Số lần đọc/download: 2709 / 17
Cập nhật: 2016-07-13 10:12:07 +0700
Chương 14
C
hín tháng sau Trên boong tàu Percival
Đâu đó ở Malvives “Chúng ta không thể bỏ xa nó được. Chúng ta quá nặng,” hạ sĩ quan lái tàu – một người đàn ông mập mạo có tên Squib – phải hét lên thì James mới nghe thấy. Sự sợ hãi trong giọng nói của ông ta bị gió thổi bạt đi, nhưng vẫn còn nguyên trên mặt.
“Giữ vững tay lái.” James quay lại, quét mắt khắp đường chân trời. Con tàu đang đến gần họ còn mờ ảo, nhưng nó đang rẽ sóng như có cánh. “Ông có chắc nó là tàu hải tặc chứ?” “Người giám sát cũng đã xác nhận rồi,” Squib nói, chấm trán, “Tôi đã tránh được tàu hải tặc suốt chừng ấy năm, chết tiệt, tôi còn mới có cháu ở nhà chứ. Tôi nên ở lại Luân Đôn mới phải.”
“Nó có treo cờ đen không?” Squib gật đầu. “Chúng ta xác định rồi. Nó là tàu Flying Poppy[1].” Ông ta khẽ rên rie, “Có một bông hoa trên nền đen, rất dễ nhận diện.”
[1. Poppy (tiếng Anh): hoa anh túc.] James đang đứng ở thành tàu, căng thẳng nhìn con tàu trước mặt như thể ánh mắt chăm chú có thể khiến nó biến mất. Khoảng khắc anh nghe thấy cái tên đó, sự nhẹ nhõm làm vai anh sụp xuống. Anh biết về con tàu đó, và nếu anh đúng thì họ có cơ hội. Một cơ hội mỏng manh nhưng còn hơn là không có gì. “Có thể tệ hơn,” anh nói, hi vọng mình đúng.
“Chỉ trong mùa tày, tàu Poppy đã chiếm được năm thuyền, theo những gì tôi nghe được lần cuối cùng ở cảng. Điều đáng mừng duy nhất là họ thường không giết thủy thủ đoàn nhưng sẽ đánh chìm tàu. Chúng ta chết chắc rồi thưa ngài.” James gầm gừ, “Súng đã sẵn sàng khai hỏa chưa?”
“Rồi.” “Cho đến giây phút cuối cùng mới biết được kết quả. Lái thẳng đi. Chúng ta đi đâu cũng không quan trọng lắm.”
James nhảy khỏi boong và chạy xuống sàn tàu bên dưới. Thủy thủ đoàn của anh bận rộn chuẩn bị súng, nhồi que để cố định bột súng. Họ không dừng lại cho tới khi anh gọi. “Mọi người!”
Tất cả ngẩng lên. Một tiếng trước, họ còn mang vẻ mệt mỏi cháy nắng của những người đã đi một chuyến hải trình dài, chán ngấy thịt bò ướp muối và cá chuồn, mắt với mũi đầy muối. Nhưng giờ, đối với đàn ông mà nói, họ hoảng sợ. “Mục đích của chúng ta là sống sót,” James bảo họ.
Cả thuyền im lặng vì ngạc nhiên. “Chúng ta sẽ thử dùng súng. Chúng ta có thể gặp may và bắn trúng mạn thuyền. Nhưng những gã hải tặc đó muốn đồ của chúng ta. Và tôi không muốn tất cả các anh bị giết khi đang đấu tay đôi với những người đã đánh nhau cả đời. Nếu chúng ta không đánh chìm được thuyền ngay lần đầu tiên, tôi muốn các anh lên boong. Úp mặt xuống.”
Khi nghe thấy điều đó, cả thuyền lào xào giận dữ. “Cả đời tôi chưa từng đầu hàng bao giờ,” Clamper hét lên. Anh ta đến từ Cheapside, có khuôn mặt vạm vỡ và giỏi dùng dao găm.
“Giờ thì có,” James nói, “Chỉ cần anh rút dao găm ra thì tôi sẽ xem như anh nổi loạn, Clamper.” Lại im lặng. Anh và đoàn thủy thủ đã bên nhau chín tháng. Anh đã gặp nhiều thời khắc khó khăn khi học cách đi biển và điều khiển thuyền buôn, nhưng Squib luôn kề vai bên anh. Và anh sẽ bị nguyền rủa nếu để đoàn thủy thủ của mình bị thảm sát. “Tôi định thách thức thuyền trưởng,” anh nói, “Dùng luật biển.”
“Hải tặc không tuân theo luật biển,” có người hét lên. “Thuyền trưởng tàu Flying Poppy thì có,” James nói. Anh đã tìm hiểu tất cả những gì có thể về những thuyền trưởng nổi danh giữa Ấn Độ và Anh quốc. “Tên anh ta à Griffin Barry, anh ta là tòng nam tước và là họ hàng xa với tôi. Chúng tôi đã gặp nhau khi còn nhỏ. Anh ta sẽ nhớ ra tôi.”
“Vậy thì anh có thể trò chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ của quý tộc các anh,” Clamper nói, mắt lóe lên tia hi vọng. “Tôi có thể thử,” James nói. Tất nhiên, Barry là một tên tội phạm lạnh lùng. Nhưng anh ta đã tới Elton. Và họ là họ hàng xa. Nói ngắn gọn, ngoài cha anh và anh thì dòng tộc nhà anh vẫn còn kẻ biến chất. “Đừng khai hỏa cho tới khi tôi ra lệnh.”
Nhưng cuối cùng, mệnh lệnh đó không bao giờ tới. Đoàn thủy thủ của tàu Poppy quá lọc lõi để lộ ra mạn tàu cho một con tàu mà họ định đánh chiếm, còn tàu Percival thì quá nặng do chất đầy gia vị nên không thể di chuyển mau lẹ. Tàu Poppy lượn lờ quanh nó cho tới khi nhóm hải tặc trèo lên boong mà chẳng hề có xô xát. Hải tặc vội vã nhảy qua thành tàu. Khi nhìn thấy đoàn thủy thủ Percival nằm úp mặt trên boong, họ dàn hàng dọc mạn tàu mà không nói một lời, quay lưng về phía biển, một tay cầm súng, một tay cầm dao. Rõ ràng Percival không phải con tàu đầu tiên mà thuyền trưởng đầu hàng khi nhìn thấy bông hoa anh túc màu máu thêu trên nền vải đen.
Thuyền trưởng là người cuối cùng lên boong, đặt chân lên tàu với một con dao cắn giữa hai hàm răng và một khẩu súng trong tay phải. Chắc chắn trông anh ta không có dáng vẻ quý tộc Anh, anh ta ăn mặc như công nhân bến cảng. Một bông hoa anh túc nhỏ giống hình ảnh ở trên cờ được xăm dưới mắt phải của anh ta. “Ngài Griffin Barry,” James nói, nghiêng cằm đúng góc độ tiêu chuẩn khi một bá tước chào đón một tòng nam tước. Anh đứng giữa nhóm thủy thủ nằm úp mặt của mình, bọn họ bị bao vây bởi một vòng tròn hải tặc. Anh mặc lễ phục, kỳ cục nhưng có chủ ý – áo viền chỉ vàng với nút xoắn vàng. Anh thậm chí còn đội tóc giả, nói đúng ra thì nó được vội vã đập lên đầu anh.
Barry nhìn hỉnh ảnh đó nhanh như chớp rồi dựa lưng vào thành tàu và phá ra cười. Đó không phải là một tiếng cười hòa nhã, nhưng ít nhất thì anh ta đang cười. James cảm thấy được tiếp thêm can đảm vì không bị bắn ngay lập tức. “Theo luật biển, tôi có thể thách anh đấu súng,” anh nói, giọng cố gắng không tỏ ra sợ hãi.
