Nguyên tác: Diary In Grey Tower
Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2020-12-23 17:00:23 +0700
Chương 14
G
iống như ta lê mòn gót khắp thế gian để tìm một nàng thơ, thì ra nàng thơ ấy lại đang ngồi trong chính nhà ta uống trà chiều.
Một thời gian dài tôi và Andemund cắm đầu bới tung đống khả năng phức tạp lộn xộn, ra sức tìm kiếm điểm khởi đầu của ba vòng chuyển hoán mỗi ngày. Bọn tôi nhấn chìm đầu óc mình vào mớ lý thuyết mật mã học quá cao siêu mà quên bẵng đi nền tảng cơ bản của nó là số học cao cấp.
Ngày trước tôi bắt đầu nghiên cứu “Lý thuyết nhóm” bởi vì người phát hiện ra nó là thiên tài số học Pháp, Galois.
Ông ấy phát hiện ra lý thuyết nhóm năm mười chín tuổi.
Hai mươi tuổi ông ấy chết trong một cuộc đấu súng ngầm liên quan đến chính trị.
Một ngày trước cuộc đấu súng, ông không lo sợ, cũng không nhắn nhủ lại một lời nào cho mẹ và vợ mình, thay vào đó ông ấy viết thâu đêm. Ông viết lại mọi thành tựu của mình về số học rồi trao cho người bạn duy nhất cùng với một bản luận văn. Sau này người ta nhận thấy bên lề những trang nháp cuối cùng của mình, ông ghi chi chít mấy chữ… “không đủ thời gian rồi”.
Mười bốn năm sau người ta mới lý giải được khái niệm “lý thuyết nhóm” ông đưa ra và nhận ra rằng chúng có thể lý giải triệt để bài toán giải phương trình bằng căn thức từng khiến bao nhà số học đau đầu suốt mấy trăm năm.
Chỉ là khi ấy nhà số học kiệt xuất nhất thế giới đã vĩnh viễn yên nghỉ ở tuổi hai mươi.
Ông ấy chỉ mới nghiên cứu số học đúng năm năm.
Đầu tiên chỉ vì hiếu kỳ, tôi bước vào lĩnh vực của Galois. Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng đó chính là chìa khóa mở cánh cửa “Mê”.
Vì thực chất “Mê” chính là một nhóm hoán vị bởi vòng chuyển hoán và hai mươi sáu chữ cái.
Nếu xây dựng phương trình từ giác độ lý thuyết nhóm thì phương trình ấy hoàn toàn có thể giải được.
Thực ra mà nói dù đi tới bước ấy tôi cũng chưa thể dịch được nó. Chuyện này giống như người ta đều nói mọi con đường đều dẫn tới La Mã, chỉ là chẳng mấy ai thực sự đặt chân được tới đó… đơn giản vì những gì cần tính toán là một con số khổng lồ.
May mắn là trước kia tôi đã phát hiện ra một nhược điểm trí mạng của “Mê” – vòng phản xạ.
Cách thức củng cố quy trình mã hóa của vòng phản xạ hoàn toàn đồng nhất. Nói cách khác nếu chữ cái A qua vòng phản xạ được phản xạ thành B, thì ngược lại kết quả phản xạ chữ cái B qua vòng phản xạ hiển nhiên sẽ là A. Điều này khiến các nhóm hoán vị chữ cái trở nên đối lập nhau, giúp chúng tôi đỡ được rất nhiều phép tính.
Từ ngày ý tưởng lóe lên rồi bỏ rơi Arnold lại quán bar cho đến khi tôi thực sự tìm ra được phương pháp giải mã chắc khoảng một tháng.
Tháng sau nữa tôi gọi điện cho Lindon, đầu dây bên kia cậu ta miễn cưỡng lên tiếng: “Alan, tôi bận lắm, tôi đang phải giải…”
Tôi nói luôn: “Giải được “Mê” rồi. Qua đây luôn đi, cố mang được càng nhiều mã mới chặn được càng tốt.”
Lúc ấy mới chập tối, mặt trời còn chưa lặn hẳn Lindon đã lái xe jeep quân dụng tới. Cậu ta ôm một chồng tài liệu đồ sộ từ ghế sau, vừa đi vừa thở hồng hộc.
Tôi phán: “Andemund mà biết cậu chôm ngần này tài liệu tuyệt mật ra ngoài dám ổng bắn cậu ngỏm luôn.”
Hai mắt Lindon sáng rực: “Ngài Garcia đi vắng rồi, giờ tôi là người đứng đầu văn phòng số 1. Thiếu tài liệu rồi tôi sẽ nghĩ cách, giờ nói tôi biết cậu giải thế nào đi!”
Tôi cầm giấy bút bắt đầu hí hoáy giải thích, Lindon ngồi một bên nghe. Ở một mức nào đó mà nói, cậu ta cũng là một tài năng số học, chỉ có một vài điểm cậu ta phải hỏi lại tôi còn lại hầu đa thời gian cậu ta chỉ im lặng lắng nghe. Tôi nói say sưa từ lúc chập tối, đến khi diễn giải xong các công thức ngẩng lên đã thấy bình minh ló rạng.
Kỳ lạ là mặt mũi Lindon không hề hào hứng như tôi tưởng. Cậu ta lầm lì nhìn tôi, nói: “Alan, cậu là thiên tài.”
Cậu ta hỏi tôi: “Cậu muốn bao nhiêu? Tôi có thể tìm cách lấy tiền cho cậu… nhưng cậu phải nói chính tôi đã giải được “Mê”.”
“Không phải tôi đang giúp cậu, tôi làm vì nước Anh!” Tôi vồ lấy lắc mạnh hai vai cậu ta: “Vấn đề không phải là ai giải, có nó chúng ta có thể nắm được tin tình báo tàu ngầm của Đức qua vô tuyến điện! Thuyền hàng sẽ không bị đánh chìm nữa! Bơ và thịt xông khói của Mỹ sẽ lại cập cảng! Không quân và hải quân của chúng ta…”
“Tôi sẽ không nói ra.” tôi nhớ đến điều Andemund nói, rằng mình là một nhân vật nguy hiểm, lại thở dài: “Tôi không thể nói ra được.”
Lindon kéo tay áo tôi, hỏi đi hỏi lại: “Alan, cậu thực sự sẽ không nhận mình đã giải được nó chứ, chắc chắn thế chứ?!”
Việc giải mã “Mê” là tin tình báo cực kỳ cơ mật, đương nhiên báo chí không thể đăng tải. Ngày hôm sau tôi giở báo sáng ra đọc, thấy vẫn toàn những tin Hải quân Hoàng gia đang thất bại, tình hình vô cùng nặng nề. Nhưng tôi biết, không lâu nữa sẽ có tin tốt.
Chỉ là không đợi được tin tốt, tin xấu đã đến với tôi rồi.
Đầu tiên là thủ tướng lệnh cho tất cả phi công chuẩn bị trực chiến, toàn bộ không quân Hoàng gia đang nghỉ phép đều được triệu tập trở lại. Kỳ nghỉ của Edgar cũng bị buộc phải hủy bỏ. Cậu ta viết một bức thư báo rằng mùa thu năm nay không thể về Cambridge gặp tôi được rồi, nhắc tôi nên tránh xa Quân Áo đen đang tràn khắp mọi nẻo đường London. Trên góc tờ giấy viết thư cậu ấy vẽ chân dung tôi bằng bút máy, kế bên đề dòng chữ: “Để nhắc cậu rằng, tôi yêu cậu.”
Thời buổi này giấy viết cũng mắc mỏ, tôi dùng chính tờ thư của cậu ấy, lật trang sau lại viết hồi âm. Từ bưu điện ra đi tới con hẻm đối diện thì tôi bị hai gã du côn chặn đường.
Một thằng đội mũ rộng vành che khuất mặt: “Ô này, bé dễ thương ơi, ở đây chơi với bọn anh đi?”
Thằng kia mặt có một vết sẹo dài, khóe miệng nó giật giật theo giọng cười hô hố. Nó rút ra một khẩu súng từ trong áo gió: “Đừng nhúc nhích, bé cưng.”
Tôi chậm chạp quay lưng lại, giơ tay lên.
Thằng cầm súng cười bỉ ổi, bước tới dí súng vào lưng tôi, thằng đội mũ lượn lên trước mặt tôi, nó thò tay vào áo khoác tôi. Tôi đã tưởng nó sẽ móc ví của mình nên rất hợp tác bảo nó ví trong túi bên phải… mỗi cái hết tiền rồi thôi.
Đến khi nó bắt đầu cởi cúc áo sơ-mi của tôi và lần sờ đến thắt lưng tôi tôi mới thực sự hoảng.
Thằng sau lưng tiếp tục thúc họng súng vào tôi, nói: “Sợ gì cưng, có phải chưa chơi với trai bao giờ đâu. Mày vốn cũng là đồng tính luyến ái hả?”
Giọng tôi đã muốn lắp bắp: “Các ông… là ai? Sao biết tôi đồng tính?”
Thằng cởi áo sơ-mi bắt đầu dang tay ôm tôi, thằng sau lưng cười khùng khục rồi cũng xáp tới. Tôi cảm nhận được rõ mồn một những nốt chai trên bàn tay chúng mò mẫm người mình. Chỉ có người thường dùng súng mới có loại chai này… tôi từng nhìn thấy chúng trên ngón trỏ tay Andemund. Hơi thở nóng hổi và lời lẽ đê tiện của chúng cùng phả trên cổ tôi: “Chà chà, bóp chỗ này nó sướng này mày…”
Hai thằng đàn ông đều đã cương, cách lớp vải quần tôi vẫn cảm nhận được bên dưới của chúng đang nóng bỏng.
“Rên một tí nghe xem nào…”
“Nào bé, cử động đi, đó đó, chỗ đó…”
“Sao nó như khúc gỗ thế hả, Jack mày sờ quần nó xem nào?”
Có người kéo giật khóa quần của tôi, rồi một bàn tay thọc vào, bắt đầu xâm phạm thô bạo. Tôi nhắm nghiền hai mắt, cố sức khống chế ý thức của mình. Chân tôi đang run lên, nếu không phải chúng xốc hai bên chắc tôi đã khuỵu xuống đất rồi.
Đột nhiên thằng sau lưng chửi thề: “Mẹ kiếp. Không được chơi hết ván, ông cương mẹ nó rồi này!”
Thằng đằng trước cũng phun một câu chửi bằng giọng khàn khàn khó nghe, cuối cùng nó nói: “Được rồi, mày được sờ rồi còn gì! Đi!”
Chúng vừa buông tôi ra, thình lình tiếng còi cảnh sát rít lên xé ngang không khí.
Hai đứa lập tức quay đầu bỏ chạy vào hẻm, còn một mình tôi ở đó hai tay giữ quần nhìn một vị cảnh sát trung niên đi về phía mình.
Tôi bị đưa đến cục cảnh sát, tội danh là gian dâm.
Edgar đã từng nói, đồng tính luyến ái là phạm pháp.
Hai gã đàn ông đã bỏ chạy, tôi không thể chứng minh mình bị dí súng sau lưng. Trong khi ấy, bị hai thằng đàn ông xâm phạm… tôi đã cương.
Suốt quá trình bị điều tra tôi mới sực nhận ra, ngày theo đuổi Andemund chưa bao giờ tôi định che giấu cả. Sau này Arnold tra lại hồ sơ vụ án giúp tôi mới biết lời chứng họ thu thập được có ghi cả câu này: Sarah, bồi bàn tại quán cà phê làm chứng, Alan Castor thực sự có người tình đồng tính.
Đúng là hôm lôi tôi khỏi bar Anh Đào Andemund đã nói: “Chia tay với cậu ta đi. Cậu ta là đồng tính luyến ái.”
Các người thử tưởng tượng nước Anh trong chiến tranh khi ấy người ta sẽ đối xử ra sao với một gã đồng tính luyến ái thất nghiệp. Bất kể tôi giải thích, chửi bới, khóc lóc nói mình bị hãm hại, mình không làm gì thế nào… tất cả vẫn là một cơn ác mộng. Tôi bị buộc tội và chỉ có hai con đường để chọn: vào bệnh viện hay vào nhà giam.
Họ coi đồng tính luyến ái là một chứng bệnh cần được trị liệu.
Tôi muốn gọi cho Lindon nhưng người nghe máy luôn là trợ lý của cậu ta, đáp rằng ngài Brown đi vắng.
Tôi nghĩ đến cầu cứu Arnold, lúc ấy mới vỡ ra mình hoàn toàn không biết cách liên lạc với anh ta.
Sau ba ngày bị tạm giam, tôi chọn vào bệnh viện.
Đó là một bệnh viện tâm thần nhà nước nằm phía Đông London. Tòa kiến trúc bằng đá trắng lạnh lẽo, dây thường xuân phủ kín các bức tường, mọi cửa sổ đều gắn song sắt. Tôi bị xếp cho ở cùng phòng một gã đồng tính nữa, nghe nói anh ta đã được trị liệu một thời gian dài rồi.
Gã đàn ông hai bảy tuổi tên Morin này nói cho tôi biết: “Chỉ khi bác sĩ kí lệnh cho xuất viện chúng tôi mới được thả ra.”
Morin rất mập, tính tình lại u ám khó tin. Anh ta bảo tôi anh ta vào đây được một năm rồi.
Chúng tôi bị nhốt trong phòng mỗi ngày, chỉ lúc ăn và uống thuốc mới có một bác sĩ nam mở cửa ra, đẩy xe đẩy vào.
Tuần đầu tiên tôi hoàn toàn bình thường, nghĩ bụng chỉ cần nghe lời bác sĩ rồi mình sẽ được ra. Nhưng tôi không biết mỗi ngày họ cho tôi uống thứ thuốc gì, chỉ biết nó khiến tâm lý tôi bất ổn, thường thường cảm thấy cồn cào hoảng loạn.
Những lúc ấy tôi sẽ nghĩ về Andemund. Tôi giống như một miếng giẻ rách bị quẳng trong xó tường mốc meo, mà Andemund là ánh sáng duy nhất tồn tại trong tôi khi ấy.
Mật mã không còn quan trọng nữa, chiến tranh cũng không còn quan trọng nữa, tôi chỉ muốn gặp Andemund.
Muốn một lần nữa được thấy anh ấy đứng dưới tàng cây táo ngoài thư viện, mỉm cười với tôi, cặp mắt màu lục thẫm đẹp như những viên ngọc mắt mèo trong tiệm đồ cổ.
Andemund của tôi.
Đến một ngày Morin phát điên gạt đổ hết suất ăn, ném sạch khay, dao, dĩa sắt qua song cửa sổ.
Tôi nghe anh ta khóc rấm rứt: “Lại không mặc được…”
Tôi an ủi anh ta: “Hay anh xin bộ đồ rộng hơn giống các bác sĩ ấy.”
Morin chậm chạp quay lưng lại, trợn mắt nhìn tôi kinh hoàng: “Không phải quần áo. Alan, cậu không biết sao?”
Đang là tháng mười một, anh ta mặc áo lông dày, ngoài thân hình mập mạp ra thì chẳng có gì đặc biệt. Morin giật hai vạt áo lông ra, tôi trợn mắt sững sờ… dưới lớp quần áo, trên tảng thịt núc ních mỡ… là một bộ ngực phụ nữ. Anh ta đang mặc một cái áo nịt ngực chật cứng.
Đột nhiên tôi cảm thấy cơn buồn nôn trào lên, tôi lao vào góc phòng nôn ọe không kìm được.
Morin đứng sau lưng tôi chậm rãi nói: “Họ cho rằng chúng ta thích đàn ông vì hormone nam tiết ra quá nhiều. Phần lớn thứ thuốc họ cho chúng ta uống là kích thích tố nữ. Cậu sẽ béo lên, ngực cũng phình ra… Cậu mới đến một tháng, vẫn chưa thấy gì đâu. Tôi ở đây tròn một năm rồi.”
Tiếng cuối cùng của Morin cao vút the thé như giọng phụ nữ: “Alan, sớm muộn cậu cũng sẽ thành thế này.”
Một giây lúc ấy thế giới hoàn toàn sụp đổ. Morin không điên, nhưng tôi điên rồi.
Tôi phát điên đấm cửa, gào khóc cầu xin bác sĩ thả tôi ra ngoài.
Tôi quyết không uống thuốc, sau đó họ trộn thẳng chúng vào thức ăn nước uống của tôi.
Muốn bỏ thuốc, tôi chỉ còn cách tuyệt thực.
Trưa ngày tuyệt thực thứ ba, cơm trưa đến như thường lệ. Phòng bệnh mở ra một lần nữa, lướt mắt qua lưng gã bác sĩ bước vào, tôi thấy Arnold.
Anh ta mặc áo khoác trắng đi từ đầu hành lang vào, tay mang găng cao su trắng nhoe máu, đang vừa đi vừa cởi găng giống một bác sĩ vừa làm phẫu thuật xong. Arnold đang cười, sau lưng anh ta có mấy hộ lý trẻ bưng khay băng gạc.
Ba ngày không ăn không uống tôi hầu như mất hết khả năng suy nghĩ rồi. Tôi chỉ nhớ mình đã lao ra, dồn hết sức bình sinh gọi tên anh ta. Hai gã bác sĩ vạm vỡ đứng ngoài cửa chặn tôi lại, một gã quay lại xua tay với Arnold, bảo anh ta đừng để ý: “Bệnh nhân tâm thần thôi.”
Tôi tuyệt vọng nhìn theo bóng lưng Arnold.
Có người nện đầu tôi bằng thứ gì đó, nhất thời tôi choáng váng muốn ngất xỉu.
Đột nhiên xung quanh tĩnh lặng, gã bác sĩ đang la lối giữ tôi cũng im bặt, kính nể bước tránh sang một bên. Tôi lập tức chồm dậy nhào mình vào người đứng gần đó nhất.
“Alan?”
Arnold đỡ được tôi. Anh ta ghì lấy hai vai tôi, giọng hoảng hốt: “Alan, sao cậu lại ở đây?!”
Anh ta vỗ lưng tôi trấn an: “Không sao, Alan, không sao đâu.”
Tôi muốn chụp lấy vai anh ta nhưng rốt cuộc chỉ đủ sức nắm được vải áo Arnold. Tôi nghe giọng mình hầu như nức nở: “Andemund… tôi muốn gặp Andemund…”
Sau đó tôi không còn biết gì nữa.
—-
Nhà toán học Galois: Évariste Galois (25 tháng 10 năm 1811 – 31 tháng 5 năm 1832) là một thiên tài toán học người Pháp đoản mệnh, nhưng các công trình toán học ông để lại là một đề tài rất quan trọng cho việc tìm nghiệm của các phương trình đa thức bậc cao hơn 4 thông qua việc xây dựng lý thuyết nhóm trừu tượng mà ngày nay được gọi là lý thuyết nhóm Galois, một nhánh quan trọng của đại số trừu tượng. Galois là người đầu tiên dùng từ groupe (nhóm) như là một thuật ngữ toán học để biểu thị cho nhóm hoán vị. Ông chết sau một cuộc đấu súng khi chưa đầy 21 tuổi.