With compassion you can die for other people, like the mother who can die for her child. You have the courage to say it because you are not afraid of losing anything, because you know that understanding and love is the foundation of happiness. But if you have fear of losing your status, your position, you will not have the courage to do it.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Albert Vulliez
Thể loại: Lịch Sử
Dịch giả: Lê Thị Duyên
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Dung Nguyen
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1633 / 67
Cập nhật: 2016-03-08 20:49:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Midway - Một Hạt Cát Trong Thái Bình Dương
ừa dắt trung đội chạy như tập thể thao dọc theo bờ vịnh kín như chiếc hồ nước mặn, trung sĩ Price, Tiểu đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ, vừa nguyền rủa không ngừng. Bị hãm trên đảo san hô lố bịch hẻo lánh giữa Thái Bình Dương trong mùa xuân năm 1942 này, quả thật là ngu... Vả lại do lỗi của anh ta nữa chứ! Chính anh ta đã xin đổi đến Midway! Phải! Anh ta đã làm thế. Vì đã xem một số hình ảnh. Ngay trước khi chiến tranh bùng nổ... Chúng thật hấp dẫn, những tấm ảnh đó: căn cứ hải quân, bến thủy phi cơ, công ty Cable, các phi đạo của Pan American... Người ta đã đặt các thiếu nữ đứng trên thang máy bay. Những cô tiếp viên phi hành nổi bật lên nền trời xanh lơ khó tin. Thật là cả một trò lừa bịp!
Giờ đây tất cả đều mới đặt chân đến, anh và các đồng đội. Mặc cho các hoạt động có vẻ khôi hài đang ào ạt diễn ra từ tháng 4, rõ rệt là không còn có thể làm gì để cứu vãn hòn đảo được nữa. Quân Nhật chỉ có việc đến, họ sẽ chớp lấy các đảo san hô, các "bông hoa của Thái Bình Dương", và hơn thế nữa, tất cả mọi người! Ít ra cũng là những gì còn lại của số người trên đảo... Bởi vì tự nhiên là phải đánh nhau rồi, nhất là các Thủy quân lục chiến, để nêu gương, trong khi đó thâm tâm ai nấy đều nghĩ rằng làm như vậy là hoàn toàn ngu xuẩn...
Đang nghĩ đến đó thì trung sĩ Price, vẫn chạy đều, vấp phải một ổ trứng hải âu: dẫm vỡ các trứng chim, chửi thề như bọng, ra hiệu cho trung đội dừng lại ngay giữa bãi phân chim và phóng tầm mắt nhìn phong cảnh chung quanh. Đột nhiên một bầy chim bay lên che kín bầu trời. Chúng ở đấy hàng ngàn con vừa bay lên khỏi các dải cát thuần một màu trắng đến nhức mắt. Những chiếc cánh rộng đủ giữ chúng trên không, con này sát cánh con kia, nhờ những cái đập cánh theo hình dấu mũ, nhịp theo những tiếng kêu sợ hãi.
Một trong các tai ách của các đảo là bọn hải âu ấy. Chúng kêu rú suốt ngày đêm làm như để than khóc vì bị rủi ro mắc kẹt trên đảo Midway... Ban đêm, nếu thoát khỏi bị muỗi đốt, thì ta có thể tin chắc là sẽ bị khúc bi ca của chúng làm giật mình thức giấc. Trong khi đó dưới các hầm trú ẩn lợm giọng vì không khí ẩm thấp, thế nào cũng có một "chú lính mới" làm nổ súng hoặc một tay hoạt kê la lớn "Bọn lùn đấy!... để gây ra một đợt hoan hô toàn diện.
Phải nói rằng, từ một tháng qua, thần kinh mọi người bị căng thẳng tột đọ. Không phải chỉ vì chưa bao giờ quân Nhật có vẻ ở gần như thế, nhưng trái lại quân Mỹ thì liên tục gửi cho họ cả một chuỗi tàu bè đổ lên bến tàu nhỏ bé Sand Island, vốn đã tràn ngập vật dụng, nào thép gai, nào đạn dược, súng phòng không, vật liệu thay thế đủ loại làm như để chịu đựng một cuộc bao vây bất tận. Hàng không đoàn trọn vẹn các phi cỡ lỗi thời đáp xuống phi đạo vừa mới làm xong trên đảo Eastern Island và vì các hăng ga đã đầy nhóc, người ta phải phân tán chúng ra ngoài các bãi phân chim. Ngoài ra, trong những ngày mới đây, một số đông khác thường gồm các sĩ quan cấp tướng đã đến thanh sát hệ thống phòng thủ và biểu dương với đội quân trú phòng một thái độ ân cần thân thiết đến mức phải rất ngây thơi mới không hiểu rằng ngày J không còn xa nữa...
