Tác giả: Diana Wynne Jones
Thể loại: Truyện Ngắn
Biên tập: diep ho
Upload bìa: diep ho
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 50
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15: Những Lữ Khách Đặt Chân Lên Kingsbury
HƯƠNG 15
Những lữ khách đặt chân lên Kingsbury
“Nếu cậu hỏi ý kiến tôi,” người lính nói, ủ dột đặt ba lô của lão lên tấm thảm mầu nhiệm, “thì sinh vật đó cũng tệ như em trai của hắn - đó là nếu như hắn có em trai thật.”
“Ồ, hắn có em trai chứ. Ma thần không nói dối.” Abdullah nói. “Nhưng họ luôn nghĩ mình ưu việt hơn phàm nhân, thậm chí cả ma thần thiện cũng thế. Và tên của Hasruel nằm trong danh sách Ma Thần Thiện.”
“Tí thì cậu lừa được tôi rồi đấy!” người lính nói. “Nửa Đêm đi đâu rồi không biết? Chắc nó sợ chết khiếp.” Lão nhặng xị đi tìm Nửa Đêm trong các bụi cây đến nỗi Abdullah không cố giải thích thêm bất cứ điều gì về những truyền thuyết liên quan đến ma thần mà mỗi đứa trẻ thành Zanzib đều được học ở trường. Thêm vào đó, anh sợ rằng người lính nói đúng. Hasruel có thể đã thề Bảy Lời Thề để trở thành một phần của Quân Đoàn Thiện thật đấy, nhưng em trai gã đã cho gã cái cớ hoàn hảo để phá vỡ cả bảy lời thề. Dù thiện hay ác, Hasruel rõ ràng đang rất sung sướng.
Abdullah nhặt cái chai linh thần lên và đặt nó xuống tấm thảm. Ngay lập tức nó đổ sang bên và lăn xuống. “Không, không!” linh thần kêu lên từ bên trong. “Ta sẽ không lên đó! Chứ ngươi nghĩ vì sao ta lại rơi khỏi nó lúc trước? Ta ghét độ cao!”
“Ôi mày đừng bắt đầu thế nữa!” người lính nói. Nửa Đêm ôm lấy một cánh tay lão, vừa đá vừa cào vừa cắn, thể hiện bằng mọi cách nó có thể rằng mèo và thảm bay không hề hợp nhau. Chỉ riêng việc này đã đủ làm ai cũng phải khó chịu, nhưng Abdullah ngờ rằng người lính phiền lòng chủ yếu vì công chúa Valeria chỉ mới bốn tuổi. Người lính đã nghĩ mình sẽ lấy công chúa Valeria. Giờ chẳng trách mà lão cảm thấy mình chẳng khác gì thằng ngốc.
Abdullah cầm thật chắc lấy cái chai linh thần và ngồi lên tấm thảm. Anh lịch sự không nhắc đến vụ cá cược giữa họ, dù anh thấy rõ ràng mình đã thắng. Đúng thế, họ đã có lại tấm thảm, nhưng bởi nó bị cấm đi theo ma thần, nó chẳng có ích gì trong việc giải cứu Hoa Đêm.
Sau một hồi lâu vật lộn, người lính, chiếc mũ của lão, Nửa Đêm và Đuôi Vụt phần nào ngồi chắc trên tấm thảm. “Ra lệnh cho nó đi,” lão nói. Gương mặt rám nâu của lão đỏ bừng.
Abdullah giả tiếng ngáy. Tấm thảm lướt lên cách mặt đất khoảng ba phân, khiến Nửa Đêm rú lên và vật lộn còn cái chai linh thần rung lên trong tay anh. “Thưa tấm thảm thêu hoa mỹ có phép mầu,” Abdullah nói, “thưa tấm thảm được dệt bằng những phép thuật phức tạp nhất, ta mong ngươi hãy bình tĩnh di chuyển về hướng Kingsbury, nhưng hãy thể hiện trí tuệ vĩ đại được dệt vào lần vải của ngươi mà đảm bảo rằng chúng ta không bị ai nhìn thấy trên đường.”
Tấm thảm ngoan ngoãn leo vào màn sương và bay lên về phía Nam. Người lính ôm chặt Nửa Đêm trong tay. Giọng nói khàn khàn và run rẩy vang lên từ cái chai, “Ngươi cứ phải nịnh nọt nó theo cái kiểu ghê tởm như thế à?”
“Tấm thảm này,” Abdullah nói, “không như ngài, là phép mầu nhiệm thanh khiết và tuyệt diệu tới mức nó chỉ lắng nghe những ngôn tù đẹp đẽ nhất. Sâu thẳm trong tim, nó là một thi sĩ giữa các tấm thảm.”
Một sự ngạo nghễ nhất định lan ra khắp tấm thảm. Nó kiêu hãnh giữ những cạnh mép sờn tơi tả của mình thẳng băng và nhẹ nhàng bay về phía ánh nắng vàng rực phía trên sương mù. Một luồng khói xanh vụt ra khỏi cái chai, và lại biến mất với một tiếng ối hoảng hốt. “Hừ, ta sẽ không làm thế đâu!” linh thần nói.
Đầu tiên, để không ai nhìn thấy tấm thảm thì rất dễ. Nó chỉ cần bay trên đám sương mù dày và trắng như sữa trải dài bên dưới họ. Nhưng khi mặt trời lên cao, những cánh đồng màu vàng xanh bắt đầu lấp lánh hiện ra qua làn sương, rồi những con đường trắng xóa và nhà cửa lác đác đây đó. Đuôi Vụt mê mẩn thấy rõ. Nó đứng ở rìa tấm thảm nhìn xuống và trông như sắp ngã lộn cổ đến nơi, thành ra người lính phải thò một tay túm chặt cái đuôi nhỏ xù bông của nó.
Làm thế là rất đúng. Cái thảm chao nghiêng về hướng hàng cây mọc dọc bờ sông. Nửa Đêm cắm chặt móng vuốt xuống còn Abdullah vừa kịp tóm lấy ba lô của người lính.
Người lính trông như thể bị say sóng. “Chúng ta cứ phải cẩn thận để không bị nhìn thấy như thế này sao?” lão hỏi trong khi họ bay bên cạnh những hàng cây như những gã lang thang lẩn khuất trong bờ giậu.
“Tôi nghĩ vậy,” Abdullah nói. “Theo kinh nghiệm của tôi, ai trông thấy con diều hâu giữa những tấm thảm này cũng sẽ ao ước muốn trộm nó.” Và anh kể cho người lính nghe về người cưỡi lạc đà lúc trước.
Người lính đồng ý rằng Abdullah nói có lý. “Chỉ là chúng ta sẽ bị chậm lại,” người lính nói. “Tôi nghĩ chúng ta cần tới được Kingsbury và cảnh báo đức vua rằng có một ma thần đang muốn bắt cóc con gái ngài. Vua chúa thường thưởng đậm cho những thông tin kiểu đó.” Rõ ràng giờ khi bị buộc phải từ bỏ ý tưởng lấy công chúa Valeria, người lính bắt đầu nghĩ tới các cách khác để kiếm lợi lộc cho mình.
“Chúng ta sẽ làm thế, đừng lo,” Abdullah nói, và một lần nữa không nhắc đến cuộc cá cược giữa họ.
Phải mất gần hết ngày hôm đó họ mới đến được Kingsbury. Tấm thảm đi dọc theo các dòng sông, lướt đi từ rừng thưa đến rừng rậm, và chỉ tăng tốc khi mặt đất bên dưới không một bóng người. Cuối cùng vào cuối buổi chiều, họ tới được tòa thành, một cụm tháp trắng bên trong những bức tường cao, nơi này hẳn phải to gấp ba lần thành Zanzib, hoặc có khi còn lớn hơn. Abdullah ra lệnh cho tấm thảm tìm một nhà trọ tốt ở gần hoàng cung và hạ cánh xuống nơi nào không khiến ai nghi ngờ phương cách họ tới đây.
Tấm thảm nghe lời và lướt qua những bức tường cao như một con rắn. Sau đó, nó bay bám sát trên các mái nhà như một con cá bơn bơi sát đáy biển. Abdullah, người lính và cả lũ mèo kinh ngạc nhìn xuống xung quanh. Những con phố dù rộng hay hẹp đều tấp nập những người ăn mặc giàu sang và những cỗ xe ngựa đắt tiền. Mỗi ngôi nhà đều giống như một tòa cung điện đối với Abdullah. Anh thấy những tòa tháp, những mái vòm lớn, những tác phẩm chạm khắc, những mái vòm vàng nhỏ và sân cẩm thạch mà nhà vua thành Zanzib hẳn sẽ rất vui sướng nếu có được. Những ngôi nhà nghèo hơn - nếu ta có thể gọi sự giàu có đó là nghèo - được trang hoàng với những họa tiết được sơn vẽ khá tinh tế. Còn với những cửa hàng, số lượng và sự phong phú của hàng hóa họ bán khiến Abdullah nhận ra khu chợ thành Zanzib thực sự chỉ là loại hạng hai xoàng xĩnh. Hẳn nào đức vua lại lo lắng muốn kết tình hữu hảo với vị hoàng tử của Ingary đến thế!
Nhà trọ mà tấm thảm tìm thấy cho họ ở gần những tòa nhà cẩm thạch lớn tọa lạc giữa Kingsbury. Nó được một bậc thầy về họa tiết nổi hình hoa quả trát vữa, rồi được sơn bằng những màu sắc rực rỡ tươi sáng nhất với vô số lá vàng. Tấm thảm nhẹ nhàng đậu xuống triền mái của chuồng ngựa nhà trọ, khéo léo giấu họ bên một cột tháp vàng có chong chóng gió cũng mạ vàng trên đỉnh. Họ ngồi đó nhìn quanh toàn bộ quang cảnh hào nhoáng này trong khi đợi khoảnh sân phía dưới trở nên vắng người. Có hai người hầu ở dưới đó, họ vừa lau chùi một cỗ xe ngựa mạ vàng vừa tán chuyện.
Hầu hết những chuyện họ nói là về ông chủ nhà trọ, một kẻ rõ ràng rất yêu tiền. Nhưng khi họ đã phàn nàn xong về việc mình được trả lương thấp thế nào, một người nói, “Có tin gì về gã lính người Strangia đã cướp của cả đám người phương Bắc đó không? Có người nói với tôi hắn đang đi về hướng này.”
Người còn lại trả lời, “Hắn chắc chắn đang đến Kingsbury. Tất cả mọi người đều thế. Nhưng người ta đang mai phục hắn ở cổng thành. Hắn sẽ không đi được xa đâu.”
Người lính và Abdullah chạm mắt nhau.
Abdullah thì thầm, “Ông có quần áo khác để thay không?”
Người lính gật đầu và điên cuồng lục lọi trong ba lô. Rất nhanh, lão lôi ra hai cái áo kiểu nông dân với đường thêu kiểu chữ thập ở ngực và lưng. Abdullah tự hỏi lão kiếm được chúng như thế nào.
“Từ dây phơi quần áo nhà người ta,” người lính thì thầm, đoạn lấy ra cái bàn chải quần áo và dao cạo râu. Rồi ở đó trên mái nhà, lão thay sang một trong hai cái áo và cố gắng hết sức để chải quần mà không gây ra tiếng động. Tiếng động lớn nhất là khi lão cố gắng cạo râu chẳng bằng cái gì khác ngoài con dao cạo. Hai người hầu cứ liếc về phía tiếng cạo khô khốc trên mái nhà.
“Chắc là chim,” một người nói.
Abdullah mặc cái áo thứ hai ra ngoài áo khoác của anh, thứ giờ đây chẳng còn giống cái áo đẹp nhất của anh nữa. Ăn mặc như thế khá nóng, nhưng anh không có cách nào lấy chỗ tiền giấu trong áo khoác ra mà không để người lính phát hiện anh có nhiều của nả thế nào. Anh chải đầu bằng cái bàn chải quần áo, vuốt mượt ria mép - giờ anh cảm giác phải có ít nhất mười hai sợi ria ở đó - và rồi cũng chải quần bằng cái bàn chải quần áo. Khi anh làm xong, người lính đưa cho Abdullah con dao cạo, và im lặng giơ bím tóc của mình ra.
“Một sự hy sinh lớn lao, nhưng tôi nghĩ là rất sáng suốt đấy, ông bạn của tôi ạ,” Abdullah thì thầm. Anh cắt bím tóc đi và giấu nó ở chỗ cái chong chóng mạ vàng. Điều này tạo ra một thay đổi khá lớn. Người lính giờ trông giống một nông dân giàu có với mái tóc rậm bù xù. Abdullah hy vọng anh trông cũng giống em trai của người nông dân.
Trong khi họ làm vậy, hai người hầu lau xong cỗ xe và bắt đầu đẩy nó vào nhà để xe. Khi họ đi qua bên dưới mái nhà mà tấm thảm đậu lại, một người hỏi, “Thế cậu nghĩ gì về chuyện có kẻ đang định bắt cóc công chúa?”
“Chà, tôi nghĩ chuyện đó là thật,” người còn lại nói, “nếu đó là điều cậu muốn hỏi. Người ta bảo pháp sư hoàng gia đã mạo hiểm rất nhiều để gửi lời cảnh báo, tội nghiệp anh chàng, và anh ta không phải loại người sẽ mạo hiểm chẳng vì gì cả.”
Ánh mắt người lính lại bắt gặp ánh mắt Abdullah. Miệng lão mấp máy một câu chửi thề.
“Đừng lo,” Abdullah thì thầm. “Còn những cách khác để kiếm phần thưởng mà.”
Họ chờ đợi cho tới khi những người hầu đã băng qua sân và trở lại vào trong nhà trọ. Rồi Abdullah yêu cầu tấm thảm đậu xuống sân. Nó ngoan ngoãn lướt xuống. Abdullah nhặt tấm thảm lên và quấn cái chai linh thần vào trong, cùng lúc đó người lính đeo ba lô và mang cả hai con mèo. Họ đi vào nhà trọ, cố gắng hết sức để trông bình thường và đứng đắn.
Ông chủ nhà trọ đón họ ở đó. Cảnh giác bởi những lời của hai người hầu, Abdullah chào ông chủ với một đồng vàng lơ đãng kẹp giữa ngón trỏ và ngón cái. Ông chủ nhìn theo. Đôi mắt sáng rực của ông ta nhìn đồng vàng chăm chú đến nỗi Abdullah nghĩ ông ta thậm chí còn chẳng nhìn đến mặt họ. Abdullah cực kỳ lịch sự. Ông chủ cũng thế. Ông ta dẫn họ tới một căn phòng rộng rãi tươm tất ở tầng hai. Ông ta đồng ý mang lên bữa tối và chuẩn bị nước tắm.
“Và lũ mèo sẽ cần...” người lính bắt đầu nói.
Abdullah đá mạnh vào mắt cá chân người lính. “Chỉ thế thôi, thưa sư tử giữa các ông chủ nhà trọ,” anh nói. “Mặc dù, thưa ông chủ hay giúp đỡ người khác, nếu những người phục vụ lanh lợi và cẩn trọng của ông có thể mang đến một cái rổ, một cái gối và một đĩa cá, vị phù thủy hùng mạnh mà ngày mai chúng tôi phải đưa đôi mèo cực kỳ có khiếu này tới chắc chắn sẽ thưởng đậm bất cứ ai mang những thứ đó đến.”
“Tôi sẽ xem mình làm được gì, thưa ngài,” ông chủ nói. Abdullah thoải mái ném đồng tiền vàng cho ông ta. Ông ta cúi thấp người chào và rời khỏi phòng, để lại Abdullah cảm thấy cực kỳ hài lòng với bản thân.
“Không cần phải trông tự mãn như thế!” người lính tức giận nói. “Giờ chúng ta phải làm gì đây? Tôi bị truy nã ở đây, trong khi nhà vua có vẻ đã biết hết về ma thần rồi.”
Abdullah cảm thấy thoải mái khi phát hiện anh chứ không phải người lính đang kiểm soát sự việc. “À, nhưng nhà vua có biết rằng có một lâu đài đầy các cô công chúa bị bắt cóc lơ lửng trên đầu sẵn sàng đón con gái của ngài không?” anh nói. “Ông bạn, ông quên mất là nhà vua không có lợi thế là từng được nói chuyện trực tiếp với ma thần. Chúng ta có thể lợi dụng điểm này.”
“Như thế nào?” người lính gặng hỏi. “Cậu có thể nghĩ cách ngăn cản ma thần cướp đi đứa trẻ đó sao? Hay nhân tiện, cách để lên tới lâu đài?”
“Không, nhưng tôi nghĩ pháp sư có lẽ sẽ biết,” Abdullah nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên điều chỉnh ý tưởng của ông trước đó. Thay vì tìm một vị pháp sư của hoàng gia và bóp cổ lão, chúng ta có thể thăm dò xem pháp sư nào giỏi nhất, và trả phí để lão giúp ta.”
“Được rồi, nhưng cậu sẽ phải làm điều đó,” người lính nói. “Bất cứ pháp sư nào giỏi đến thế sẽ phát hiện tôi là người Strangia ngay lập tức, và gọi cảnh binh trước khi tôi kịp làm gì.”
Ông chủ nhà trọ tự mình mang thức ăn cho mèo đến. Ông ta vội vã đi vào với một bát kem, một con cá hồi đã được lọc xương cẩn thận, và một đĩa cá trắng nhỏ. Vợ ông ta đi theo, một người phụ nữ mắt cũng sáng rực y như chồng, mang đến một cái rổ cói mềm và một cái gối thêu. Abdullah cố gắng không tỏ ra tự mãn lần nữa. “Vô cùng cảm ơn, thưa ông chủ bà chủ nhà trọ lừng lẫy nhất,” anh nói. “Tôi sẽ nhắc đến sự tận tình của ông bà với vị phù thủy.”
“Không sao, thưa ngài,” bà chủ nói. “Chúng tôi biết cách tôn trọng những người sử dụng phép thuật ở Kingsbury này.”
Abdullah chuyển từ tự mãn sang xấu hổ. Giờ anh thấy lẽ ra nên giả vờ chính mình là một pháp sư. Anh thả lỏng bằng cách nói, “Tôi hy vọng cái gối đó được nhồi chỉ với lông công chứ? Vị phù thủy yêu cầu đặc biệt thế.”
“Vâng, thưa ngài,” bà chủ nói. “Tôi biết tất cả những chuyện đó.”
Người lính ho khan. Abdullah bỏ cuộc. Anh đàng hoàng nói, “Cũng như đôi mèo, tôi và bạn của tôi cần mang một thông điệp tới cho một pháp sư. Chúng tôi đặc biệt muốn trao thông điệp đó cho một pháp sư hoàng gia - nhưng trên đường đi chúng tôi nghe đồn rằng vị pháp sư hoàng gia đã gặp chuyện không may nào đó.”
“Đúng vậy,” ông chủ vừa nói vừa đẩy vợ sang bên. “Một pháp sư hoàng gia đã biến mất, thưa ngài, nhưng thật may là có hai vị. Nếu ngài muốn, tôi có thể dẫn ngài đến vị còn lại - pháp sư hoàng gia Suliman, thưa ngài.” Ông ta nhìn bàn tay Abdullah đầy ẩn ý.
Abdullah thở dài và lấy ra đồng bạc lớn nhất của anh. Có vẻ đó là khoản tiền phù hợp. Ông chủ chỉ đường cho anh rất kỹ và lấy đồng bạc đi, hứa hẹn rằng nước tắm và bữa tối sẽ có ngay. Nước tắm ấm sực khi được mang đến, và bữa tối thì ngon miệng. Abdullah thấy mừng. Trong khi người lính tắm cho mình và cho Đuôi Vụt, Abdullah chuyển của nả từ áo khoác sang thắt lưng đựng tiền và thấy khá hơn nhiều.
Người lính hẳn cũng thấy khá hơn nhiều. Sau bữa tối, lão ngồi gác chân lên bàn, hút thuốc bằng tẩu thuốc đất sét dài của lão. Lão vui vẻ tháo dây ủng khỏi cổ cái chai linh thần, và đung đưa nó để Đuôi Vụt chơi.
“Không nghi ngờ gì nữa,” lão nói. “Trong tòa thành này đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Cậu định sẽ nói chuyện với pháp sư hoàng gia tối nay chứ? Theo tôi thì càng sớm càng tốt.”
Abdullah đồng tình. “Không biết ông ta sẽ đòi chi phí như thế nào,” anh nói.
“Sẽ nhiều đấy,” người lính bảo. “Trừ phi cậu có thể thêu dệt rằng cậu đang giúp đỡ ông ta bằng cách tiết lộ cho ông ta điều ma thần đã nói. Dù vậy,” lão suy tư nói tiếp, đoạn giật cái dây giày ra khỏi bàn chân vồ vập của Đuôi Vụt, “tôi nghĩ cậu không nên nói với ông ta về linh thần hay tấm thảm, nếu cậu có thể giữ kín. Những người có phép thuật yêu thích đồ vật có phép thuật như lão chủ nhà trọ này yêu vàng. Cậu sẽ không muốn ông ta đòi trả phí bằng hai thứ đó. Sao cậu không để chúng ở lại đây trong khi đi? Tôi sẽ trông đồ giúp cậu.”
Abdullah do dự. Nghe có vẻ hợp lý. Nhưng anh không tin tưởng người lính.
“À nhân tiện,” người lính nói, “tôi nợ cậu một đồng vàng.”
“Thế ư?” Abdullah nói. “Thế thì đây là tin tức đáng ngạc nhiên nhất tôi nhận được kể từ khi Hoa Đêm nhận nhầm tôi là phụ nữ!”
“Cuộc cá cược của chúng ta ấy,” người lính nói. “Tấm thảm đưa đến ma thần, và hắn thậm chí còn là thứ rắc rối kinh khủng hơn cả những gì linh thần hay tạo ra nữa. Cậu thắng. Này.” Lão tung một đồng vàng qua căn phòng cho Abdullah.
Abdullah bắt lấy, nhét vào túi và bật cười. Người lính trung thực theo cách riêng của lão. Anh vui vẻ đi xuống nhà, chỉ nghĩ tới việc sắp theo dấu được Hoa Đêm thì bà chủ chặn đường anh và lại lần nữa chỉ đường tới dinh thự của pháp sư Suliman. Abdullah vui vẻ đến nỗi anh chia tay một đồng bạc nữa mà không hề thấy lấn cấn.
Dinh thự không cách xa nhà trọ lắm, nhưng nó nằm ở Quận cổ, cũng có nghĩa phải đi qua những hẻm nhỏ quanh co và những cái sân ẩn mình. Giờ là lúc chạng vạng, một hai ngôi sao lớn lấp lánh đã treo lên bầu trời xanh thẫm phía trên những mái vòm và tòa tháp, nhưng thành Kingsbury được chiếu sáng bởi những quả cầu bạc lớn sáng rực, lơ lửng trên đầu anh như mặt trăng.
Abdullah đang ngước lên nhìn chúng, tự hỏi liệu chúng có phải những đồ vật chứa phép thuật không, thì chợt thấy một cái bóng bốn chân lén lút chạy xuôi theo các mái nhà để đi theo anh. Đó rất có thể là một con mèo đen nào đó đi săn trên các lớp ngói, nhưng Abdullah biết chắc đó là Nửa Đêm. Cách nó di chuyển không thể lẫn đi đâu được. Ban đầu, khi nó biến mất vào bóng tối đen ngòm của một góc đầu hồi, anh nghĩ nó đang đuổi theo chim bồ câu để lại kiếm về một bữa ăn chẳng phù hợp gì cho Đuôi Vụt. Nhưng nó lại xuất hiện khi anh đi được nửa con hẻm tiếp theo, rón rén lướt dọc một cái lan can trên đầu anh, và anh bắt đầu nghĩ nó đang đi theo mình.
Khi anh đi qua cái sân hẹp có chậu kiểng ở giữa sân và thấy nó nhảy qua bầu trời, từ máng nước này sang máng nước khác để cũng đi vào cái sân đó, anh biết chắc nó đang đi theo mình. Anh không biết tại sao. Anh để mắt trông chừng nó khi đi xuống hai con hẻm nữa, nhưng anh chỉ thấy nó một lần trên mái vòm một cái cổng. Khi anh đi vào cái sân rải đá cuội nơi dinh thự của pháp sư hoàng gia tọa lạc, anh không thấy nó đâu. Abdullah nhún vai và đi tới cửa ngôi nhà.
Đó là một ngôi nhà hẹp xinh đẹp với những ô cửa kính họa tiết hình thoi và các ký hiệu ẩn chứa phép thuật vẽ trên những bức tường cũ lô xô. Hai cột lửa vàng cao vút cháy rực trên chân đế bằng đồng ở hai bên cửa chính. Abdullah cầm cái gõ cửa, là một cái mặt đểu cáng ngậm vòng gõ trong miệng, rồi mạnh dạn gõ.
Một người hầu nam có khuôn mặt dài khắc khổ ra mở cửa. “Tôi e là pháp sư đang rất bận bịu, thưa ngài,” anh ta nói. “Ông ấy không nhận thêm khách cho tới khi có thông báo khác.” Và anh ta định đóng cửa.
“Không, chờ đã, thưa người hầu trung thành và kẻ đầy tớ đáng yêu nhất!” Abdullah phản đối. “Điều tôi định nói chính là về mối đe dọa lơ lửng trên đầu con gái đức vua!”
“Pháp sư biết tất cả về chuyện đó rồi, thưa ngài,” người hầu nói, và tiếp tục đóng cửa.
Abdullah khéo léo nhét một chân vào khe cửa. “Ông phải nghe tôi, thưa người hầu khôn ngoan,” anh nói. “Tôi đến từ...”
Đằng sau người hầu nam vang lên một giọng nữ. “Đợi một chút, Manfred. Tôi biết chuyện này quan trọng.” Cửa lại mở ra.
Abdullah há hốc miệng khi người hầu biến mất khỏi cửa và hiện ra một chỗ khác ở sảnh bên trong. Thay thế anh ta ở cửa là một phụ nữ trẻ cực kỳ đáng yêu với những lọn tóc đen và gương mặt hoạt bát. Chỉ liếc mắt một cái là đã đủ để Abdullah nhận ra cô cũng đẹp như Hoa Đêm, theo cách riêng của người phương Bắc, nhưng sau đó anh cảm thấy cần phải lịch sự rời mắt khỏi cô. Cô rõ ràng sắp có con. Phụ nữ ở thành Zanzib không để lộ mình trong tình trạng đáng chú ý này. Abdullah chẳng biết phải nhìn vào đâu.
“Tôi là Lettie Suliman, vợ của pháp sư,” người phụ nữ trẻ nói. “Anh đến về chuyện gì?”
Abdullah cúi đầu. Hành động đó giúp anh dán chặt mắt lên bậu cửa. “Hỡi vầng trăng màu mỡ của thành Kingsbury xinh đẹp,” anh nói, “xin hãy biết rằng tôi là Abdullah, con trai của Abdullah, nhà buôn thảm từ thành Zanzib xa xôi. Tôi đến đây mang tin tức mà chồng chị sẽ muốn nghe. Xin hãy nói với ông ấy, thưa ánh huy hoàng của ngôi nhà pháp thuật, rằng buổi sáng hôm nay tôi đã được nói chuyện với ma thần Hasruel hùng mạnh về việc liên quan đến cô con gái cành vàng lá ngọc của đức vua.”
Lettie Suliman rõ ràng không quen với phong cách của thành Zanzib. “Ôi trời!” cô thốt lên. “Ý tôi là - lịch sự quá! Và anh nói đúng sự thật, phải không? Tôi nghĩ anh phải nói chuyện với Ben ngay lập tức. Xin mời vào.”
Cô lùi lại khỏi cửa để nhường đường cho Abdullah đi vào. Abdullah vẫn giữ mắt mình nhìn xuống và bước vào trong nhà. Ngay khi anh làm thế, có thứ gì đó đáp lên lưng anh. Rồi nó lại giậm bàn chân móng vuốt nhảy lên và lao qua đầu anh để đậu thịch lên trước ngực Lettie. Một âm thanh như tiếng ròng rọc kim loại tràn ngập không gian.
“Nửa Đêm!” Abdullah gắt, loạng choạng tiến lên.
“Sophie!” Lettie hét lên, loạng choạng lùi về sau với con mèo trong vòng tay. “Ôi Sophie, em lo cho chị đến phát ốm! Manfred, gọi Ben ngay lập tức. Tôi không quan tâm anh ấy đang làm gì - đây là chuyện khẩn cấp.”
Lâu Đài Trên Mây Lâu Đài Trên Mây - Diana Wynne Jones Lâu Đài Trên Mây