The worth of a book is to be measured by what you can carry away from it.

James Bryce

 
 
 
 
 
Tác giả: Alain Wasmes
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Những Năm Tới ...
iệp định Paris vừa được ký kết, Bắc Việt Nam đã bắt tay ngay vào tổ chức lại xã hội một cách cơ bản. Hơn một lần nữa toàn bộ những biện pháp đề ra đều chứng tỏ các nhà lãnh đạo Việt Nam mong muốn hiệp định Paris được chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Mình còn đầy những thương tích chiến tranh trong cuộc đương đầu trực tiếp với cường quốc đầu sỏ đế quốc chủ nghĩa, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tập trung không chậm trễ vào những vấn đề phát triển đất nước. Thế rồi hai năm sau nữa, khi những vết thương còn chưa kín miệng, các nhà lãnh đạo Việt Nam lại tìm thấy ở nhân dân mình quyết tâm và sức mạnh cần thiết để đánh thắng một trận quyết định cuối cùng, làm thất bại mọi toan tính của người Mỹ... Điều đó chỉ có thể làm được là nhờ vào những mối liên hệ mật thiết giữa chế độ và nhân dân, sự đoàn kết của nhân dân xung quanh Đảng, và sự tài tình trong việc chỉ đạo chiến lược của các nhà lãnh đạo Việt Nam, những người đã biết dựa vào sự linh hoạt mềm dẻo của những cơ cấu xã hội để đương đầu với kẻ thù và chuẩn bị cho tương lai. Tương lai ấy, người ta có thể dựa vào những phương hướng lớn của kế hoạch 5 năm 1976-1980, để phác ra những nét chính của nó. Đó là một kế hoạch tất nhiên được xây dựng trên quy mô toàn quốc, nhằm xây dựng một đất nước thống nhất với 320.000 kilômét vuông và thềm lục địa thuộc chủ quyền quốc gia, một đất nước có 45 triệu dân đứng hàng thứ ba trong phe xã hội chủ nghĩa về dân số, trong đó có 21 triệu lao động, tức ngang bằng dân số lao động của nước Pháp.
Kế hoạch này dựa vào một phân tích chủ yếu: mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam trong tổng thể là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến với lực lượng sản xuất lạc hậu. Vậy để giải quyết mâu thuẫn này, Việt Nam cần phải huy động và phát triển những khả năng của cách mạng khoa học và kỹ thuật để chuyển từ một nền sản xuất nhỏ phân tán sang một nền sản xuất lớn dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp hoá... Đường lối chủ yếu là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, bằng cách cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp; kết hợp phát triển kinh tế địa phương với kinh tế trung ương; kết hợp kinh tế với quốc phòng...
Thực hiện kế hoạch này, Việt Nam có những thuận lợi lớn: đất nước đã hoà bình, Việt Nam có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đồng thời có thể hợp tác về khoa học và kỹ thuật với các nước khác trên thế giới. Cuối cùng, tiềm lực của miền Nam sẽ làm thay đổi đáng kể những điều kiện để tích luỹ: tiềm lực ấy sẽ giúp giải quyết một vấn đề lớn là vấn đề tự túc về lương thực và tạo ra một lượng dư thừa để xuất khẩu; tiềm lực ấy cũng sẽ mở rộng thị trường quốc gia và cho phép phân bố những cơ cấu kinh tế một cách hợp lý...
Nhìn vào những mục tiêu mà kế hoạch 5 năm nhằm đạt tới vào năm 1980, người ta cũng thấy rõ nhân dân Việt Nam qua chiến tranh đã phải chịu đựng những khó khăn thiếu thốn như thế nào. Lĩnh vực xã hội đầu tiên mà mục tiêu của kế hoạch đề cập là việc cải thiện đời sống nhân dân về cái ăn, và để làm việc này, người ta đã dự kiến trong vòng hai, ba năm, sẽ bảo đảm cho dân đủ no và bữa ăn có thêm thịt, cá. Rồi đến nhà ở: từ 1976, nhà nước đã tăng đầu tư vào đây 10% so với trước và mục tiêu đề ra vào cuối kế hoạch, nhân dân thành phố sẽ mỗi người có 4 mét vuông nhà ở (hiện nay là 1,2 đến 1,5 mét vuông một đầu người). Về các mặt, sẽ tăng từ 4-5 mét (tiêu chuẩn cán bộ và công nhân viên) trên 7 mét cho mỗi người dân.
Về việc học hành: năm 1976, Việt Nam có 11 triệu học sinh. Nếu kể tất cả số người đi học, trong đó có cả những người học bổ túc, thì cứ ba người dân Việt Nam có một người đi học.
Còn về kinh tế, những mục tiêu đề ra cho nó thể hiện quyết tâm của Việt Nam là tiến nhanh lên thời hiện đại. Mục tiêu đầu tiên là tăng sản lượng gạo để vừa bảo đảm nhu cầu trong nước, vừa bảo đảm có khả năng xuất khẩu. Năm 1980, mục tiêu dự kiến là sẽ đạt được 18 triệu tấn. Về công nghiệp nặng thì sẽ ưu tiên cho sản xuất điện, và ưu tiên này vẫn sẽ được tiếp tục trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Mục tiêu là đến năm 1980, sản lượng điện sẽ tăng gấp đôi so với sản lượng điện của cả nước năm 1975.
Nhà nước cũng sẽ tập trung nỗ lực vào phát triển công nghiệp cơ khí để trang bị cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Hiện nay nông nghiệp mới được 11% cơ khí hoá, cuối kế hoạch 5 năm sẽ tăng lên 30%. Sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa sẽ rất quan trọng. Liên Xô dự kiến sẽ cung cấp cho Việt Nam một nhà máy chế tạo máy kéo có khả năng sản xuất được 20 đến 25.000 máy kéo trong một năm. Việc tìm kiếm dầu mỏ ở vùng biển miền Nam được đề ra trong kế hoạch 5 năm cũng sẽ mở ra cho Việt Nam kỷ nguyên khai thác dầu khí. Nhưng công trình quan trọng nhất là công trình thuỷ điện sông Đà sẽ được xây dựng ở Hoà Bình với sự giúp đỡ của Liên Xô. Ngoài ra Liên Xô sẽ còn giúp xây dựng một khu liên hợp luyện thép mới với năng suất 1,5 triệu tấn thép một năm...
Vậy là chẳng những không bị “quay về thời kỳ đồ đá”, như lời đe doạ của một người nào đó trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ, mà Việt Nam còn đứng vững và giờ đây đang xây dựng tương lai.
Vài tháng sau giải phóng, bà Ngô Bá Thành tiếp tôi ở Sài Gòn. Bà vừa dự hội nghị giữa các đại diện hai miền để quyết định về việc thống nhất đất nước và bà tỏ ra hoàn toàn tán thành các kết luận của hội nghị, đặc biệt là về lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Bà cho biết, đối với riêng bà cũng như đối với phần lớn trí thức miền Nam, sự lựa chọn ấy không hề mang tính chất “tiên nghiệm về mặt học thuyết” mà nó là kết quả của thực tế, căn cứ vào “kinh nghiệm của những sự việc...” Và bà kết luận: “Tất cả mọi người đều có cơ hội ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua tự mình xem xét...”
Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để phá hoại Việt Nam, bằng bom đạn cũng như bằng các thủ đoạn đánh vào quyết tâm, ý chí. Họ đã để lại trên đất nước này 25 triệu hố bom. Và chỉ riêng để làm cái mà họ gọi là tác động tâm lý, họ đã quẳng xuống Việt Nam hơn... sáu tỷ hai trăm triệu tờ truyền đơn mà buồn thay cho họ, người Việt Nam chỉ coi nó như những tờ giấy lộn. Chế độ bù nhìn Sài Gòn mà họ muốn dựng lên theo hình ảnh của họ thì nó chỉ càng làm cho hình ảnh ấy thêm đồi bại. Và khi ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Hoa Kỳ hiện lên như một người ốm yếu...
Về phía mình, Bắc Việt Nam đã phải ba lần xây dựng lại đất nước: 1954, 1969 và 1972... để rồi lại phải nhìn thấy biết bao công sức trong mười năm của họ đã bị phá huỷ trong tám năm chiến tranh. Thế nhưng qua lửa đạn của những trận ném bom, miền Bắc đầy sức sống vẫn hiên ngang đứng vững...
Thắng lợi của Việt Nam trước hết là thắng lợi của con người Việt Nam, của nhân dân Việt Nam. Việt Nam có một lịch sử lâu đời từ hàng nghìn năm, mà sự chia cắt đất nước năm 1954 chỉ là một chia cắt tạm thời, một “tai hoạ” do sự can thiệp của nước ngoài gây ra. Lịch sử vừa qua chứng tỏ rằng các nhà cách mạng Việt Nam, bám rễ sâu vào lịch sử đồ sộ của họ, đã biết tạo ra một ý nghĩa mới bằng việc trang bị cho nó một vũ khí sắc bén để giành chiến thắng: đó là việc thành lập một Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ hoạch định một chiến lược cách mạng mới độc lập, sáng tạo, và làm cho truyền thống của lịch sử của dân tộc Việt Nam thêm phong phú bằng cách vạch ra một “con đường Việt Nam” cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa của họ.
Cuộc đấu tranh lâu dài của người Việt Nam sẽ có thể kết thúc một cách khác đi, không như những gì đã diễn ra trong cái buổi sáng cuối cùng của tháng Tư năm 1975, nếu như không có sự ngoan cố của những nhà lãnh đạo Mỹ. Nhưng dù kết cục thế nào thì nguyên tắc chỉ có một - điều đó đã khắc sâu vào tâm trí mỗi người Việt Nam. Vì vậy mà trong chiến tranh Việt Nam, người thắng là toàn dân tộc Việt Nam và ở Việt Nam không có phân chia người thắng và kẻ bại. Và lúc này, tất cả mọi người Việt Nam đều có một nỗ lực chung là hàn gắn lại các vết thương chiến tranh.
Việt Nam không phải là một chiến trường khép kín mà đương đầu với nhau là “các cường quốc lớn” thông qua một số nước nhỏ bị lôi vào vòng chiến. Nhưng thực sự đó là một cuộc đụng độ giữa hai quan niệm của hai thế giới mà ranh giới của nó không trùng hợp với biên giới của các lãnh thổ, mà ranh giới đó đi qua trái tim và khối óc của nhân dân mỗi nước. Cần nói rằng đây không phải là người Việt Nam muốn khoác cho cuộc đấu tranh của họ cái tầm cỡ ấy mà chính là các người có trách nhiệm Hoa Kỳ muốn thế: họ muốn lấy “gương” của Việt Nam để dạy cho thế giới một bài học, bằng cách ném toàn bộ sức mạnh của họ vào một cuộc chiến tranh chống lại nhân dân Việt Nam, một dân tộc không có nguyện vọng nào khác là muốn được sống “độc lập, tự do”. Người Việt Nam đã chấp nhận và tiến hành cuộc chiến đấu đó, hoàn toàn ý thức rằng - như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói - họ là người đối diện cho các lực lượng “của văn minh chống lại các lực lượng của bạo tàn”.
Cuộc trốn chạy bằng trực thăng vào sáng sớm 30 tháng Tư của “thái thú” Mỹ Graham Martin vài giờ trước khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn là biểu tượng của một sự kiện lớn: cường quốc lớn nhất của thế giới tư bản chủ nghĩa đã bị Việt Nam trực tiếp đánh bại trên chiến trường. Cùng với nó là thất bại của một chính sách được xây dựng trên sức mạnh của tàu chiến, của B-52 và của đôla Mỹ. Đối với nhân loại tiến bộ, thắng lợi của Việt Nam như xã luận báo Nhân dân viết là “thắng lợi lớn nhất kể từ sau khi thất bại của chủ nghĩa phát xít Hitle” năm 1945. Giành được thắng lợi ấy là nhờ nhân dân Việt Nam có được cái mà họ gọi là “sức mạnh tổng hợp của thời đại”: đó là phe xã hội chủ nghĩa phong trào công nhân và tiến bộ quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc...
Thắng lợi của Việt Nam là một đóng góp hết sức quan trọng cho hoà bình thế giới mà bây giờ hãy còn quá sớm để đo được mức độ rộng lớn của đóng góp ấy. Nhưng trong khi khước từ không chịu chấp nhận “hiện trạng” bị chia cắt cũng như sự nô dịch của nước ngoài trên một nửa đất nước mình, các nhà cách mạng Việt Nam đã có sự hỗ trợ quyết định cho sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình thế giới, bởi bằng việc làm của mình, họ khẳng định rằng thế giới ngày nay đã thay đổi một cách cơ bản; đế quốc Mỹ không phải muốn làm mưa làm gió thế nào thì làm...
Trong mớ bòng bong của lịch sử mà những cuộc đấu tranh trên thế giới đang đan quện vào nhau, chúng ta hãy thử rút một sợi ra xem... Ngày 1 tháng Tám năm 1975, ở Helsinki, hội nghị an ninh và Hợp tác Châu Âu đã ký vào văn kiện cuối cùng.
Bên cạnh các nước Châu Âu, Hoa Kỳ cũng ký vào một văn bản trong đó việc áp dụng các nguyên tắc về chung sống hoà bình ở Châu Âu được lập thành quy tắc: đối với hoà bình ở Châu Âu, tài liệu đó có một ý nghĩa rất cơ bản. Thế mà năm 1954, khi ông Môlôtốp lúc đó là bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô đề nghị với Pháp, Anh và Hoa Kỳ cùng nhau ký một Hiệp ước an ninh tập thể Châu Âu, mà những nguyên tắc của nó thì cũng tương tự như những nguyên tắc của bản Hiệp định Helsinki 1975 - thì ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles trong khi bác bỏ đề nghị ấy đã trả lời Môlôtốp rằng: “Đó là một trò đùa tồi tệ”! Chúng ta nhớ rằng, khi đó là Hoa Kỳ chính thức can thiệp vào Việt Nam...
Ở Việt Nam, từ tháng Năm năm 1975, hàng vạn người ở miền Bắc đã đổ xô vào miền Nam để tìm gặp họ hàng bà con... bằng máy bay, tàu thuỷ, ô tô, xe lửa... Mọi phương tiện đều được huy động: ba người ngồi dồn vào một chỗ, xe tàu chật ních người như muốn vỡ tung ra. Có hôm ở quầy bán vé nhà ga Hà Nội, anh nhân viên bán vé mặt tái mét đi vì sợ khi đám đông giận dữ đập cửa ầm ầm đòi doạ đánh anh ta chỉ vì cái tội anh ta đã trả lời mọi người rằng nhà ga đã... hết vé!...
Lúc 19 giờ 15 ngày 13 tháng Năm, lần đầu tiên từ hai chục năm nay, một chuyến thư tới Hà Nội mang theo 15.600 lá thư gửi thẳng từ Sài Gòn ra. Rồi từ đó hàng vạn lá thư khác cũng được tiếp tục gửi ra trong những ngày sau đó.
T... nhận được một lá thư của vợ. Một lá thư nhỏ đựng trong chiếc phong bì có dấu “Air Mail”, mà trên đó có một nét chữ mờ nhạt, viết một cách vội vã, không ghi địa chỉ mà chỉ có mấy dòng vắn tắt về lai lịch của anh. Và một dòng ghi ngày tháng. Phải mất rất lâu, T... mới dám bóc thư ra xem, bởi vì anh biết rằng nó sẽ đầy những kỷ niệm, những thương nhớ của những con người do hoàn cảnh phải chia ly... Ngày tháng trên phong bì là ngày cưới của vợ chồng anh, và nét chữ là của vợ anh, người vợ yêu dấu mà từ hai chục năm nay anh chưa được một lần gặp mặt...
HẾT
Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam - Alain Wasmes Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam