chế bản thân và cùng xem chuyện gì đang xảy ra. Bắt đầu lại đi, anh Stevenson.”
Một lần nữa tiếng click và tiếng rè rè ngâm nga của chiếc máy chiếu lại tràn ngập căn phòng. Màn hình trình chiếu khiến họ im lặng, thậm chí còn không có cả tiếng ho và tiếng cựa người sột soạt. Giờ đây, khi Elliot nhìn vào màn hình, mọi thứ dường như quá rõ ràng đến nỗi anh tự hỏi làm sao mà tâm trí kết hợp cùng thị lực lại có thể đẩy trí tưởng tượng đi xa đến thế. Cây kim lớn hơn ở trên chiếc đồng hồ rõ ràng chỉ là một cái bóng, không hơn không kém. Marcus Chesney, người đang cầm cây kim thật và chăm chú giả vờ viết với nó, đang mang một biểu cảm hoàn hảo để che giấu điều đó.
Marcus Chesney thả cây kim xuống miếng thấm mực. Dường như ông ấy nghe thấy gì đó. Ông quay lại một chút, về bên phải. Khuôn mặt ông, xương xẩu và lõm vào một cách khó chịu do đổ bóng, đã đung đưa vòng quanh nên nhờ vậy họ có thể nhìn nó rõ hơn.
Và kẻ sát nhân bước vào trong màn hình.
Bác sĩ Nemo, trên thực tế, đã chầm chậm xoay lại và nhìn họ.
Hắn ta là một nhân vật mang vẻ ngoài tồi tàn. Lớp lông của chiếc mũ chóp cao bị xù lên nghiêm trọng và trông cũ rích. Chiếc áo mưa màu xám sáng đục, có cổ áo dựng lên đến vị trí đáng ra phải có một đôi tai. Một vệt sáng mờ, thứ có thể là một con côn trùng hoặc nếp uốn của một chiếc khăn choàng, bao lấy phần không gian trống giữa chiếc mũ và cái áo mưa. Và cặp kính đen đang nhìn chằm chằm họ một cách khó hiểu.
Hình ảnh đầu tiên của Nemo trong màn hình cho họ một cái nhìn khá đầy đủ về hắn, mặc dù nó được quay từ góc bên trái. Hắn ta đứng trong phạm vi chiếu sáng, nhưng lúc đó hắn ta đang đứng quá xa về phía trước, còn ánh sáng thì lại được đặt quá cao, vì quá tối nên họ không thể nhìn thấy quần và giày của hắn ta một cách rõ ràng được. Những ngón tay phải đeo găng của hắn, mượt mà và không khớp như tay của một con ma nơ canh, đang mang theo một cái giỏ đen với tên bác sĩ Nemo ghi trên đó.
Sau đó hắn ta chuyển động với một sự nhanh nhẹn hiếm gặp.
Elliot, đã cảnh giác về chiếc giỏ từ trước, kịp thấy được điều hắn làm. Khi hắn quay lại nhìn Marcus Chesney, lưng hắn chỉ xoay một phần về phía họ, và họ có thể dễ dàng theo dõi hành động của hắn. Sau khi tiến đến gần cái bàn, hắn ta bỏ chiếc túi xuống. Hắn đặt nó ngay sau hộp sô cô la đang nằm trên bàn. Ngay sau đó, như thể đã thay đổi chủ ý, hắn nhấc chiếc giỏ lên lần nữa và đặt nó xuống ngay trên đỉnh hộp sô cô la. Hành động đầu tiên giúp hắn thả chiếc hộp đã được chuẩn bị sẵn lên bàn bằng chiếc giỏ quặp lò xo. Hành động thứ hai giúp hắn lấy chiếc hộp ban đầu cho vào túi.
“Vậy đó là cách hắn đã tráo đổi chúng!” Giọng của thiếu tá Crow vang lên trong bóng tối.
“S-U-Ỵ-T!” tiến sĩ Fell gầm lên.