Mắt thuyền trưởng tàu hải tặc nheo lại, tay nắm chặt khẩu súng. “Đúng vậy.” “Hoặc chúng ta có thể đơn giản về cabin của tôi và uống rượu. Sau rốt thì, chúng ta đã không gặp nhau… bao lâu nhỉ… năm năm?”
Cả đoàn thủy thủ của anh có thể chết sạch trong vòng ba phút, theo ước lượng của anh. Nhưng James đang đánh cuộc vào phong cách lịch sự truyền thống của Anh quốc, nó đã được nhồi vào đầu mọi cậu bé quý tộc từ thủa nằm nôi. Anh cố tình nói thêm, “Tôi tin rằng bà cô Agatha quá cố của chúng ta thích cái thứ hai hơn.”
“Chết tiệt,” Barry nói, mắt mở to khi nhận ra anh, “Cứ nghĩ anh là một gã quý tộc ngu ngốc nào đó. Nhưng anh là con trai ‘Công tước của con đập ngu ngốc’.” James cúi chào, làm tung bay miếng ren tinh khôi ở cổ tay. “Bá tước Islay. James Ryburn rất hân hạnh được gặp lại anh, ngài Griffin Barth…”
Barry cắt lời anh với một tiếng chửi thề. James cảm thấy hài lòng và gan dạ hơn. Ai biết người ta có thể đe dọa một thuyền trưởng hải tặc với thông tin riêng tư như là tên đệm của anh ta là Bartholomew chứ? “Anh đang làm cái gì ngoài này, trừ việc đợi tôi đến cướp?” Barry gầm lên. Nhưng cán cân quyền lực đã chuyển vị trí. Địa vị người thừa kế tước vị công tước của James đã cân bằng trận đấu đối với Barry, dù với tư cách hải tặc hay tòng nam tước.
“Kiếm tiền sau khi cha tôi đánh mất và biển thủ tiền. Chắc chắn anh có thể là người dạy tôi làm điều đó chứ Coz? Tàu Poppy 2, thế nào?” Anh quăng mái tóc giả qua thành tàu. “Tôi đã là thuyền trưởng của chiếc tàu chín tháng rồi. Tôi đã học được cách xem gió, nước và sao. Tôi có cả một thuyền đựng gia vị, nhưng tôi thích làm việc gì đó mới mẻ. Coz, anh có thể nói rằng bản năng tội phạm chảy trong gia đình chúng ta.” Bất kể Barry đoán sẽ nghe thấy gì thì cũng không phải điều đó. James nín thở. Anh không cho phép bản thân nhìn xuống đoàn thủy thủ của mình, sợ rằng người ta sẽ xem nó như dấu hiệu của sự yếu đuối.
“Tôi sẽ uống brandy,” cuối cùng Barry nói. “Thủy thủ của tôi cũng không mang vũ khí,” James nhận xét như thể đang bình luận về thời tiết.
Barry hất đầu về phía một thủy thủ của anh ta, “Trói họ lại và đưa họ tới mạn thuyền trong khi ta trò chuyện với quý ngài đây.” Anh ta nhìn James, mắt ánh lên vẻ tàn nhẫn lạnh lùng của thuyền trưởng hải tặc. “Nếu ta không lên boong trong một tiếng nữa, hãy giết tất cả bọn họ, Sly. Giết sạch.” Một tiếng trông qua, và Barry chưa xuất hiện trở lại. Tuy nhiên, Sly biết đừng nên thực thi mệnh lệnh của thuyền trưởng trước khi xuống gác nhìn. Đến lúc anh ta ngó vào, James và Griffin đã uống đến chai cognac thứ hai.
Màn đêm buông xuống, tàu Percival bị kéo theo tàu Flying Poppy, đoàn thủy thủ của họ làm việc theo kỷ luật (trừ vài gã hải tặc ngắm nghía vai Squib). James và em họ - người anh vừa chuyển sang gọi bằng tên, tiếp tục rượu chè.
“Không thể thường xuyên uống thế này,” một lúc sau Griffin lầm bầm, “Thuyền trưởng không thể kết thân với thủy thủ của mình.” “Tôi sẽ nhớ điều đó,” James nói, giọng lè nhè. “Anh có nhớ chúng ta đã làm gì vào lần đầu tiên gặp nhau không?”
“Trèo lên mái nhà,” Griffin nói sau một thời gian thoáng hồi tưởng, “móc dây thừng từ một ống khói, trèo xuống đủ để đập cửa sổ phòng trẻ và cố gắng dọa vú em của anh.” “Kế hoạch là thế,” James đồng ý, hớp thêm một ngụm cognac. Họ uống thẳng từ chai. “Thực tế không như vậy.”
“Em gái tôi thì vừa hét vừa chạy, nhưng em gái anh thì không. Cô ấy đã mở cửa sổ ra, nhớ không? Tôi tưởng cô ấy sẽ kéo chúng ta vào, nhưng thay vào đó cô ấy đã hắt một xô nước vào mặt chúng ta, cười như điên. Cô ấy có thể giết chết chúng ta đấy.” “Không phải em gái,” James nói khá gắt gỏng, “Tôi đã cưới cô ấy. Cô ấy là vợ tôi.” Trước khi định thần, lần đầu tiên anh bắt đầu kể chuyện về những gì đã xảy ra chín tháng trước. Nó tuôn ra khỏi miệng anh. Không phải tất cả… không phải việc anh và Daisy đã làm trong thư viện… nhưng thế là đủ.
“Chết tiệt,” Griffin cảm thán. “Cô ấy đã nghe hết à?” Con tàu bị sóng đánh và James suýt ngã khỏi ghế, nhưng anh trụ lại được. “Say ngoắc cần câu,” anh tự lẩm bẩm. “Cô ấy đã nghe thấy từng từ một. Bảo tôi đừng bao giờ trở lại. Sáng hôm sau tôi đã tiếp quản tàu Percival.”
“Tôi cũng có vợ ở đâu đó,” Griffin nói, không chút hối hận, “Không có thì tốt hơn.” Không chút tao nhã, họ cụng ly. “Chúc mừng tàu Poppy,” James nói.
“Và Poppy 2 nữa,” Griffin nói thêm. “Thấy cái này không?” Anh ta gõ nhầm bên má, nhưng James vẫn hiểu ý và cảm thấy e dè. Không người đàn ông có hình xăm nào có thể trở lại xã hội Anh quốc. Người có hình xăm không cúi chào nữ hoàng, hay khiêu vũ ở Almack và cũng không hôn chúc vợ ngủ ngon.
Có những lúc, trong đêm tối, anh khao khát Daisy đến mức gần như không thở nổi. Có những lúc anh nghĩ mình phải quay về với cô, van xin cô chấp nhận anh và ngủ ở cửa phòng cô nếu cần thiết. Sau rốt thì họ đã là bạn bè cả đời, cả người tình nữa… Anh vẫn choàng tỉnh, run rẩy và khuấy động, vì mơ thấy cô.
Nhưng nếu anh xăm mình, những giấc mơ đó sẽ chấm dứt. Không đời nào có chuyện quay trở lại. Và đó là điều cô muốn. Cô đã bảo anh đừng bao giờ quay trở lại, cô không bao giờ muốn thấy mặt anh nữa. Daisy luôn nói thẳng những gì mình nghĩ. Cô thẳng như mũi tên. Không giống anh.
“Phải rồi,” anh nói, đứng dậy mà không lảo đảo, “Phải lên thuyền của anh. Xăm mình để tôi có thể thật sự là hải tặc.” “Anh có thể qua đó nhưng không được xăm,” Griffin nói, “Anh phải có chiến công mới được xăm hình. Không phải cứ xin là được.”
James gật, “Chết tiệt, đầu tôi bắt đầu nhức rồi.” “Ba chai cognac,” Griffin nói, cũng đứng dậy. Anh ta đâm vào tường. “Tôi không còn giỏi uống rượu nữa. Tôi đã kể cho anh chuyện tôi không bao giờ uống với thủy thủ chưa?”
James gật, điều đó khiến đầu anh đau đớn. “Tôi sẽ học tất cả,” anh nói. Lên boong, không khí biển đánh thức họ.
“Chúng ta sẽ lên thuyền của anh thế nào đây?” James nói. Trước đó tàu Poppy đã lại gần tàu Percival, đủ gần để hải tặc nhảy khỏi boong của mình, nắm lấy mạn thuyền Percival và lao qua. Nhưng giờ hai con tàu cách nhau một khoảng xa, buồm cuộn lại. Với một tiếng hét lớn, Griffin đá văng bốt và nhảy thẳng xuống dòng nước xanh.
“Điên rồi,” James lầm bầm. Quý tộc Anh chỉ ngâm mình dưới nước, dù tất nhiên là anh biết bơi. Nhưng anh cũng lao xuống dòng nước ấm áp như bồn tắm và đuổi theo em họ, người đang bơi như cá mập.
Rồi anh trèo lên thang dây, tay này tay kia nhanh như Griffin. Đầu James đã thanh tỉnh, anh tỉnh táo hệt như lúc lao qua mạn tàu. Uống brandy và nói chuyện thân mật, Griffin đúng là một hải tặc quý tộc.
Đội hải tặc đang túm tụm lại quanh anh ta. Họ quay lại khi James đứng thẳng người dậy, nước nhỏ tong tỏng. Mặt Griffin khác hẳn khi ở giữa những người của mình – nó hung tợn, không có lấy một dấu vết của dòng máu quý tộc. “Đây là anh họ của ta,” anh ta tuyên bố. Nhóm hải tặc gật đầu, dù vài người nheo mắt. “Anh ta sẽ là thuyền trưởng của tàu Poppy 2. Các người có thể gọi anh ta là Bá tước.”
Họ đi xuống cabin của Griffin, ở đó Griffin quẳng cho James quần áo khô – những bộ đồ thô ráp, thích hợp với việc đánh nhau trên biển. Không xin phép, anh ta cầm kéo và cắt tóc của James tới tận mang tai. “Điều cuối cùng anh muốn là một tên đồ tể kéo anh lại bằng những lọn tóc xinh xắn này,” anh ta giải thích. James nhìn mình trong gương và tán thưởng. Không còn dấu hiệu của bá tước Anh nữa. Anh trông giống một người đàn ông bất cần, không quan tâm đến vợ, gia đình, hay tài sản thừa kế.
Điều đó chưa đúng, nhưng anh sẽ biến nó thành sự thật. Giờ anh là hải tặc
~*~ Một năm sau
Dùng chiến lược gọng kìm đã luyện tập hoàn hảo (và hết sức thành công), tàu Flying Poppy và Poppy 2 đã chiếm thêm một con tàu hải tặc khác – tàu Chiến Hạm. Các tấm gỗ tếch và các thùng trà Trung Quốc cùng với đoàn thủy thủ tàu Chiến Hạm giờ thuộc quyền kiểm soát của tàu Flying Poppy, còn con tàu đã theo xác thuyền trưởng của nó – Flibbery Jack - xuống đáy biển Thái Bình Dương. Griffin và James đang ngồi ườn trong cabin của Griffin, chúc mừng chiến thắng mới nhất bằng vài ly cognac. Sau đêm đầu tiên uống rượu với nhau, họ chưa hề buông thả lần nào nữa, nó trái với bản chất của họ.
“Chúng ta giống nhau một cách đáng ngạc nhiên,” James nói, theo dòng suy nghĩ đó và đưa ra một kết luận logic. “Những thủy thủ cực giỏi,” Griffin đáp, “Đúng lúc tôi nghĩ tàu Poppy 2 không thể lướt tới chỗ tôi muốn thì anh đã làm được.”
“Đáng tiếc cho những người đó.” “Những người chết à?”
“Phải.” “Chúng ta không mất người nào. Và đoàn thủy thủ tàu Chiến Hạm khét tiếng khắp Đông Ấn,” Griffin chỉ ra. “Chúng ta đã ban ơn cho thế giới đấy. Thêm một ơn huệ nữa, cân nhắc đến việc tháng trước chúng ta vừa đánh đắm tàu Nhện Đen. Và tôi có thể nói thêm rằng tàu Chiến Hạm nổi danh vì bắt một tàu chở khách đến Bombay và lệnh cho mọi người đàn ông, phụ nữ và trẻ em trên tàu nhảy xuống biển không?”
“Tôi biết điều đó,” James nói. Những nghiên cứu về hải tặc và lộ trình của chúng đã rất hữu ích với họ trong mấy tháng qua. Giờ hải tặc sợ hai con tàu Poppy như tàu buôn sợ hải tặc. “Chúng ta đúng là Robin Hood đấy.”
“Trừ ngoại lệ nhỏ là chúng ta không chia của cho người nghèo,” James nói khô khan. “Chúng ta đã trả bức tượng vàng về cho vua Sicily. Chúng ta có thể bán nó,” Griffin không thích những cử chỉ cao thượng.
“Ferrdinand đã viết thư cho phép chúng ta gắn cờ của ông ta lên với tư cách tàu săn hải tặc, nó đáng giá hơn tượng thánh Agatha, cho dù bức tượng đó không rỗng ruột đi nữa… mà tôi xin phép được chỉ ra là nó rỗng ruột.” Griffin chỉ nhún vai. Anh ta không thích cho không thứ gì hết, nhưng đến anh ta cũng phải thừa nhận rằng săn hải tặc dễ sống hơn hải tặc, dù sự khác biệt hết sức mơ hồ.
“Tiện thể, anh định làm gì với đống vải vóc anh cất trong cabin?” anh ta hỏi. “Anh định quyến rũ một người phụ nữ lên boong à? Nhóm thủy thủ không chịu đâu. Cơn bão đầu tiên ập đến, anh sẽ đi tìm cô nàng của mình và phát hiện ra cô ta đã bị quăng xuống biển để tế quỷ biển, hoặc Poseidon, hoặc bất kỳ thứ gì làm hại anh.” “Tôi nghĩ mình sẽ gửi vải về cho vợ. Cô ấy luôn trò chuyện liên mồm về vải vóc, và những mảnh lụa đó hết sức đáng yêu. Tàu Chiến Hạm hẳn đã bắt được một tàu buôn lụa.”
“Vì sao anh lại làm thế?” Griffin hỏi, sửng sốt thấy rõ. “Cô ta đã đá anh ra khỏi cửa, dù như lời anh nói thì cô ta làm như thế là đúng. Sao phải nhắc nhở cô ta về sự hiện diện đáng ghê tởm của anh?” “Câu hỏi hay đấy,” James nói, nốc cạn ly cognac, “Quên vải vóc đi, chúng ta phải làm gì đó với đống vàng.”
“Gửi ngân hàng đi,” Griffin nói ngay lập tức. “Khi nghĩ lại cái cách tôi chỉ chất nó vào hang động trước khi anh đến là tôi lại khó chịu cả người. Chúng ta nên chuyển vào Genoa hay mở một tài khoản ở nơi khác?” “Tôi đang lo về tài khoản của chúng ta trong ngân hàng Paris, cân nhắc đến bàn tay nhớp nháp của Napoleon,” James nói, “Tôi nghĩ chúng ta nên đến đó và đóng tài khoản đó lại. Chúng ta sẽ đặt phần lớn ở Genoa.”
Griffin đặt cốc rượu không của mình sang một bên và đứng dậy. “Nhìn này, James, tôi có vài tin xấu đây. Quản lý neo buồm trên tàu Chiến Hạm đã bị bắt ở Bristol hai tháng trước, và anh ta cầm theo cái này.” Anh ta đi ra chỗ tủ, cầm tờ báo đang nằm ở đó lên và đưa nó cho James. Một thông báo được đóng khung viền đen báo tin Công tước Ashbrook đã chết đột ngột.
James nhìn xuống tờ báo. Cha anh đã chết hai tháng. Chỉ thế, thế giới của anh thay đổi. Rồi, sau vài giây, anh bình tĩnh đứng dậy và nói, “Tôi về tàu Poppy 2 và bảo thủy thủ rằng chúng ta sẽ hướng tới Marseille. Chúng ta nên đổi thành buồm của tàu săn hải tặc.” Griffin đấm vào cánh tay anh. “Đừng nghĩ tôi sẽ gọi anh là ‘Ngài Công tước’ nhé. Anh nghĩ nhóm thủy thủ có theo kịp nếu chúng ta thông báo tên anh đổi sang Công tước không? Bá tước có vẻ không hợp với địa vị cao quý của anh.”
James không thèm trả lời. Anh mệt mỏi trèo cầu thang. Họ có một thủy thủ chuyên trèo thuyền giữa hai tàu Poppy, và một giây sau anh đã băng qua khoảng cách ngắn đó. Hoàng hôn đã buông xuống, đại dương dường như mất sạch màu sắc và chi tiết, con thuyền nhỏ có mái chèo dường như vừa xuyên qua một đám sương mù. Về lại cabin của mình, anh cảm thấy kiệt sức đến mức nằm phịch xuống giường mà không thay đồ. Hôm nay là một ngày dài vất vả - từ lúc phát hiện ra con tàu hải tặc, anh và các thủy thủ khác thường xuyên mất ngủ đến bốn mươi tám tiếng đồng hồ, một giai đoạn quan sát căng thẳng thường dẫn đến một trận chiến đẫm máu. Hải tặc luôn đánh nhau kịch liệt, và hạ gục họ là một trận chiến giáp lá cà tàn nhẫn. Việc đánh chiếm tàu Chiến Hạm ngày hôm nay cũng không khác gì.
Dù thể xác kiệt quệ, tâm trí anh dường như đông cứng, không thể nghĩ gì ngoài cái chết của cha mình. Người của anh xuất hiện cùng một chậu nước nóng trước khi lặng lẽ lùi ra. James nhỏm dậy và cởi đồ, ký ức đi loạn trong não. Cuộc đời anh có rất nhiều lúc căm ghét cha mình, nhưng anh chưa bao giờ nghĩ ông sẽ không còn trên đời. Chưa bao giờ. Công tước không già lắm, nhưng rồi James nhớ lại những mảng tím sẫm trên má ông khi ông giận dữ. Không nghi ngờ gì, tim ông đã nổ tung.
Vậy nhưng… với những việc cha anh đã làm, James chưa từng thật sự nghi ngờ việc ông yêu anh, James, con trai và cũng là người thừa kế, đứa con độc nhất của ông. Công tước là một người ngu ngốc, cờ bạc, bất cẩn, coi khinh cảm xúc của những người xung quanh. Nhưng ông yêu James. Sự thật rằng ông đã chết mà không biết con trai mình còn sống hay chết như một con dao cắm vào xương sườn James. Ký ức ùa về, những ký ức không liên quan tới việc trộm tài sản của Daisy. Không, anh nhớ lại những lúc cha anh lao vào phòng trẻ và bế anh lên vai, cho anh trốn dưới bàn của ông để gia sư không tìm thấy; nhớ lại lúc ông xuất hiện không báo trước ở Eton, dùng tước vị để xông vào lớp học rồi đưa James cùng bạn bè của anh đi thuyền trên sông Thames.
Sự đau khổ trộn lẫn với cảm giác tội lỗi. Hai cảm xúc ấy đọng lại trong lồng ngực anh như đá tảng, nói với anh rằng cha anh đã chết vì đau tim. Anh biết điều đó.
Anh nên… anh nên… làm gì? Điều dó không còn quan trọng nữa. Anh đã không làm gì cả. Và công tước đã mất. Cũng như mẹ anh. Daisy chắc sẽ xoay sở ổn thỏa. Daisy chắc sẽ bảo đảm rằng cha chồng cô, dù bị cô ghét bỏ, có một tang lễ hợp lễ nghi.
Tắm xong, anh nhìn chằm chằm vào đống vải ở góc phòng khi lau người và tuyệt vọng muốn nghĩ tới bất kỳ chuyện gì khác ngoài cái chết của cha. Đống vải sáng lấp lánh như những khu chợ Bắc Phi và Ấn Độ, nơi xuất xứ của chúng. Mắt anh dán chặt vào một tấm vải có màu xanh nhạt như một ngày hè nóng bức ở Anh quốc, khi bầu trời dường như xa vời vợi, trông như thiên đường.
Dù đang nhìn, bắt tâm trí trống rỗng, anh vẫn như nghe được giọng cha quát tháo, bảo anh đừng có cứng đầu nữa mà hãy trở về, đối diện với trách nhiệm của mình, tiếp nhận chức vị công tước. Vậy nhưng giờ đây âm thanh ấy đã mãi mãi im lặng. Ký ức của James về cha rất vô dụng và xa xăm, như thể nước Anh chỉ là một vương quốc dưới đáy biển, một vùng đất của cá mà anh không thể hòa hợp, chả khác gì một con cá hồi đứng sau bục kinh của nhà thờ St.Paul.
Kệ xác nó. Anh đã ngừng mơ về Daisy, nhưng điều đó không có nghĩa là anh đã ngừng nghĩ về cô. Anh vẫn thường xuyên nhớ cô, dù phần lớn là lúc anh cô độc trên giường, dưỡng bệnh sau khi bị thương.
Nếu có cơ hội làm lại, anh sẽ không chạy trốn khỏi Anh quốc. Anh sẽ bế vợ lên gác và quăng cô lên giường, làm cô hiểu cảm giác của anh về cô. Nhưng giờ đã quá muộn – những giấc mơ ấy cũng đã chết như cha anh. Ở Anh quốc chẳng còn gì cho anh hết. Anh phải ra đi bảy năm trước khi họ có thể tuyên bố anh đã chết. Chỉ còn chưa đầy hai tháng là anh đã ra biển được hai năm. Pinkler–Ryburn là một anh chàng đứng đắn; anh ta sẽ nhận được tước vị trong vòng năm năm nếu James không trở lại. Rồi Daisy có thể tái hôn. Chặt đứt mọi mối liên hệ với nước Anh sẽ dập tắt triệt để khao khát muốn về nhà với cô, những khao khát kỳ cục và đáng xấu hổ.
Anh có thể nghe giọng Daisy trong trẻo như tiếng chuông bên tai khi cô bảo anh rằng cuộc hôn nhân của họ đã chấm dứt. Và cô đã nói một người đàn ông khác sẽ yêu cô, một người tốt hơn anh. Điều đó cũng dễ hình dung. Nhưng anh chưa từng ghét ai trong đời nhiều như ghét chính mình.
Anh hét ầm lên, và người của anh ló đầu. “Ném thứ đó qua mạn tàu,” anh ra lệnh, hất đầu về chồng vải. Anh ta ôm đống vải lên và lao vội ra cabin. Một tiếng sau, James đã cạo đầu và xăm một bông hoa anh túc nhỏ dưới mắt phải. Anh chiếm tên của Fibbery Jack, thuyền trưởng tàu hải tặc không còn cần cái tên đó nữa.
Jack Hawl vĩ đại. Bởi vì James Ryburn – Bá tước Islay – đồng thời là Công tước Ashbrook đã chết.