Chính trong viễn ảnh đó mà trung sĩ Price huấn luyện tân binh theo nhịp độ gấp đôi. Ý thức được trách nhiệm của mình anh chấm dứt sự nghỉ ngơi để đi sâu xuống hầm tiếp nối, sát bờ cát với tất cả hệ thống phòng thủ trên đảo. Phải làm cho các tân binh trẻ tuổi quen thuộc với hệ thống mê lộ phức tạp đó, một hệ thống hầm hố giúp cho toàn diện đội quân trú phòng luôn luôn ở trong tình trạng báo động và luôn luôn ở sẵn trong chiến hào.
Bài học Trân Châu Cảng đã có ảnh hưởng. Ngoài các bồn chứa xăng lớn, các hăng ga của công ty hàng không PAA và ba phi đạo, tất cả những gì trên đảo Midway đều sống dưới hầm ẩn nấp.
Khi chấm dứt buổi huấn luyện tân binh, trung sĩ Price trở về vị trí chiến đấu của mình, một căn hầm tối tăm dùng làm bộ chỉ huy đại đội. Tại đấy anh thấy ngổn ngang nhiều dụng cụ lạ lùng nơi đó có nhiều cuộn dây ló ra. Viên toán trưởng đặc trách chất nổ, một trong các bạn cũ của anh, đang làm việc để thiết trí một mạch điện phá hoại nhằm cho nổ tất cả các cơ sở khi những người lính phòng vệ cuối cùng bị quân Nhật tràn ngập. Vì anh ta đã được lệnh kín miệng để khỏi làm xao động tinh thần binh sĩ, anh ta tránh né tất cả câu hỏi. Tất nhiên là rất tò mò và ganh tị với các chuyên viên kỹ thuật, đột nhiên Price xen vào câu chuyện:
- Cái trò máy móc của anh buồn cười thật. Một kiểu rada mới chăng? Bộ anh tính dùng điện giật chết bọn lùn à? Chỉ cách vận dụng một tí coi...
Chuyện gì đã xay ra đúng ngay lúc đó. Không ai có đủ thì giờ để mở cuộc điều tra. Đấy cũng vẫn chỉ là một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển toàn đảo. Bồn chứa xăng chính sẽ cung cấp xăng cho các vòi tiếp tế tại phi đạo vừa nô tung với tiếng động vĩ đại.
Khi viên sĩ quan công binh đến báo cáo cho trung tá hải quân Simard, chỉ huy trưởng căn cứ, về sự bất cẩn đáng tiếc này, ông chờ đợi ít ra là cũng bị xử bắn. Hoàn toàn ngạc nhiên, ông thấy ông ta đang chuyện trò náo nhiệt với bạn đồng nghiệp Shannon, trung tá, chỉ huy trưởng Thủy quân lục chiến và họ đang cụng ly Whisky với nhau. Khi ông ấp úng mấy lời xin lỗi, người ta đã ra hiệu, cắt ngang lời ông ngay:
"Tất nhiên, tất nhiên... một vụ làm quấy nhỏ... Không thể nào chiên trứng mà không đập vỡ quả trúng... Dù sao vụ này cũng chứng tỏ được một điều, đó là cái hiệu tạp hóa phá hoại đáng ghét của anh tác động quá tốt!".
Viên sĩ quan công binh can đảm được giải thích mau lẹ tại sao lại có thái độ nhân từ này: hai chàng vừa được công điện báo cho biết là vừa được thăng cấp bậc...
Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công chắc sẽ xảy đến vào ngày mai...
Thật vậy, 900.000 lít xăng dự trữ tại Sand Island vừa mới cháy hết thì ba phi đoàn Nhật tấn công vào Midway từ ba phía nhập lại.
Trên chiếc Yamamoto, chiến hạm khổng lồ 70.000 tấn với chín đại bác 430 ly thách thức tất cả mọi chiến hạm, đang rẽ sóng, vị Tư lệnh không thể nào bại trận của "hạm đội liên hợp", Đô đốc Yamamoto bình tĩnh đi lui tới trên boong tàu. Mũi chiếc thiết giáp hạm sáng chói trong ánh mặt trời hoàng hôn nhuộm một màu vàng hoa cúc như trên các đồ dùng vương giả. Trời tốt, có vẻ còn quá tốt là đằng khác, vì lực lượng vũ trang vĩ đại đi theo tàu ông chắc bị trông thấy từ trên cao khoảng một cách rất xa. Nhưng đấy là một viễn tưởng đã được tiên liệu và chẳng quan trọng gì. Không phải như tại Trân Châu Cảng, có vấn đề nghiền nát một hạm đội hùng mạnh, nhưng đây chỉ là vấn đề chiếm hai hòn đảo nhỏ gần như không có phòng thủ gì cả, vấn đề triệt hạ mũi giáo nhọn chĩa thẳng về phía Nhật nằm ngay đầu của dãy quần đảo san hô Hạ Uy Di. Con người đã từng, bằng một cái phẩy tay, hất văng quyền sở hữu của Đồng minh trên các đảo thuộc Thái Bình Dương, biết rõ có thể chiếm Midway khi nào ông muốn. Điều thú vị nhất đối với ông là việc kéo đuôi con sư tử để khiêu khích nó làm một phản ứng không phải lúc. Yamamoto như một con nhện nằm giữa chiếc lưới bủa giăng, hy vọng kéo số chiến hạm ít ỏi còn lại của hải quân Mỹ về phía hạm đội khổng lồ của mình. Phía bắc, ông đã phái hạm đội hàng không mẫu hạm của ông, chính hạm đội đã tấn công Trân Châu Cảng, do cùng vị Tư lệnh Nagumo chỉ huy, trang bị cùng các phi công cũ. Hạm đội tiến dưới sự che chở của mây trời để khởi động cuộc oanh tạc ồ ạt xuống Midway vào ngày mai. Về phía Đông nam, các dương vận hạm hướng thẳng về phía các đảo mục tiêu để đổ bộ quân xung kích lên bờ. Cách đấy hàng trăm dặm, hàng rào tàu ngầm và thủy phi cơ có tầm hoạt động xa đang rình rập phản ứng của hạm đội Mỹ. Chính lực lượng thiết giáp hạm của ông cũng đang trên đường săn đuổi con mồi.
Tay cao cờ Yamamoto toan tính làm chuyện đội đá vá trời. Ông chỉ còn đợi tín hiệu vô tuyến báo cho biết đối phương đã rơi vào bẫy.
Ông chẳng bao giờ nhận được tín hiệu ấy, bởi vì các cơ sở thuộc quyền đã phạm phải một lỗi lầm không thể tha thứ. Người ta đã chuyển một điện văn tối mật qua đường dây vô tuyến: lệnh cho hạm đội đổ bộ đang tập họp ở Saipan phải nhổ neo ngày 27 tháng 5 để đến tiếp hợp với các tuần dương hạm hộ tống thuộc hạm đội liên hợp tại một địa điểm mà tọa độ được xác định... Đó chính là điều mà chiếc máy Magic đang chờ đợi.
Bộ tham mưu của Nimitz có thể suy ra, từ tin tức chủ yếu ấy, đại cương sự bố trí của Nhật. Giờ đây ông tin chắc rằng cuộc tấn công vào các đảo san hô sẽ xảy ra ngày 3 hay 4 tháng 6 năm 1942 dưới sự che chở của một cuộc vận dụng khổng lồ các hàng không mẫu hạm và chiến đấu hạm. Một cuộc đấu tranh với thời gian bắt đầu và số phận của chiến tranh lệ thuộc vào đó.
Đến Trân Châu Cảng ngày 25 tháng 5, mẫu hạm Enterprise lập tức cùng với chiếc Hornet tách bến hướng đến Midway. Chiếc Yorktown đến nơi ngày 27, được các toán chuyên viên chăm sóc và như có phép lạ, đã được sửa tạm trong có ba ngày, mang hiệu kỳ của Đô đốc Fletcher, Tư lệnh tối cao, và được hai tuần dương hạm nặng cùng sáu khu trục hạm hộ tống. Fletcher ấn định cùng với Spruance - vẫn ở trên chiếc Hornet - một điểm hẹn cách Midway 200 hải lý về phía Đông bắc, tại đó cả hai lực lượng đặc nhiệm sẽ phải được tiếp tế.
Các mệnh lệnh của Nimitz cho các Đô đốc rất mềm dẻo và rõ ràng:
"Bố trí phía Đông bắc Midway và giữ khoảng cách trong giới hạn ngoài tầm hoạt động của thám thính cơ thuộc hạm đội tấn công. Ngay khi các phi cơ thám thính của ta trên các đảo đã định được vị trí hạm đội địch, quí ông hãy ráng tấn công liên tục nhiều đợt để giảm thiểu sức mạnh của nó...
Hãy áp dụng nguyên tắc rủi ro có tính toán và chỉ phô bày chiến hạm của mình ra trước sự đe dọa của một hải lực mạnh hơn, khi nào quí ông được đảm bảo có thể giáng cho địch các thiệt hại lớn hơn tổn thất phía mình".
Spruance đã thêm vào các chỉ thị tổng quát đó một nhật lệnh cho các thủy thủ đoàn:
"Ta đang chờ đợi một cuộc tấn công xâm chiếm Midway, lực lượng tấn công của địch có thể gồm nhiều chiến hạm đủ loại kể cả bốn hay năm mẫu hạm, nhiều dương vận hạm và các chiến hạm khác. Nếu địch vẫn không biết có sự hiện diện của các lực lượng đặc nhiệm chúng ta, ta có thể đánh thình lình vào hông các mẫu hạm địch, từ phía Đông bắc Midway. Các cuộc hành quân mai hậu sẽ lệ thuộc vào kết quả của những cuộc tấn công này, của các tổn thất do các đơn vị trên đảo Midway gây ra cho địch, và cả các tin tức liên quan đến chuyển động của hạm đội địch. Một kết cục thích đáng sẽ là một phần thưởng lớn lao cho xứ sở chúng ta".
Từ ngày 1 tháng 6, các thủy phi cơ thám thính PB-Y từ Midway đã bay tuần thám xa đến 600 hải lý phía tây các đảo. Tất cả các không đoàn đều tập hợp tại các phi đạo của San và Eastern Island-16 oanh tạc cơ đâm bổ của Thủy quân lục chiến, 7 khu trục cơ Wildcat, 18 pháo đài bay B-17 và 4 oanh tạc cơ B-26 của lục quân - sẵn sàng nhào vào các hàng không mẫu hạm địch ngay hiệu lệnh báo động đầu tiên. Nếu gặp cơ may các mẫu hạm Nhật lầm lẫn phái hết cùng một lúc các phi cơ của họ bay đến tấn công Midway, rất có thể bằng cách hy sinh công cuộc phòng thủ các đảo, giáng chọ địch các thiệt hại đủ để họ phải e dè...
Kế hoạch của Nimitz là như thế. Theo kế hoạch này, trung sĩ Price, đại tá Jimard và đại tá Shannon bị bỏ rơi mặc cho số phận hẩm hiu. Toàn thể đạo quân trú phòng trên đảo Midway đóng vai trò con mồi và cũng như con giòi của ngư phủ, nếu không bị cá ăn, thì cũng bị rỉa cho thủng không ít...
Tin tức chính thức đầu tiên xác định hải lực Nhật đến gần được báo cho Midway chiều ngày 3 tháng 6. Một chiếc PB-Y có tầm hoạt động xa, lúc quay về vì đã đến giới hạn bán kính hoạt động, đã trông thấy hạm đội đổ bộ. Ngay khi có hiệu lệnh báo động, B-17 và Catalina cất cánh nhiều đợt kế tiếp và lao vào địa. Nhưng vì khoảng cách còn xa cho nên vài quả bom và thủy lôi ném xuống lúc hoàng hôn chẳng mang lại kết quả gì. Chỉ có phi vụ cuối cùng thực hiện ngay trong đêm tối là đánh trúng được một mục tiêu bằng thủy lôi vì một ngọn lửa lớn đã bùng lên soi sáng bầu trời cho đến rạng đông.
Hôm sau, ngày 4 tháng 6 năm 1942, lúc 5 giờ, một Catalina lại ra hiệu báo động mới. Lần này chính các phi cơ địch bay đến Midway. Nhiều oanh tạc cơ của hải quân Nhật lập đội hình chặt chẽ và được nhiều khu trục cơ hộ tống. Hướng phi cơ địch bay đến dường như cho thấy rằng các hàng không mẫu hạm đã phóng chúng lên đang có mặt phía Tây bắc các đảo, và tất cả phi cơ chiến đấu của Midway cất cánh bay đi tấn công. Than ôi chúng ra đi mà không có hộ tống, bảy khu trục cơ phải ở lại để chờ những kẻ tấn công.
Hai đoàn phi cơ giao nhau trên không với khoảng cách rất xa, phi đoàn Nhật Bản, thuần nhất và được hộ tống kỹ, phi đoàn Mỹ tạp nhạp và không được hộ tống gì cả.
Một giờ trôi qua, thời gian mà những binh sĩ phòng vệ các đảo chờ đợi quyết định của số phận thế nào cũng phải xảy đến...
Đến 6 giờ 30, tiếng cao xạ DCA nổ ran như sấm, tiếp ngay sau đó là tiếng bom chát chúa. Tất cả các kiến trúc của Sand đều đổ sụp xuống trong ửa đỏ. Bầu trời tối sầm vì một lớp khói làm cản trở các khu trục cơ Mỹ theo dõi cuộc chiến đấu.
Về phía mình, phi đoàn oanh tạc cơ của Thủy quân lục chiến cũng khám phá thấy địch và bắt đầu tấn công vào các mẫu hạm Nhật, nhưng các khu trục cơ đáng sợ Zéro đã đâm vào chúng như những con diều hâu và bắn hạ gần hết.
Hai giờ sau, vài chiếc hiếm hoi còn sống sót sau cuộc tàn sát, hạ cánh xuống phi trường Eastern Island vừa được hấp tấp sửa sang lại. Chỉ huy trưởng đoàn quân trú phòng lập bảng kết toán cho buổi sáng. Nếu tổn thất của Thủy quân lục chiến thấp một cách kỳ diệu: 16 chết và 28 bị thương, thì tổn thất của các phi công thật nặng: 50 người trong đó có 25 sĩ quan. Vài phi cơ hiếm hoi trở về được, bay nặng nề như có chì trong cánh. Hệ thống phòng không bị triệt tiêu. Sand và Eastern chỉ còn cách chờ chống quân đổ bộ của địch bằng gươm giáo của mình.
Lúc đó không ai không thể nghĩ rằng hai hòn đảo vừa chịu đựng cuộc tấn công đầu tiên và cũng là cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Trên các hàng không mẫu hạm Nhật, các phi công khu trục lần lượt đáp xuống để lấy tiếp tế, được các thủy thủ đoàn tiếp đón trong tiếng hoan hô vang dậy. Mặc dầu đã quen với các chiến thắng dễ dàng, vụ hạ các phi cơ của Midway như kiểu bắn chim bồ câu đã kích thích họ quá mức và toàn diện mọi người đều hân hoan. Chỉ riêng Phó đô đốc Nagumo là có đôi phần bối rối. Trên boong chiếc Akagi, ông đang thảo luận với các cấp thuộc quyền. Đó là một người nặng nề, hai hàng lông mày rất rậm, và hàng râu mép điểm hoa râm. Trái ngược hẳn với vị Tư lệnh tối cao vốn là một con người lanh lẹn và nóng nảy, ông có một vẻ trầm tĩnh như lực sĩ thế vận hội và phản ánh những truyền thống của lực lượng hải quân kỳ cựu. Hơn nữa, chính ông lại không phải là một phi công và mặc dầu có kinh nghiệm dồi dào, một vài ảnh hưởng đã thoát khỏi sự hiểu biết của ông. Ông không muốn bị định vị sớm quá và thái độ quyết tâm mà các phi công Mỹ đã chứng tỏ đã gây ấn tượng sâu xa nơi ông. Do đó ông đã tỏ vẻ khó chịu phần nào khi viên không đoàn trưởng vừa chỉ huy cuộc oanh tạc các đảo đến báo hiệu cho ông rằng cần một đợt oanh tạc thứ hai để tiêu diệt hoàn toàn các cơ sở trên đảo Midway. Số chín mươi ba phi cơ trừ bị sẵn sàng cất cánh trên hai trong số các mẫu hạm của ông đều được gắn đầy bom đặc biệt và thủy lôi để tấn công hạm đội địch. Nếu phái chúng đi tấn công Midway, phải đưa chúng xuống hăng ga và thay đổi bom đạn.
Nagumo ngần ngại không muốn lấy một quyết định vốn đe dọa phô bày hạm đội của ông ra trước một nguy cơ trầm trọng nhất: cơ nguy bị địch tấn công ngay giữa lúc di chuyển phi cơ. Nhưng các sĩ quan trẻ hiếu thắng của Bộ tham mưu đã có mặt ở đấy rồi, chung quanh ông, và áp lực ông bỏ qua những sợ hãi vô ích đến thế... Ông sợ bị coi là một kẻ nhút nhát và rốt cuộc phải nhượng bộ.
Thời gian trôi và sự thiếu vắng mọi dấu hiệu báo động dường như đã làm cho những người lạc quan có lý. Khi việc thay bom gần như hoàn tất thì một hiệu lệnh vô tuyến được chuyển đến gây kinh hoàng trên khắp các sàn tàu. Hiệu lệnh phát xuất từ một thủy phi cơ thám sát đang tuần thám phía bắc Midway: "Thấy địch! Nhiều chiến hạm, có một mẫu hạm!".
Lúc ấy là 8 giờ 30. Một giờ trước đó chắc tin ức này sẽ được tiếp đón trong không khí phấn khởi. Đó là cơ hội được chờ đợi từ lâu để thanh toán trọn hạm đội Mỹ. Trong khi giờ đây các phi cơ trừ bị còn nằm trong hăng ga đang được thay bom và đợt phi cơ tấn công Midway đầu tiên trên đường băng về cũng sắp xuất hiện để đáp xuống mẫu hạm.
Đã có lúc Nagumo toan cho cá phi cơ trong tình trạng mới được thay bom lên và ra lệnh cất cánh tấn công địch, nhưng ông còn ngần ngại vài phút và để cơ hội trôi qua. Các phi cơ từ Midway trở về bắt đầu xuất hiện. Vài chiếc báo hiệu bị hư hỏng, nhiều chiếc khác cho biết sắp hết xăng. Quá chậm, phải để cho chúng hạ cánh.
Ngọn lao đã phóng đi! Vài khu trục cơ cất cánh vôi vàng để bố trí bên trên đoàn phi cơ trở về. Các phi cơ này có trách nhiệm che chở cho một công tác cực kỳ nguy hiểm là sự tiếp nhận trên các mẫu hạm đang chứa đầy phi cơ trong hang ga ngay giữa cuộc chuyển dịch bom và thủy lôi. Công cuộc huấn luyện các thủy thủ đoàn kỹ đến nỗi tất cả các công việc ấy được thực hiện mà không gây ra một trở ngại nào. Và các công việc ấy ké dài không dưới một giờ... Khoảng thời gian trong đó lúc nào người ta cũng phải chờ đợi các chấm đen các phi cơ địch xuất hiện trên bầu trời.
Đúng 9 giờ 30 chuyện không tránh được đã xảy đến. Một phi đoàn phóng thủy lôi tiến gần đến chiếc Akagi. Đấy là phi đoàn của chiếc Hornet được phóng lên không ngay khi các phi cơ thám thính Mỹ biết được vị trí của các mẫu hạm Nhật. Các phi cơ đáng thương ấy đã bay lạc rất lâu trước khi khám phá được mục tiêu trong lớp sương mù ban mai. Chúng đều cạn xăng, nhưng không kém phần quyết tâm tiếp tục lao vào chiếc soái hạm Nhật Bản để ít ra sự hy sinh của họ không hoàn toàn vô ích...
Các khu trục cơ Zéro chờ sẵn ở đấy. Từ trên cao chúng bổ nhào xuống các phi cơ tấn công. Tất cả phi đoàn của chiếc Hornet đều bị bắn bốc cháy rơi xuống và các phi công đều bị tử trận ngoại trừ một người, chuẩn úy Gay, trong chiếc xuồng cao su cấp cứu như ngồi trong ghế hạng nhất, chứng kiến một quang cảnh dị thường nhất mà con người có thể nhìn ngắm được.
Thật vậy, các phi cơ của mẫu hạm Hornet vừa chìm khuất xuống biển, hai phi đoàn phóng thủy lôi khác (của mẫu hạm Enterprise và Yorktown) tấn công chiếc Akagi theo thế gọng kềm trong khi một phi đoàn thứ ba phụ trách chiếc Hiryu. Cao xạ DCA vạch các đạn đạo đầy trời, các khu trục cơ bắn tung ra mọi hướng. Những ánh lửa đỏ rực bốc cháy trên biển cả giúp đếm được số lượng nạn nhân Mỹ. Tuy vậy cuộc tàn sát lần này không toàn vẹn vì các khu trục cơ Nhật có phần làm việc không xuể. Nhiều chiếc Zéro vì hết xăng, đã phải đáp xuống mẫu hạm đang khi đánh nhau. Không còn chiếc nào canh chừng từ trên cao nữa.
Trên mẫu hạm Akagi, Nagumo vì vững tin rằng tất cả chiến hạm của ông đều không bị tổn thương nên ra lệnh tung phi cơ xung kích đến tấn công các mẫu hạm địch. Trên soái hạm, vài khu trục cơ trừ bị rồi vài oanh tạc cơ đang xếp hàng nối đuôi nhau. Các phi cơ Zéro đầu tiên bắt đầu cho quay động cơ hết tốc độ, được thủy thủ đoàn chào tiễn bằng tiếng hoan hô.. rồi thình lình một tiếng kèn vang dội. Nững trinh sát viên vừa la lớn: "Coi chừng oanh tạc cơ đâm bổ!"
Bất ngờ hoàn toàn! Tiếng rít kinh hồn của phi cơ làm mọi người phải cúi rạp xuống, tiếp ngay sau đó là cả một loạt tiếng nổ thật sự. Ngọn lửa lóe lên trên chiếc Akagi. Chiếc thang máy trung ương bị thổi bay và qua lỗ hổng toang hoác ấy khói cuồn cuộn bốc lên làm tê liệt các đội cứu hỏa. Lửa tràn vào các hăng ga sắp đầy phi cơ phóng thủy lôi khiến chúng lần lượt nổ tung. Mẫu hạm Akagi, biến thành lò lửa, chỉ còn là một xác tàu trong chốc lát... Bị các sĩ quan thôi thúc, Nagumo chấp thuận để cho thuộc viên chuyển qua một tuần dương hạm. Có lẽ ông sẽ có thể nắm lại hạm đội?
Than ôi! Một cái liếc nhìn trên mặt biển đã tước mất của ông ảo vọng ấy. Chiếc Kaga đã chịu đựng một cuộc tấn công còn hung dữ hơn. Nó chạy ngang dọc như một con thú bị đánh cho đến chết bởi vì máy tàu còn chạy được, nhưng bên dưới các cơ khí viên không còn nhận được mệnh lệnh nữa và phải vẫy vùng trong bóng tối. Cửa hầm bị chặn ngang và gió lại khêu thêm ngọn lửa. Các cầu tàu bị nung đỏ, từng chùm thủy thủ bị thiêu sống ghê rợn và rụng xuống biển. Riêng đối với những người dưới hầm tàu, không một ai có thể thoát ra khỏi lò lửa ấy.
Xa hơn một chút, mặc dầu cũng bị trúng bom và thủy lôi, chiếc Soryu vẫn còn chiến đấu chống lửa, nhưng tất cả các phi cơ đều bị thiêu rụi. Hạm đội đầy kiêu hãnh của Nagumo chỉ còn lại mẫu hạm Hiryu đang mở hết tốc lực chạy về phía Bắc...
Trên cầu tàu chiếc Yamamoto đang dẫn đầu hạm đội thiết giáp hạm cách đấy chừng ba trăm dặm vị Tư lệnh hạm đội liên hợp đang lâm vào tình trạng âu lo vô bờ bến. Ông nhận được cả một cơn mưa tin tức xấu, dồn dập đưa đến theo cùng với nhịp độ ăn bom của chiếc Akagi. Con người sắt thép, cho đến lúc đó chỉ biết có chiến thắng ấy, đột nhiên ngã quị. Theo một vài người hiếm hoi được chứng kiến quang cảnh thì hình như ông trở nên ngây ngô và không ai dám lại gần. Ông bước từng bước chậm rãi, gặm dần nắm cơm vắt mà lệ tràn khóe mắt...
Khi ông tĩnh tâm trở lại, ấy là để tung hạm đội hùng mạnh của mình đến cứu các hàng không mẫu hạm. Nhưng khoảng cách xa đến nỗi chỉ sau vài giờ hải hành, ông từ bỏ ý định.
Vả chăng, ông có thể làm gì bây giờ đây? Hy vọng cuối cùng của ông là mẫu hạm Hiryu, chiếc duy nhất còn nguyên vẹn, mà các phi cơ vừa đến tấn công chiếc Yorktown. Có lẽ nó đánh bại được hạm đội địch nếu, đúng như điều ông hy vọng, hạm đội ấy không còn mẫu hạm nào khác. Có thể là vị thần vạn năng che chở vương quốc đang đè nặng lên cán cân và rốt cuộc may mắn sẽ quay trở lại...
Quả thật đã có lúc may mắn ngập nừng quay lại thật. Các oanh tạc cơ của mẫu hạm Hiryu đã đến tấn công chiếc Yorktown đúng lúc nó đang đón phi cơ trở về, và cùng một loạt tai biến vốn đã làm chìm chiếc Akagi đang tái diễn. Chiếc mẫu hạm Mỹ bốc cháy!
Một giờ trôi qua trong sự chờ đợi tin tức đầy âu lo. Thế rồi niềm phấn khích ngự trị trên các cầu tàu chiếc Yamamoto đột ngột tắt ngấm. Không ai dám mang bản điện văn tuyệt vọng vừa được gửi đến: Hiryu bị hai đợt oanh tạc cơ tấn công đang bốc cháy từ trước ra sau... Nó đang chạy chậm chạp lên phía bắc và biến mất trong ánh hoàng hôn.
Thế là hết. Tin thủy thủ đoàn chiếc Yorktown đang bị bốc cháy phải bỏ tàu đã không làm cho Đô đốc xao lãng khỏi dòng tư tưởng đen tối của ông. Là một trong những chiến lược sáng suốt hiếm hoi của Nhật, Yamamoto không hề có ảo tưởng. Ông ý thức được lầm lẫn chí mạng mà ông vừa chạm phải. Chính ông, một người suốt đời làm việc để cung ứng cho Nhật một hạm đội hàng không mẫu hạm đáng sợ nhất thế giới, nay đứng đây, bất lực, trên boong con quái vật khổng lồ 70.000 tấn này, mà trong hoàn cảnh hiện tại đã trở thành vô hại như một con rắn biển. Ông không còn dám áp dụng cho đến cùng các ý tưởng cách mạng của mình để làm biến thành một đống sắt vụn cả một đoàn thiết giáp hạm và đại bác khổng lồ vốn không còn chỗ đứng trong các cuộc chiến tranh hiện đại nữa.
Không bao giờ ông khuyến cáo gây nên cuộc chiến tranh này, nhưng khi ông bị áp đặt bởi chiến tranh, ông đã hành động với tất cả nhiệt tình mà ông có thể có được. Ông biết rằng mình có sáu tháng để thắng hoặc là bại trận. Không bao giờ ông có thể thay thế bốn mẫu hạm này lẫn tinh hoa của các phi công đã biết mất cùng với chúng, trong khi mà người Mỹ thì lại đóng thêm tàu, thêm nữa và huấn luyện hàng ngàn tân binh...
Đến đêm, Đô đốc Ysokoru Yamamoto rút lui vào phòng riêng, tự tay thảo lệnh rút quân toàn diện.
Nhật Bản không phải là đã thua một trận đánh, mà là thua cả cuộc chiến tranh.
Trong thời gian đó, tại Midway, trung sĩ Price và trung đội của anh rời bỏ những pháo đài không đáng kể. Đã từ nhiều giờ qua, họ dấn mình vào một cuộc đi đi, lại lại hùng tráng giữa các xà lan đậu trong căn cứ hải quâ và các phi đạo của phi trường Eastern. Họ lăn những thùng xăng, đẩy những xe goòng, khuân vác những "can" xăng. Họ phải tiếp tế nhiên liệu bằng mọi phương tiện bất ngờ cho các phi cơ vừa mới đến: các phi cơ của chiếc Yorktown đáng thương mà người ta mới được tin là đang chìm và của chiếc Enterprise vốn không thể trở về mẫu hạm sau khi thanh toán chiếc Hiryu. Những câu chuyện sôi nổi của các phi công mà họ phải giúp đưa ra khỏi phòng lái đã làm họ quên hết nhọc mệt của chính mình. Thất thểu, lấm đầy bùn, kiệt sức, bị khói của các đám cháy bôi đen từ đầu đến chân, họ dẫm lên bãi phân chim, tiếp tục các chuyến công tác mệt nhoài. Đối với tinh hoa của các đơn vị xung kích thuộc Thủy quân lục chiến Mỹ, công tác của phu khuân vác ấy, thật chẳng lấy gì làm chói lọi cho lắm...
Nhưng đấy, chiến tranh là như thế. Hôm qua, chính họ là các đơn vị anh hùng hy sinh, những chiến sĩ gác giặc ở tiền đồn sẵn sàng chịu đựng vố kinh khủng đầu tiên. Người ta phủ lên họ những săn sóc ân cần, người ta cho thăng cấp bậc, người ta còn tha thứ cả cho Price khi anh làm nổ cả bồn chứa xăng... Giờ đây thì chẳng còn là gì cả, những điều động chẳng quan trọng gì. Họ phải chạy chọt rầm rộ để đừng bị đối đãi như những binh sĩ tiền tuyến nữa mới được.
Khi chiếc phi cơ cuối cùng đáp xuống sau khi cố gắng săn đuổi hạm đội Nhật đang rút lui, đại tá Shannon tập họp Trung đoàn 3 Thủy quân lục chiến và giải thích tầm quan trọng của chiến thắng đầy tuyệt vọng vừa mới được các hàng không mẫu hạm Mỹ mang về. Rồi để an ủi họ vì không có mặt trong hàng ngũ những vị anh hùng trong ngày lịch sử này, ông nói thêm trong không khí im lặng kỳ lạ của bầu trời lấp lánh đầy sao:
"Hòa bình đã trở lại đây, tại Midway, nhưng đối với chúng ta, Thủy quân lục chiến, chiến tranh mới chỉ bắt đầu!".
Chắc ông không tin rằng mình đã nói đúng đến thế. Một tháng sau, Trung đoàn 3 đổ bộ lên Guadalcanal.
Sấm Sét Thái Bình Dương Sấm Sét Thái Bình Dương - Albert Vulliez Sấm Sét Thái Bình Dương