Nhưng họ không có nhiều thời gian để suy nghĩ, tất cả mọi việc đã kết thúc quá nhanh. Khi Nemo vòng qua cái bàn và ra ngoài phạm vi chiếu sáng hắn trở thành một cái bóng lờ mờ khó chịu, như thể hắn ta không hề tồn tại và đang mất dần tính vật chất của mình.
Sau đó họ thấy một người đàn ông bị giết.
Nemo đã xuất hiện trở lại ở đầu bên kia chiếc bàn. Marcus Chesney nói chuyện với hắn ta mà không phát ra âm thanh nào. Tay phải của Nemo – họ có thể nhìn thấy tay hắn vì bây giờ hắn đã quay lại đối diện phần nào với họ – đang đặt trong túi áo. Rồi hắn rút tay ra khỏi túi áo, chuyển động của hai bàn tay hơi thấp thoáng một chút, nhưng hắn đang lấy gì đó ra khỏi một thứ trông như một chiếc hộp các tông nhỏ.
Cho đến giờ phút này những hành động của Nemo đều vô cùng nhanh chóng và chuẩn xác. Bây giờ chúng lại trở thành một loại hiểm ác. Những ngón tay trái của hắn vòng chặt một cách nhẹ nhàng quanh cổ họng Chesney. Chúng di chuyển, và nâng cằm ông lên. Ngay cả dưới sự phản chiếu mờ ảo của cuộn phim cũng có thể thấy được rõ ràng sự hoảng hốt của Marcus Chesney. Tay phải Nemo luồn vào cái miệng bị cố định của ông ta, nhét viên nhộng vào trong đó, và vuốt phẳng cổ họng ông.
Sĩ quan Bostwick nói vọng ra từ trong bóng tối.
“A,” ông nói. “Đó là lúc mà cô gái thét lên, ‘Đừng, đừng!’”
Nemo lại biến mất.
Cái bóng lờ mờ của hắn đi vòng quanh chiếc bàn và trở lại vị trí cũ, sau đó hắn ta nhặt chiếc túi đeo vai màu đen lên. Nhưng lần này hắn di chuyển trở lại về tận cùng phía mặt sau của căn phòng để bước ra ngoài. Một cách lờ mờ nhưng rõ ràng, ánh sáng trải lên toàn bộ con người hắn. Ánh sáng đó cho họ thấy cái quần tây đen và đôi giày đi tiệc. Nó cũng trưng ra khoảng cách từ vạt áo mưa đến sàn nhà. Trong giây lát họ có thể ước đoán chiều cao của hắn rõ ràng như thể họ có thước đo vậy.
“Dừng cuộn phim lại!” thiếu tá Crow nói. “Dừng ngay đó! Các anh có thể thấy…”
Không Cần thiết phải dừng cuộn phim. Nó đã gần kết thúc. Với một chuỗi những tiếng ồn phát ra từ máy chiếu, màn hình nhấp nháy, đen dần đi, rồi trở nên trắng bóc và trống rỗng.
“Đó là tất cả,” giọng hơi khàn của Stevenson vang lên.
Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ có Stevenson là di chuyển. Anh ta tắt máy, luồn qua phía sau nó và đi mở những tấm màn ra. Ánh sáng chiếu vào một cảnh tượng sinh động trong phòng. Thiếu tá Crow tỏ ra hài lòng. Sĩ quan Bostwick đang yên lặng và bí mật mỉm cười với cái tẩu của mình. Nhưng trên khuôn mặt của tiến sĩ Fell là một biểu cảm trông kinh ngạc như bị sét đánh đến nỗi thiếu tá phá lên cười.
“Tôi thấy có người vừa nhận một cú sốc rồi đó,” ông nhận xét. “Giờ thanh tra, tôi hỏi anh điều này. Chiều cao của bác sĩ Nemo là bao nhiêu?”
“Tôi nghĩ, ít nhất cũng phải sáu feet,” Elliot thừa nhận. “Dĩ nhiên, chúng ta sẽ phải lấy kính lúp để thực hiện vài nghiệp vụ đo lường. Hắn ta đứng ngang với cái lò sưởi đó, vậy nên có thể ước đoán khá dễ dàng. Các phép đo so sánh sẽ lo vụ đó. Nhưng có vẻ hắn ta cao khoảng sáu feet.”
“A,” Bostwick đồng tình. “Là sáu feet. Và mọi người có chú ý đến bước chân của gã đó không?”
“Ông nghĩ sao, tiến sĩ Fell?”
“Tôi không đồng ý,” tiến sĩ Fell gầm gừ.
“Nhưng anh không tin vào mắt mình sao?”
“Không,” tiến sĩ Fell nói. “Chắc chắn là không. Hoàn toàn không. Nhìn đống hỗn loạn mà chúng ta có bằng cách tin vào đôi mắt mình mà xem. Chúng ta đang du lịch trong một căn nhà đầy ảo giác, trong một chiếc hộp ảo thuật, và đặc biệt là trong một con tàu ma đầy thủ đoạn. Khi nghĩ về trò lừa với chiếc đồng hồ, trong tôi lại tràn đầy một loại cảm giác kinh sợ. Nếu Chesney có thể nghĩ về một trò nguy hiểm tài tình như vậy, ông ấy hẳn có thể nghĩ ra những trò khác tương tự, thậm chí là còn đáng kinh ngạc hơn. Tôi không tin. Lớn tiếng mà nói, tôi sẽ không tin.”
“Nhưng có nguyên nhân nào khiến ông nghĩ rằng đây cũng là một cái bẫy không?”
“Có,” tiến sĩ Fell khẳng định. “Tôi gọi nó là vấn đề Câu Hỏi Không Cần Thiết. Nhưng thứ mà chúng ta có ở đây khó khăn và mới mẻ hơn nhiều.”
“Như là?”
“Chà, hãy nhìn cách mà nhân chứng chuyên gia của chúng ta bị đẩy vào tình trạng khó khăn đi,” tiến sĩ Fell lập luận, rút chiếc khăn tay in hoa sặc sỡ và vung nó ra. “Ba nhân chứng đã trả lời câu hỏi về chiều cao của bác sĩ Nemo. Marjorie Wills không phải là một nhân chứng đặc biệt tốt. Harding là một nhân chứng tệ. Giáo sư Ingram, mặt khác, lại là một nhân chứng thực sự giá trị. Tuy nhiên, trong câu hỏi về chiều cao này cả hai người được cho là không tốt lại trả lời đúng và giáo sư Ingram lại sai một cách tuyệt vọng.”
“Tuy vậy, tại sao ông vẫn khăng khăng rằng hắn ta không cao sáu feet?”
“Tôi không khẳng định như thế. Tôi chỉ nói rằng có điều gì đó đáng nghi ở đây. Trong suốt thời gian qua, trong suốt thời gian gai góc, hỗn độn và khó khăn từ khi tôi biết về vụ án này, một câu hỏi cứ luôn làm phiền tôi đến phát điên. Nó vẫn còn quấy rầy tôi nhiều hơn bất kì vấn đề nào khác, và nó đây. Tại sao cuộn phim đó vẫn chưa bị phá hủy?
“Tôi nhắc lại,” tiến sĩ Fell nói, vung vẩy cái khăn tay, “tại sao kẻ giết người lại không phá hủy cuộn phim đó? Sau cái chết của Chesney, khi họ mang Emmet lên lầu, cả tầng trệt của căn nhà bị bỏ hoang. Có rất nhiều cơ hội, rất dễ dàng, để phá hủy cuộn phim. Chính bản thân các anh cũng thấy Phòng Nhạc trống rỗng khi các anh đến. Chiếc máy quay này bị giấu một cách đầy bất cẩn dưới nắp của cái máy hát. Tất cả những gì kẻ sát nhân phải làm là mở chiếc máy quay ra, phơi cuộn phim dưới ánh sáng, và thế là xong. Các anh không thể bảo tôi: tên giết người muốn có một đoạn phim thật nổi bật của chính mình để cảnh sát soi nó dưới kính hiển vi. Không, không, không hề.”
“Nhưng Joe Chesney…” thiếu tá Crow lại bắt đầu.
“À đúng rồi: giả sử tên giết người là Joe Chesney. Giả sử ông ta đã giết Marcus, nhờ vào trò xảo trá trên chiếc đồng hồ để tạo bằng chứng ngoại phạm, chính xác như cách anh nói. Nhưng người đàn ông này không thể là một người hoàn toàn mất trí. Nếu là người đóng vai bác sĩ Nemo, ông ta đã biết Harding đang ở đó nỗ lực quay phim tất cả mọi thứ. Ông ấy hẳn phải biết một cuộc kiểm tra lại cuộn phim sẽ ngay lập tức tiết lộ sự thật về cây kim phút bị mất, về chiếc đồng hồ bị chơi khăm, và đánh ngã toàn bộ kế hoạch, như nó đang làm ngay lúc này. Bây giờ, ông ấy đã gọi điện thoại đến đồn cảnh sát cho anh lúc mấy giờ?”
“Lúc mười hai giờ hai mươi.”
“Được rồi. Và mấy giờ anh đến Bellegarde?”
“Khoảng hai mươi lăm phút sau.”
“Đúng. Chính xác. Vậy, nếu ông ấy đã gọi điện thoại cho anh, ông ấy phải xuống cầu thang, cách đó không quá ba bước là Phòng Nhạc. Tại sao ông ấy không dành thêm hai giây nữa, bước vào Phòng Nhạc, và phá hủy chứng cứ có thể vạch mặt mình?”
Mặt thiếu tá Crow đã trở nên hơi đỏ.
“Ông ấy tóm được ngài rồi đó, thưa ngài,” Bostwick nói một cách cộc lốc.
“Ý anh là cái quái gì thế, tóm được tôi rồi á?” thiếu tá Crow nói với vẻ cứng ngắc không tự nhiên. “Tôi không biết. Có thể ông ta không thể tìm được máy quay phim.”
“Chậc, chậc,” tiến sĩ Fell tặc lưỡi, biểu thị sự không tán đồng.
“Nhưng mà anh, sĩ quan,” thiếu tá Crow truy, “đang trịch thượng một cách quá đáng với toàn bộ việc này, có lẽ anh có thể giúp chúng ta thoát ra nhỉ. Anh có thể làm ơn giải thích tại sao kẻ sát nhân đã không phá hủy cuộn phim không?”
“Có, thưa ngài, tôi nghĩ tôi có thể. Chuyện là như thế này. Kẻ sát nhân không đủ điều kiện để phá hủy cuộn phim, còn một tên sát nhân khác thì lại không muốn nó bị hủy.”
“Cái gì? Hai kẻ giết người?”
“Đúng, thưa ngài. Anh Emmet và cô Wills.”
Bostwick nói chuyện thân mật với điếu thuốc trên môi, kiểm tra nó thật kĩ lưỡng. Khuôn mặt ông mang một biểu cảm nặng nề, ảm đạm, trầm ngâm; và ông nói với vẻ hơi khó khăn.
“Tôi đã không nói gì nhiều về vụ này. Nhưng tôi suy nghĩ rất nhiều, cách này hay cách khác. Và nếu ngài muốn biết tôi nghĩ gì, tôi không phiền kể với mọi người, và tôi có thể cung cấp cho mọi người một chút bằng chứng thực sự nữa.
“Giờ, gã bị quay hình lại,” ông chỉ lên màn hình, “đó là anh Emmet. Không nghi ngờ gì cả. Nhìn vào chiều cao của hắn đi. Nhìn vào cái cách anh ta bước đi. Chỉ cần ra ngoài tìm bất kì ai quanh đây, đưa cho họ cuộn phim đó, hỏi họ người đàn ông duy nhất mà họ biết có bước đi kiểu thế, và họ sẽ nói đó chính là anh Emmet.
“Tôi chưa bao giờ tin tưởng câu chuyện có ai đó đã đánh ngất Emmet và thế chỗ anh ta. Tôi không tin, và không tin là đúng. Cô Wills, chính cô ta đã đẩy mọi chuyện vào đầu chúng ta trước khi chúng ta biết cô ta đang bận làm gì. Quá nhiều như một bộ phim vậy. Lạy Chúa,” ông ngồi dậy, “ai lại muốn lao vào tất cả đống rắc rối không tưởng đó khi mà tất cả những gì anh ta cần làm chỉ là cho một chút xyanua vào li trà của quý ông già đó trong bất kì ngày nào? Lỡ như lớp ngụy trang của anh ta rơi xuống thì sao? Lỡ như cái mũ rớt ra, hoặc là cái khăn choàng bung ra thì sao? Chuyện đó đã không xảy ra, nhưng nó có thể lắm. Hay lỡ như quý ông già đó chộp lấy anh ta, điều cũng có khả năng lắm chứ. Nhưng không, thưa ngài. Và như tiến sĩ Fell nói. Kẻ giết quý ông già nua đó đời nào lại muốn để lại một cuộn phim quay hết tất cả mọi việc cho cảnh sát sử dụng, vậy thì tại sao anh ta không tiến hành phi tang?
“Tôi đã không hề chợp mắt tối qua vì nghĩ về chuyện này. Và bất thình lình tôi nói với bản thân, ‘Mẹ kiếp,’ ” ông tát đầu gối mình một cái, “ ‘mẹ kiếp,’ tôi nói, ‘vậy viên nhộng kia ở đâu?’ ”
Elliot nhìn ông.
“Viên nhộng kia?” anh hỏi, khi Bostwick đã bình tĩnh trở lại.
“A. Viên nhộng khác. Chúng ta nghĩ – cô Wills đã khiến chúng ta nghĩ – rằng có ai đó đánh ngất Emmet và đặt một viên nhộng độc vào thế chỗ một viên nhộng thường. Được rồi, cho là thế đi. Nếu vậy, viên nhộng kia đâu? Viên nhộng vô hại ấy? Chúng ta đã tìm khắp nơi, tất cả mọi chỗ, trong cái áo mưa và cái túi đeo chéo và tất cả những nơi khác. Và chúng ta có tìm thấy viên nhộng kia không? Không, chúng ta đã không tìm thấy. Nghĩa là chỉ có một viên, chính là viên là anh Emmet có, viên mà anh ta nhét vào họng quý ông già kia.”
Thiếu tá Crow huýt sáo.
“Tiếp tục đi,” ông nói.
“Và có một thứ khác nữa chúng tôi cũng không tìm thấy,”
Bostwick lập luận, hướng về phía Elliot. “Là chiếc hộp nhỏ đó. Chiếc hộp nhỏ bằng các tông, nơi anh ta lấy viên nhộng ra. Chúng ta có tìm thấy thứ đó trong cái áo mưa không? Không, chúng ta không thấy. Nhưng tôi tự nghĩ, ‘nó có thể ở đâu?’ tôi nói ‘Ở đây!’ Vậy nên sáng hôm nay tôi đã ngó qua nơi mà tôi nghĩ nó có thể xuất hiện, và đúng là như vậy.”
“Ở đâu?”
“Trong túi áo khoác phía bên phải của anh Emmet. Cái áo được treo trên một cái ghế trong phòng ngủ của Emmet, họ đặt nó vào đó sau khi cởi đồ cho anh ta.”
“Điều này,” thiếu tá Crow nói, “có vẻ tệ đây.”
“Tôi có thể hoàn thành tốt giả thuyết của mình, thưa ngài, giờ tôi đang tiếp tục đây.” Bostwick nói nhanh hơn và thậm chí với vẻ trầm trọng hơn. “Ai đó đã giết anh Emmet vào đêm qua. Nghĩa là có ai đó đã móc nối với anh Emmet trong việc giết quý ông già. Việc Emmet làm mọi thứ cho cô ấy thì ai cũng biết. Hoặc không thì cô ấy đã cho anh ta một viên nhộng độc, mà không cho anh ta biết trong viên nhộng đó có gì, và bảo anh ta tiếp tục buổi diễn và nhét nó xuống họng quý ông già nua kia. Nhưng tôi không thể chắc chắn về suy luận cuối cùng này, bởi vì Emmet đã tự đánh ngất mình để có bằng chứng ngoại phạm, vậy nên có vẻ như có một sự dàn xếp giữa bọn họ. Dù sao chăng nữa, tại sao cô ta lại hét to, ‘Đừng, đừng!’ khi quý ông già bị sát hại, và phủ nhận điều mình đã nói sau đó?
“Điều đó rất bất hợp lí và không phải một phản xạ tự nhiên, trừ khi cô ta biết rõ chuyện gì đang diễn ra. Và đúng là cô ta đã biết tất cả. Vào phút cuối cô ta đã không thể kiềm chế bản thân mình. Chuyện này đã xảy ra trước đây. Anh có thể không nhớ, anh Elliot, nhưng tôi đã đọc rất nhiều về những vụ án mạng mà anh giải quyết ở London. Và tôi sẽ nói cho anh biết chuyện đó đã từng xảy ra ở đâu. Phụ nữ không thể kiềm chế bản thân, thậm chí khi chính họ là người bắt đầu tất cả các rắc rối. ‘Đừng, đừng!’ là những gì mà người phụ nữ Edith Thompson bắt đầu hét lên khi gã Bywaters chạy ra và đâm chồng của bà ta trên đường họ trở về từ rạp chiếu phim.”
Ông ấy ngừng lại, thở dốc.
Thiếu tá Crow làm một động tác không thoải mái.
“Chứng cứ chống lại Wilbur Emmet,” Elliot thừa nhận, “thì… Chà, nếu ông có thể khiến mọi người xác nhận Emmet là người đàn ông trong đoạn phim, thì vậy là xong.” Anh cảm thấy lúng túng và không thoải mái, nhưng anh vẫn đối mặt sự thật. “Đến lúc này thì mọi chuyện vẫn tốt đẹp. Nhưng chứng cứ chống lại cô Wills ở đâu? Chúng ta không thể bắt giữ cô ấy chỉ bởi vì cô ấy nói, ‘Đừng, đừng!’ được. Bằng chứng đó không đủ tốt.”
“Hoàn toàn có bằng chứng,” Bostwick đáp lại. Một lần nữa khuôn mặt ông lại trở nên đỏ bừng. Ông do dự, và sau đó ông quay sang và quát qua vai mình: “Hobart Stevenson, nếu anh hé môi bất cứ lời nào nghe được trong căn phòng này ra ngoài, tôi sẽ tìm và bẻ cổ anh. Và anh biết là tôi sẽ làm thật đấy”
“Tôi sẽ không nói lời nào đâu, sĩ quan,” Stevenson, người đang nhìn chăm chú mọi người, nói. “Tôi xin thề.”
“Nhớ đấy, tôi chắc chắn sẽ biết tin nếu anh dám để lộ,” Bostwick cảnh báo, nhìn trừng trừng anh ta. Ông quay lại với những người khác, “tôi định cho mọi người biết điều này ngay lúc đang xem đoạn phim. Tôi vẫn chưa hề đề cập đến nó, thậm chí cả với thiếu tá, bởi vì tôi muốn mọi việc chắc chắn. Nhưng hoàn toàn có bằng chứng. Anh vừa nói một phút trước, thưa ngài rằng không có nhiều người trừ các bác sĩ biết cách sử dụng kim tiêm dưới da. Nhưng cô ấy biết. Cô ấy đã học được cách sử dụng thứ đó qua dịch bệnh cúm kinh hoàng sáu hay bảy năm trước. Cô ấy đã giúp bác sĩ Chesney tiêm chủng cho mọi người.”
“Và chính anh, chàng trai, cũng đã nói,” ông nhìn về phía Elliot, “rằng chúng tôi đã không hề nhiệt tình với việc bắt giữ những người ném đá vào cô ấy. Giờ thì điều đó không đúng, và tôi cũng không thích hành động đó. Không một chút nào. Nếu ai đó làm nhiễu loạn sự yên bình, tôi sẽ làm hết bổn phận của mình. Tôi cược với anh rằng quan tòa sẽ trả công bằng cho bất cứ ai trong sạch. Tôi đã cảnh báo anh rằng tôi có bằng chứng mà. Anh nghĩ sao về thứ này?”
Ông lấy trong túi áo khoác của mình ra một cái phong bì. Ông để nó mở nên họ có thể nhìn vào bên trong. Ông bước quanh nhóm người với cái phong bì đó. Bên trong nó chứa một cái kim tiêm dưới da nhỏ. Pit tông của nó được mạ kền, và trong ống thủy tinh nhỏ xíu bên trong họ có thể thấy một vết bẩn không màu chạy qua chạy lại. Chiếc kim tiêm tỏa ra mùi hạnh nhân đắng rất rõ ràng.
“Được,” Elliot nói. “Được rồi.” cổ họng anh rất khô và đôi mắt anh nóng lên. “Ông đã lấy thứ đó ở đâu vậy?”
“Tôi có thói quen dòm ngó xung quanh,” Bostwick nói. “Đó là lí do tại sao tôi yêu cầu thiếu tá bảo cô Wills tới đây gặp anh. Tôi đã tìm thấy nó trong đáy giả của một hộp trang sức trên bàn trang điểm trong phòng ngủ của cô Wills.”
Ông đưa chiếc phong bì cho Elliot và sau đó khoanh tay lại.
“Chuyện đó,” thiếu tá Crow nói, hắng giọng, “dường như không có khe hở nào. Anh nói gì đây, thanh tra? Anh có muốn một lệnh bắt giữ không?”
“Không cho tới khi nào tôi có một cơ hội nói chuyện với cô ấy về chuyện đó,” Elliot nhẹ nhàng nói. Anh hít một hơi thở sâu. “Nhưng, như anh nói, tôi e rằng đó chính là chân tướng. Ý ông thế nào, tiến sĩ?”
Tiến sĩ Fell ép hai tay lên lau vệt tóc xám của mình. Ông rên rỉ, ông bày ra khuôn mặt cực kì do dự.
“Nếu tôi có thể chắc chắn! Nếu tôi có thể,” ông lí luận, “chui ra khỏi mớ bòng bong đang hiện hữu trong trí óc mình! Tôi không biết phải nói gì. Việc này đang ồn ào quanh tai tôi theo cách mà tôi chưa bao giờ nghĩ là nó có thể. Cũng có thể là họ đã đúng…”
Niềm hi vọng của Elliot rơi xoảng xuống quanh tai anh.
“… nhưng một cuộc trò chuyện nhỏ với cô gái, dĩ nhiên, nên được chỉ định trước khi…”
“Nói chuyện với cô ấy!” sĩ quan Bostwick gầm lên, cuối cùng cũng mất kiểm soát. “Nói chuyện với cô ấy! A! Đó là điều mà chúng ta luôn luôn làm, chính là nó đó. Cô gái ấy có tội, thưa ông, và chúng ta biết rõ điều đó. Chúa biết cô ta có mọi thời cơ, mọi cơ hội. Chúng ta không thể đối xử công bằng hơn nữa với cô ta như thể cô ta có đặc quyền. Và chúng ta có gì? Chúng ta biết điều gì đã xảy ra. Cô ta lại là một Edith Thompson khác, ngoại trừ việc cô ta tệ hơn nhiều. Đối với người phụ nữ tên Thompson, tôi biết rằng bà ta,” ông liếc nhanh nhìn Elliot, “thậm chí đã cố mồi chài người cảnh sát đến để lấy lời khai sau vụ giết người. Và điều tôi đang nói ở đây là, lịch sử lúc nào cũng có thể lặp lại.”
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh