Until I feared I would lose it, I never loved to read. One does not love breathing.

Harper Lee

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Tín
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 49
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 64
Cập nhật: 2023-03-26 22:28:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 10
à thế là quyết tâm dấn thân chín dần trong lòng tôi. Các con tôi đã lớn và trưởng thành. Con gái tôi là bác sĩ ở Viện Mắt trung ương. Con rể tôi là cán bộ Ở ủy ban nhà nước về Hợp tác và đầu tự Con trai tôi vượt biên trong đám thuyền nhân từ Hải Phòng sang Hồng Kông từ đầu năm 1989, là kỹ sư chế tạo máy. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Bách Khoa Hà Nội, con trai tôi đã chán nản trước cung cách xử dụng nhân tài, muốn học thêm để nâng cao trình độ kiến thức, nhưng chất lương đào tạo trong nước quá thấp nên cố tìm cách ra nước ngoài để có điều kiện trau dồi thêm trình độ. Trong gia đình, vợ chồng tôi không khuyến khích, nhưng cũng không ngăn cản việc cháu đột ngột ra đi với trăm nỗi nguy hiểm trên đường biển. Cháu và người yêu của cháu, một nữ sinh viên sắp tốt nghiệp trường đại học sư phạm ngọai ngữ Hà Nội khoa tiếng Anh, chỉ kịp xin giấy đăng ký kết hôn ở ủy ban phường có một ngày trước hôm lên đường. Mấy tháng sau, chúng tôi mới nhận được thư và biết hai cháu đã lênh đênh trên biển vừa đúng 28 ngày. Sau đó hai cháu ở trong trại cấm gần một năm rưỡi, đến tháng 7, 1990 mới được hưởng quy chế tự do để chờ được phía Hoa Kỳ nhận vào đất Mỹ, do cô em gái ruột tôi hiện ở La Puente (Cali) bảo lãnh. Tôi vừa lo cho con trai, vừa cảm thấy yên tâm và tự hào vì nó có suy nghĩ độc lập, có ý chí và nhân cách.
Đây có lẽ là cuộc dấn thân cuối cùng trong đời tôi, một cuộc dấn thân khác hẳn mọi cuộc lên đường thời trai trẻ, thời sung sức. Thế nhưng tôi vẫn tự bảo: "không thể làm khác được, không thể ươn hèn được, nỗi bất hạnh của đồng bào ta rộng khắp quá, sâu đậm quá! Không thể để mặc cho số phận, phải làm tất cả những gì có thể làm được để góp phần đưa đất nước ra khỏi thảm họa dân tộc chưa từng có này... "
Và đúng một tuần lễ trước khi lên đường, tôi ghé về thăm quê tôi ở xã Liên bạt, huyện _ng Hòa, Hà Sơn Bình (Hà Đông) để thăm viếng mộ thày mẹ tôi.. Từ năm 19 tuổi, tôi vẫn giữ một niềm tin ở lẽ phải, cái thiện và những điều mà từ khi vỡ lòng thầy mẹ tôi đã dạy bảo: "ở hiền gặp lành, tu nhân, tích đức, đói cho sạch rách cho thơm". Thầy tôi sinh ra từ một dòng họ lớn. Cụ nội tôi là Bùi Tuấn, thi đỗ Giải Nguyên, năm 34 tuổi đỗ tiến sĩ, sau đó được cử vào làm giám khảo các cuộc thi Hương ở Nghệ An và Huế, rồi làm tổng đốc tỉnh Ninh Thái (gồm Thái nguyên và Bắc Ninh), và tham tri Bộ Binh khi cụ Nguyễn Tri Phương là thượng thư Bộ Binh. Năm 1869, khi bọn giặc Trung Quốc Ngô Côn quấy nhiễu, cụ cùng với cụ Ông ích Khiêm dẹp loạn, lập nên chiến công hiển hách, được ghi vào sử nước tạ Ông nội tôi là Bùi Tập, tuần phủ tỉnh Hưng hóa, cùng một lớp với các cụ Cao Xuân Dục, Vũ Trọng Bình, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Hữu Độ là những quan lại nổi tiếng về thanh liêm và văn học cao thời bấy giờ. Ông nội tôi mất sớm khi mới 47 tuổi.
Ba anh em cha tôi mồ côi từ tấm bé, khi hai anh cha tôi lên 7 và 10 tuổi, còn cha tôi mới lên 5,. Ba anh em phải xuống thị trấn Vân Đình, ở nhà ông chú dượng là cụ Dương Lâm để học chữ Hán. Cạnh nhà ấy là một ngôi chùa nhỏ. Ba anh em ruột Bùi Bằng Phấn, Bùi Bằng Thuận, Bùi Bằng Đoàn sáng dạ, chăm học, thường quét lá đa ở cửa chùa để đến tối đốt lên thay đèn đọc sách. Năm 1906, ba anh em lên đường vào kinh đô Huế cùng dự thi Hương và đều đỗ, gọi là đồng khoa, một điều rất hiếm. Cha tôi đổ cử nhân Hán học lúc mới 17 tuổi, ngay sau đó phải khai thêm 3 tuổi để vào trường Hậu bổ học ba năm tiếng Pháp. Cha tôi đổ đầu thi tốt nghiệp. Sau khi làm chánh án tỉnh Bắc Ninh, Tuần Phủ tỉnh Cao Bằng, rồi tỉnh Ninh Bình, đầu năm 1933, cha tôi được chọn vào Huế làm Thượng Thư (bộ trưởng) bộ Tư Pháp khi mới 44 tuổi. Mười hai năm ở kinh đô, trông nom việc xử kiện của tất cả các tỉnh Trung kỳ, cha tôi giữ một đức tính liêm khiết đến mức tuyệt đối, dồng thời trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo các bộ luật cho Trung Kỳ, các bộ luật mới này đều thảo bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và dịch ra cả chữ Hán. Đến năm 1945, sau cách mạng Tháng Tám, cụ Hồ Chí Minh mời cha tôi ra làm việc. Hai lần đầu cha tôi từ chối, viện cớ tuổi đã cao (56 tuổi), sức đã yếu, nhưng chính là do quan điểm Nho giáo: Trung thần không thể theo hai vua!. Đến lần thứ ba cụ Hồ khẩn khoản yêu cầu, cha tôi mới nhận lời sau khi xin ý kiến hai ông anh và cả gia đình. Mới đầu cụ Hồ giao cho cha tôi làm Tổng thanh tra chính Phủ, cùng ông Cù Huy Cận làm ủy viên thanh tra, cha tôi yêu cầu: có chức thì phải có quyền, và được Chủ tịch nước đồng ý. Cha tôi đã xử lý một cách kiên quyết và công tâm một số vụ tham nhũng và lợi dụng quyền hành ở Vĩnh Phú và Hà Nam, trong đó có một số cán bộ cấp tỉnh là đảng viên cộng sản. Cha tôi làm chủ tịch ủy ban thường vụ Quốc hội từ cuối năm 1946, đến đầu năm 1955, thường ở rất gần Hồ Chủ Tịch trên căn cứ địa Việt Bắc. Khi cha tôi mất do bị chảy máu não (tháng 4, 1955), chính phủ làm lễ Quốc táng trọng thể và dự định an táng ở nghĩa trang Mai Dịch ở thủ đô, nhưng cha tôi trước khi tắt thở đã yêu cầu chôn cất ở làng quê, trên mảnh đất quê hương bên những người thân yêu. Ngoài một ngôi nhà nhỏ ba gian ở quê, cha tôi không có một ngôi nhà nào khác ở Hà Nội, hay ở những nơi khác đã từng làm việc. Khi mất, cha tôi không để lại một tài sản nào đáng kể cho tất cả mười người con, tám gái, hai trai. Chúng tôi không có cả đến một chiếc xe đạp để đi. Tất cả chúng tôi đều bảo nhau rằng, gia tài người để lại là cực quý, là vô giá: Đó là đức tính liêm khiết, trong sạch của một ông quan đại thần suốt đời sống dản dị, khiêm nhường, được cả xã hội quý trọng về đức độ và nhân cách. Chính đức tính ngay thật, thẳng thắn tất cả vì lẽ công bằng của xã hội của cha tôi đã cổ vũ tôi hôm nay dấn thân vì cuộc sống của đồng bào và đất nước thân yêu.
Tôi cũng đã thắp nén hương trên mộ mẹ tôi, ở ngay bên mộ cha tôi. Mẹ tôi là vợ thứ hai của cha tôi, bà cả mất sớm trước khi cha tôi vào Huế. Bà cả có năm con đều là con gái. Mẹ tôi đẻ năm lần, hai trai, ba gái. Bà cả thuộc gia đình nho giáo. Mẹ tôi xuất thân từ một gia đình nhà nghèo ở miền quê Bình Lục, Hà nam (nay là Hà Nam Ninh). Chính giọng hát quyến rũ của mẹ tôi với những làn điệu sa mạc, ca trù, ả đào... đã làm cha tôi mê mệt. Mẹ tôi lại ham làm, luôn tay khâu vá, làm bánh, nấu nướng, muối dưa, muối cà, làm tương... ngay cả khi đã được gọi là "bà lớn"... Điều tôi nhớ nhất ở mẹ tôi là tấm lòng nhân ái, thương người, chỉ thích làm quen, kết bạn, chơi thân với những người giản dị, ít kiểu cách. Sau cách mạng Tháng Tám tôi đi bộ đội xa, không cho gia đình biết nơi tôi hoạt động. Mẹ tôi cố đi tìm ở những trại Quân giải Phóng mà không thấy. Từ đó mẹ tôi luôn có các anh em bộ đội ghé qua nhận làm mẹ nuôi và chăm sóc anh em như là chăm sóc con đẻ vậy. Lòng nhân ái và lòng vị tha sâu đậm, sống chan hòa với xung quanh trên căn bản của Tình Người ấy đã có ảnh hưởng quyết định đến cuộc sống tình cảm của tôi, và cũng là một động lực thôi thúc tôi hôm nay...
Tôi tin rằng đất nước mình không thể nghèo khổ, bị đọa đầy mãi được, nhân dân mình không thể cam chịu cảnh đạo lý bị đảo ngược và tan vỡ, xã hội bị đảo điên đến thế này. Đó là điều không ai có thể chấp nhận. Chung một lòng cứu vãn đất nước khỏi khủng hoảng, tất cả những người có lương tri, trọng nhân cách và đạo lý ắt phải tập hợp nhau lại. Sát cánh đấu tranh cho tương lai của dân tộc. Và tôi thấy trong lòng có một sức thôi thúc mạnh mẽ đến quyết liệt để dấn thân..
Hoa Xuyên Tuyết Hoa Xuyên Tuyết - