Số lần đọc/download: 1590 / 33
Cập nhật: 2017-08-04 14:04:04 +0700
Chương 15
C
ùng khoảng thời gian ấy, Cosimo nhận ra trong thái độ của ngài Trạng có điều gì đó là lạ, hay nói đúng ra, lạ so với cái gọi là thông lệ của ngài. Như thể cái vẻ đắm chìm không xuất phát từ sự lơ đãng nữa, mà từ một ý nghĩ cố định đang chế ngự ngài. Giờ thì xuất hiện đều đặn những giây phút ngài biểu lộ sự thích giao thiệp; nếu lúc trước, như một kẻ không thích hòa nhập vào xã hội, ngài chưa từng bước chân tới thành phố, thì bây giờ, ngài luôn có mặt tại bến cảng, lẫn giữa đám đông, hoặc ngồi trên các bờ sàn cùng với những lão chủ thuyền và thủy thủ, bình luận về những chuyến tầu rời và cập bến, hoặc các hành vi thảo khấu của bọn cướp biển.
Ngoài khơi xung quanh bờ vịnh xứ BóngRâm, những chiếc thuyền buồm của quân cướp biển Béc-be vẫn sục sạo, quấy nhiễu trên các thủy lộ. Đây là loại cướp biển vặt, bây giờ không còn là thời mà gặp cướp biển tức là sẽ biến thành nô lệ ở Tunisia, ở Algeria, hoặc vành tai lỗ mũi sẽ phải đi đắp lại. Thời ấy, khi một chiếc thuyền người Hồi bắt kịp một chiếc thuyền người Địa Trung Hải, người Hồi chỉ lấy đi hàng hóa: những thùng cá khô, những bánh pho mát Hà Lan, những cuộn bông… Đôi khi, người xứ chúng tôi nhanh mái chèo vượt thoát, nhả một viên đại bác nhắm vào chiếc cột thuyền buồm của họ; thế là những viên thủy thủ Béc-be đáp lại bằng cách phun nước bọt, khoa chân múa tay chửi đổng, và hò hét.
Tóm lại, đó là một loại cướp biển hiền, tiếp tục hoạt động vì lý do một số món nợ mà các viên quan tổng trấn ở xứ họ cho rằng cần phải đòi lại các thương gia và người bán vũ khí của xứ chúng tôi, theo lời họ, đã có những chuyến giao hàng không tốt, hoặc thậm chí lừa đảo. Thành thử, họ tìm cách được thanh toán dần dần qua những chuyến cướp hàng, song cùng lúc tiếp tục những cuộc thương thảo, liên tục tranh cãi và ký kết. Lợi ích của cả phía này lẫn phía kia không cho phép các hành động dữ dội dứt khoát; những chuyến đi biển rất bấp bênh và nguy hiểm, nhưng không bao giờ bị biến thành thảm kịch.
Câu chuyện mà tôi viện ra đây, được Cosimo kể theo nhiều cách, sẽ dựa vào lần tường thuật phong phú về chi tiết và lô gích nhất. Đương nhiên, anh tôi, khi thuật lại các chuyến phiêu lưu của mình, đã thêm vào nhiều điều anh nghĩ, phần tôi, vì thiếu những nguồn kể khác, sẽ luôn cố gắng giữ nguyên lời anh kể.
Đầu đuôi thế này, lần ấy, Cosimo – từ thời canh chừng những vụ cháy rừng đã có cái thói quen tỉnh giấc giữa đêm – trông thấy một đốm sáng men xuống thung lũng. Anh chuyền theo, lặng lẽ trên cành với những cú di chuyển như mèo, anh nhìn ra ngài Enea Carrega GỗDày, láu táu bước đi, đầu đội mũ đuôi seo, tay cầm chiếc đèn xách.
Thế ngài Trạng, người thông thường đi ngủ cùng lúc với những chị gà mái, làm gì mà lang thang vào giờ này? Cosimo bám sát theo ngài. Anh cẩn thận không gây ra tiếng động, dù biết rằng ông chú khi hăng tiết vịt đi như thế thì như người điếc, và chỉ thấy một gang tay trước mũi chân.
Men theo những tuyến đường dắt la và các lối tắt, ngài ra tới bờ biển, tại một bãi đá cuội, ngài khuơ khuơ chiếc đèn xách. Trời không trăng, nhìn ra biển không thể thấy gì, trừ dải bọt sóng nhấp nhô gần đấy. Cosimo đang ở trên một cây thông, hơi xa bờ, vì tới mé dưới thì cây cối mọc thưa ra. Không thể dễ dàng chuyền trên cành mà tới mọi chỗ, song anh trông thấy rõ lão già nhỏ thó với cái mũ đầu đuôi seo trên bờ vịnh trống trải, lão quơ quơ chiếc đèn xách ra hiệu với cái bóng tối mịt ngoài biển, và từ cái bóng tối mịt, một ánh sáng đèn xách khác đáp lại, thoắt cái, nó đã tới gần, như thể vừa mới được nhóm lên lúc này tại đó; một chiếc thuyền nhỏ vụt hiện ra, với cánh buồm vuông sẫm tối, những mái chèo, khác với thuyền bè ở đây, và nó cập bờ.
Dưới ánh đèn lắc lư, Cosimo trông thấy những người đàn ông đầu quấn khăn, một số ở lại trên thuyền, giữ con thuyền sát bờ bằng những cú chèo nhè nhẹ; số xuống thuyền, mặc những cái quần rộng đỏ ống phồng, mã tấu sáng loáng giắt lưng. Cosimo dõi mắt dỏng tai. Ông chú và những người Béc-be ấy xì xào với nhau bằng một thứ ngôn ngữ không thể hiểu ra, dù nhiều lúc như có thể hiểu được, chắc chắn đó là thứ tiếng lingua franca nổi tiếng. Thỉnh thoảng Cosimo nghe ra một chữ tiếng Ý, ngài Enea dùng để nhấn mạnh trong lúc xen lẫn với những chữ khác không thể hiểu, chúng là tên những con tàu, những con thuyền tatan nổi tiếng, những chiếc thuyền buồm nhỏ, trực thuộc những người chủ ở BóngRâm, hoặc di chuyển qua lại giữa cảng chúng tôi và những cảng khác.
Không cần nhiều thời gian để hiểu ra ngài Trạng đang nói gì! Ngài đang thông tin cho bọn cướp ngày cập bến và ngày rời bến của các chuyến tàu ở cảng BóngRâm, về hàng hóa trên đó, về tuyến đường, về vũ khí chuyên chở trên tàu. Lúc này, ắt ngài đã nêu ra tất cả những gì ngài biết, bởi ngài đã quay mặt đi, và nhanh nhanh rời bước, trong lúc đám cướp biển leo trở lại lên thuyền nhỏ, và lại biến mất trong biển bóng tối. Từ cái cách thức tức tốc mà cuộc trò chuyện được diễn ra, người ta hiểu rằng đây ắt là một sự kiện thông lệ. Chẳng ai biết những cuộc tấn kích của người Béc-be dựa trên các tin tức của ông chú chúng tôi đã bắt đầu từ hồi nào!
Cosimo ở lại trên cây thông, anh không thể rời khỏi đó, khỏi cái bờ biển trống trải. Gió thổi, sóng vỗ bờ đá, ngọn cây kĩu kịt tất cả các đốt khớp của nó, anh tôi răng đập lập cập, không vì cái lạnh của gió, mà vì cái lạnh của một điều phát hiện buồn.
Đấy, cái lão già rụt rè và bí ẩn mà chúng tôi từ hồi nhỏ đã luôn đánh giá là giả trá, và Cosimo tin rằng mình dần dần đã học được để hiểu ra giá trị và có thiện cảm, nay tự lộ ra là một kẻ phản trắc không thể tha thứ, một con người vô ơn bạc nghĩa, muốn làm hại đất nước đã đón nhận mình như một kẻ bị bỏ rơi sau một thời lầm lỡ… Tại sao? Phải chăng ngài bị đẩy đến nỗi này là vì niềm thương nhớ những miền đất và những con người nơi ngài cảm thấy mình tìm được, lần đó trong đời, niềm hạnh phúc? Hay có lẽ là vì ngài đã ủ ê một mối hiềm thù khôn nguôi đối với cái xứ sở nơi mỗi miếng ăn làm ngài hiểu là một miếng nhục? Cosimo phân vân giữa cái xung lực cần đi tố cáo âm mưu của kẻ gián điệp nhằm cứu vớt những kiện hàng của các nhà buôn xứ chúng tôi, và ý nghĩ về một nỗi đau buồn mà hẳn là bố chúng tôi phải gánh chịu, vì một lòng trìu mến không thể hiểu nổi đã gắn kết bố với ông em không chính thức. Cosimo đã tưởng tượng ra cái cảnh: ngài Trạng bị còng tay điệu ra quảng trường, giữa những viên đốc hiệu và hai hàng người dân BóngRâm đang thóa mạ; người ta tròng dây vào cổ, người ta thắt cổ ngài… Sau cái đêm túc trực bên cạnh xác Gian ChùmThạchThảo, Cosimo hứa với mình rằng anh sẽ không bao giờ tham dự một cuộc hành quyết nữa; và đây, anh lại phải nắm trong tay cái bản án tử hình của một người bà con của mình!
Anh day dứt suốt đêm trong cái ý nghĩ đó, và tiếp tục như thế trọn ngày hôm sau, điên tiết chuyền từ cành này sang cành khác, buông ra những cú đá, vung tay lên trời, tuột trên những thân cây, như anh thường biểu lộ khi đang bị dằn vặt bởi một ý nghĩ. Cuối cùng, anh lấy quyết định: mình sẽ chọn một con đường trung dung: làm kinh sợ bọn cướp và người chú, để đập tan cái mối quan hệ ám muội của họ mà không cần sự can thiệp của pháp luật. Anh sẽ trụ sẵn trên ngọn cây thông đó vào ban đêm, với ba bốn khẩu súng trường đã lên đạn trước (lúc này anh đã kiếm được cả một kho vũ khí, dùng cho các nhu cầu khác nhau khi đi săn). Lúc ngài Trạng đến gặp bọn cướp, anh sẽ bắt đầu bắn, liên tiếp hết khẩu này sang khẩu kia, rít những viên đạn bên trên đầu bọn họ. Nghe thấy loạt súng đó, lũ cướp và ông chú hẳn sẽ tẩu thoát mỗi người một ngả; và ngài Trạng – vốn không là người gan dạ, lại trong tình trạng nghi ngờ là mình đã bị lộ, và trong sự chắc chắn là kể từ nay người ta đã canh chừng các buổi hội họp trên bãi biển – sẽ tìm kế thủ cho chắc ăn, mà không dám tiếp cận với đội thủy thủ người Hồi.
Thật vậy, Cosimo, với những khẩu súng chĩa sẵn, nằm chờ trên cây thông hai đêm liền. Chẳng có gì xảy ra. Đêm thứ ba, đây, cái lão già với chiếc mũ đầu đuôi seo đang lót tót giẫm chân lên những viên đá cuội ngoài bãi biển, ra dấu bằng đèn xách. Chiếc thuyền tiến vào bờ, với các thủy thủ quấn khăn.
Cosimo đặt ngón tay vào cò súng, song anh không bắn. Bởi lần này mọi chuyện lại khác. Sau cuộc hội ý ngắn, hai tay cướp lội lên bờ, ra dấu về phía chiếc thuyền, những tay khác bắt đầu chuyển hàng xuống: thùng, hòm, cuộn, túi, vò, két đầy pho mát. Không chỉ một chiếc thuyền, mà rất nhiều, tất cả đều chất đầy hàng hóa. Một hàng phu khuân vác đầu quấn khăn đã dãn ra trên bãi biển, và ông chú họ của chúng tôi, lon ton ngập ngừng, đi trước hướng dẫn họ tới tận một cái hang giữa hai vách đá. Những người Moor chất toàn bộ hàng hóa xuống đó, chắc chắn đó là thành quả của các vụ chặn cướp gần đây.
Tại sao họ chuyển lên bờ? Những gì diễn ra sau đó thì rất dễ suy ra: vì chiếc tàu của những người Béc-be phải thả neo tại một trong những bến cảng của chúng tôi (để tiến hành một số công việc làm ăn hợp pháp, như luôn diễn ra giữa họ và chúng tôi, xen giữa các vụ chặn cướp), và vì phải chịu sự khám soát của hải quan, họ cần phải giấu các hàng hóa đã chặn cướp vào nơi chắc chắn để sau đó lấy lại khi rời bến. Như thế chuyến tàu cũng chứng tỏ sự không dính líu tới những vụ cướp mới đây, và tăng cường quan hệ thương mại bình thường với xứ chúng tôi.
Tất cả những màn hậu cảnh này hồi sau sẽ rõ. Lúc đó, Cosimo không đứng đấy mà đặt nghi vấn. Có một kho báu được bọn cướp giấu trong một cái hang, bọn chúng đã trở lên tàu, và để lại đó: cần phải chuyển nó đi càng nhanh càng tốt. Đầu tiên, anh tôi nghĩ mình nên đến đánh thức những người chủ hiệu buôn ở BóngRâm, bởi họ hẳn là sở hữu chủ hợp pháp của các hàng hóa này. Song ngay lập tức, anh nhớ đến những người thợ mỏ bạn anh cùng với gia đình đang lầm than trong rừng. Không chần chờ: anh thoăn thoắt chuyền trên cành tới những chỗ mà ở đó, xung quanh những khoảnh đất nện xám xịt, các gia đình người Bergamo ngủ trong những túp lán tồi tàn.
– Nhanh lên! Các bác hãy đi với cháu! Cháu đã khám phá ra một kho báu của bọn cướp biển!
Từ dưới những mái lều và những mái lán nổi lên những tiếng thở phì phò bực dọc, tiếng hục hặc, tiếng rủa, và cuối cùng, những tiếng reo tê mê, rồi tiếng hỏi:
– Vàng hả? Bạc à?
– Cháu không thấy rõ… Cosimo nói. Dựa vào mùi vị, cháu nghĩ là có một lượng lớn cá khô và pho mát cừu!
Nghe những lời này của anh, tất cả những người đàn ông trong rừng thức dậy. Người có súng săn dùng súng săn, những người khác: rìu, chĩa, cuốc hoặc xẻng, song trước hết, họ mang theo đồ đựng, ngay cả những chiếc giỏ than rách bươm, và những cái túi lấm đen. Một dòng người hò reo:
– Hura! Hota!
Các phụ nữ cũng xuống theo với những chiếc thúng không trên đầu, còn các cậu bé thì đầu đội túi, tay cầm đuốc. Cosimo đi trước họ, chuyền từ rừng thông sang vườn ôliu, rồi từ vườn ôliu xuống bãi thông biển.
Khi đoàn người sắp rẽ vào cái ngách đá dẫn vào hang, thì trên đỉnh một cây sung quằn quèo, có cái bóng trắng của một tay cướp biển lộ ra, hắn vung mã tấu, và hét lên báo động. Cosimo, qua vài cú phóc, đã tới cái cành cây bên trên tay cướp, anh lủi gươm vào cạnh sườn hắn, khiến tay này ngã chúi đầu xuống bãi đá.
Trong hang đang diễn ra buổi họp giữa các tay thủ lãnh. (Cosimo, lúc nãy, bận bịu chuyện chuyển hàng, đã không nhận ra là bọn họ đã ở lại). Nghe tiếng la của tên gác, bọn chúng chạy ra, và thấy mình bị bao vây bởi một đoàn người nam và nữ, mặt mũi lem luốc nhọ nồi, đầu đội túi, trang bị vũ khí cuốc xẻng. Chúng vung mã tấu, xông tới mở đường thoát thân.
– Hula! Hota!
- Insciallah!31
Trận chiến bắt đầu.
Bên thợ mỏ đông hơn, song bọn cướp được trang bị vũ khí tốt hơn. Tuy nhiên, bạn biết đấy, đấu với mã tấu thì không gì tốt hơn xẻng.
– Beng! Beng!
Các lưỡi mã tấu của người Moor bật ra và bị mẻ. Trong lúc đó, các họng súng hỏa mai nổ đì đoành và tỏa khói, sau đó thì êm ru. Một số tay cướp (sĩ quan hẳn hoi, trông là biết) cũng có những khẩu súng hỏa mai rất bắt mắt, tất cả đều được chạm nổi; song những viên đá lửa đã thấm khí ẩm trong hang khiến đạn trong súng bị tịt ngòi. Những người thợ mỏ tinh nhanh nhất bổ lên đầu các viên sĩ quan cướp biển những cú phang choáng váng bằng xẻng để đoạt súng. Song với những chiếc đầu Béc-be đội khăn, mỗi cú phang đều bị hãm lực như phang trên gối; những cú lên gối vào bụng thì tốt hơn, vì họ lòi rốn.
Nhận ra còn một cách nữa là dùng đá sỏi, phe thợ mỏ bắt đầu ném. Phe người Moor, thấy thế, cũng ném trả. Thế là trận chiến đi vào một chiều hướng chính quy hơn, tuy nhiên, vì những người thợ mỏ có khuynh hướng xông vào hang, mùi vị cá khô tỏa tới mũi họ, mỗi lúc một hấp dẫn hơn, và những người Béc-be thì có khuynh hướng ù té chạy về phía chiếc tàu tiếp liệu đỗ trên bờ, cho nên cả hai phe đều thiếu động cơ chiến đấu một mất một còn.
Tới một điểm, phe người Bergamo, với một đợt tấn công, mở ra được một lối vào hang. Phe người Hồi, trong lúc vẫn đang chống đỡ dưới làn mưa sỏi, thấy lối ra biển để trống. Thế thì còn chống đỡ làm gì? Tốt hơn, hãy giương buồm, và chuồn.
Ba tay cướp biển, đã lên được thuyền, tất cả đều là các sĩ quan quý tộc, liền kéo buồm. Với một cú phóc từ trên một cây thông gần bờ, Cosimo quăng mình về phía cột buồm, bám lấy thanh căng buồm, ở trên đó, anh kẹp chặt hai đầu gối và tuốt gươm khỏi vỏ. Ba tay cướp cũng vung mã tấu. Anh tôi chém ngang phạt dọc, lia phải thọc trái, chiến đấu với cả ba. Chiếc thuyền, vẫn đậu trên bờ, lúc thì nghiêng sang bên này, lúc thì ngả sang bên kia. Ánh trăng ló dạng vào lúc đó, phản chiếu loang loáng trên lưỡi gươm vị Nam tước giao tặng cậu con trai và các lưỡi mã tấu của người Hồi. Cosimo tuột xuống từ trên cột buồm, xỉa gươm vào ngực một tay cướp, hắn rơi khỏi thuyền. Nhanh như một con thằn lằn, anh vừa bò lên vừa đỡ hai nhát kiếm của hai tay kia, rồi buông người xuống lần nữa, phập thêm một đối thủ, lại thoắt lên, mở cuộc giao đấu ngắn với tên thứ ba, và bằng một trong những chiêu thức tuột của anh, khỉa nốt tay này.
Ba tay cướp người Hồi thẳng cẳng nằm lửng lơ trong nước, ló lên phần râu tóc bám đầy rong rêu. Còn các tay cướp khác ở miệng hang thì nằm bất tỉnh vì những cú ném đá và những cú xẻng phang. Cosimo, vẫn đang bám trên cột buồm, lia cặp mắt khải hoàn ca nhìn quanh. Bất chợt, anh trông thấy ngài Trạng sùng sục vọt ra như một chú mèo đuôi đang bị cháy khỏi một hốc đá, nơi ngài đã nấp cho tới lúc này. Ngài chúi đầu chạy xuống bãi biển, bật ra một cú đẩy, chiếc thuyền rời bờ, ngài nhảy lên, chụp lấy hai mái chèo, rồi quạt lấy quạt để, ra khơi.
– Ngài Trạng! Ông làm gì vậy? Ông điên rồi à? Cosimo, tay bám cột buồm, la lên Hãy trở vào bờ! Chúng ta đang đi đâu đây?
Không xong. Rõ là ngài Enea Carrega GỗDày muốn chèo tới con tàu của bọn cướp để thoát thân. Giờ thì hành vi phản bội của ngài đã bị phát hiện rành rành, nếu ở lại trên bờ, ắt ngài sẽ bị kết liễu trên đoạn đầu đài. Thế là ngài chèo và chèo. Cosimo, tay vẫn cầm thanh gươm đã tuốt, không biết phải làm gì, dù Ngài có lẽ không có vũ khí và đang đuối sức. Xét cho cùng, sử dụng bạo lực với một người chú làm anh cảm thấy đau, hơn nữa, để có thể vươn tới ngài anh phải tuột xuống cột buồm, và vấn đề chạm chân xuống thuyền có tương đương với chạm chân xuống đất hay không, hoặc việc phóng từ một ngọn cây có rễ sang một cây cột thuyền buồm liệu đã là sự vi phạm các phép tắc nội tâm của mình hay chưa; chúng quá phức tạp để mà đặt ra vào lúc này. Thế nên anh không phản ứng gì, thoải mái ngồi trên thanh căng buồm, một chân quàng bên này một chân quàng bên kia, giữa cái cột buồm, đong đưa theo sóng, trong lúc một cơn gió nhẹ thổi căng cánh buồm, và lão già thì liên tục chèo.
Nghe thấy tiếng chó sủa, anh run lên vì mừng. Chú chó con Massimo GiỏiGiắn, mà trong suốt buổi giao tranh anh không để ý, đang nằm đằng kia trên sàn thuyền, đuôi vẫy vẫy như chẳng có gì đã xảy ra. Á, à, Cosimo ngẫm nghĩ, có chi mà đau đớn mãi: anh đang sinh hoạt với gia đình, có ông chú, có chú cho con, đi chơi thuyền, sau từng ấy năm trời sống cuộc đời cây cối, đây là một trò tiêu khiển vui vui.
Trăng sáng trên biển. Lão già lúc này đã mệt. Nặng nhọc chèo, khóc lóc, và bắt đầu thốt lên:
– Ôi, Zaira… Ôi, Allah, Allah, Zaira… Ôi, Zaira, insciallah…
Cứ như thế, một cách khó hiểu, lão nói bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, lặp đi lặp lại, trong nước mắt, tên một người phụ nữ mà Cosimo chưa bao giờ nghe ngài đề cập. Anh hỏi:
– Ngài nói gì thế, ngài Trạng? Ngài sao vậy? Chúng ta đang đi đâu?
– Zaira… Ôi, Zaira… Allah, Allah… lão tiếp tục.
– Zaira là ai vậy ngài Trạng? Ông tin rằng theo hướng này là đi tới Zaira à?
Ngài Enea Carrega GỗDày gật đầu, ngài nói bằng tiếng Thổ, mắt đẫm lệ, và ngài hét lên cái tên ấy với mặt trăng.
Về cái tên Zaira, đầu Cosimo ngay lập tức khởi sự xoay vần với các giả thuyết. Có lẽ nó sắp đánh thức một nỗi niềm sâu kín nhất của người đàn ông rụt rè và bí ẩn này. Nếu ngài Trạng, chèo về phía chiếc tàu bọn cướp, hy vọng mình sẽ gặp lại Zaira, thì đây phải là một người đàn bà sống ở những xứ Ottoman ấy. Có lẽ cả đời, ngài đã chịu sự chi phối của niềm nhung nhớ người đàn bà này, có lẽ nàng chính là hình ảnh của niềm hạnh phúc đã mất mà ngài theo đuổi trong lúc nuôi ong hoặc hí hoáy với các kênh đào. Có lẽ nàng là một người tình, một người vợ mà ngài đã có ở đó, trong những khu vườn của những xứ hải ngoại ấy, hoặc có lẽ chính là một cô con gái của ngài mà suốt từ hồi còn bé ngài chưa gặp lại. Để tìm lại nàng ngài đã phải làm một việc nguy hiểm là đặt quan hệ với những chiếc tàu người Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc người Moor tình cờ cập bến xứ chúng tôi; và cuối cùng hẳn họ đã cho ngài biết tin tức. Có thể ngài biết ra nàng là nô lệ, và để chuộc lại nàng, họ đã đề nghị ngài cho biết tin tức về các tuyến tàu xứ BóngRâm. Hoặc có thể đây là sự tính toán mà chính ngài phải trả để được kết nạp lại trong bọn họ, và được cho lên tàu trở về xứ Zaira.
Hiện tại, mưu đồ đã bị vạch trần, ngài buộc phải trốn khỏi BóngRâm, và những người Béc-be giờ đây không thể không cho ngài đi cùng, rồi đưa ngài về với nàng. Trong những câu chuyện hổn hển và ngắt quãng của ngài có xen lẫn những nhấn nhá: hy vọng, khẩn cầu, và ngay cả hoảng sợ: hoảng sợ vì lần này có thể vẫn không phải là lần trơn tru, rằng vẫn sẽ xảy ra những tai họa chia cắt ngài với người ngài mộng ước.
Khi ngài không còn sức để quạt mái chèo nữa, thì một cái bóng sáp lại gần, một con thuyền của người Béc-be. Có lẽ bọn cướp ở trên tàu đã nghe ra âm thanh của trận giao chiến trên bờ, nên cử người đi thăm dò.
Cosimo tuột xuống lưng chừng cột buồm, nấp vào cánh buồm. Lão già thì bắt đầu hét lớn bằng tiếng lingua franca để họ bắt và giải anh ra tàu, và ngài với tay. Ngài đã kiệt sức, thật vậy: hai người lính bộ binh Thổ đầu quấn khăn, vừa mới vừa tầm tay, liền chộp lấy vai ngài, ngài nhẹ bâng, họ nhấc ngài lên thuyền. Chiếc thuyền của Cosimo, với cú va, dạt ra, cánh buồm gặp gió, và thế là anh tôi, không bị lộ, thoát khỏi cái chết đã trông thấy.
Trong lúc gió thổi thuyền trôi đi, từ chiếc thuyền bọn cướp, Cosimo nghe thấy một thứ tiếng như tiếng cãi vã vọng đến. Một chữ, nghe từ người Moor, tương tự như “Marrano!”32, và giọng lão già lặp đi lặp lại như ngây dại: “Ôi! Zaira”, xóa tan mọi nghi vấn về cuộc đón tiếp dành cho ngài Trạng. Chắc chắn bọn cướp cho rằng ngài là kẻ chịu trách nhiệm về vụ phục kích tại cái hang, về vụ mất toi hàng hóa, về sự thiệt mạng của bọn họ. Họ buộc tội ngài là kẻ phản bội… Một tiếng thét nổi lên, rồi một tiếng tõm, sau đó thì yên lặng. Cosimo chợt nhớ đến, rõ mồn một, giọng của bố khi ông kêu lớn: “Enea GỗDày! Enea GỗDày!”, trong lúc ông chạy theo người em không chính thức trên cánh đồng. Anh nép mặt vào cánh buồm.
Anh lại trèo lên thanh căng buồm, nhìn xem chiếc thuyền đang trôi đi đâu. Có cái gì đó bồng bềnh trên biển như thể đang bị một dòng nước cuốn đi, một vật thể, một loại phao tiêu, một chiếc phao tiêu có đuôi… Một vạt ánh trăng soi lên nó, anh thấy đó không phải là một vật thể mà là một cái đầu, một cái đầu chụp chiếc mũ đuôi seo với quả tua; anh nhận ra gương mặt lật ngửa của ngài Trạng, với cái nhìn hoảng hốt thông lệ, miệng há hốc, từ râu xuống thì hoàn toàn chìm trong nước, không thể thấy; Cosimo kêu lớn:
– Ngài Trạng! Ngài Trạng! Ông làm gì thế? Sao ông không leo lên thuyền? Hãy bám lấy chiếc thuyền! Tôi sẽ kéo ông lên ngay! Ngài Trạng.
Song người chú không trả lời; ông ta bồng bềnh, bồng bềnh, trôi đi, ngước nhìn trời với con mắt hoảng hốt đó, vốn dường như chẳng thấy gì. Cosimo bảo:
– Nhanh lên! Massimo GiỏiGiắn! Phóng xuống nước! Nâng chỗ gáy ông ta lên! Cứu ông ta! Cứu ông ta nhanh lên!
Chú chó nghe lời chủ, phóng xuống, tìm cách nâng gáy ông ta, không thành công, nó nâng chỗ bộ râu.
– Massimo GiỏiGiắn, tao đã bảo là nâng chỗ gáy!
Cosimo nhắc lại. Song chú chó vẫn nâng ở chỗ bộ râu, và nó đẩy cái đầu tới mạn thuyền, thế là: gáy đâu không thấy, thân thể và mọi thứ cũng không thấy, chỉ là một cái đầu, chiếc thủ cấp của Enea Carrega GỗDày, bị chặt phăng bởi một nhát mã tấu.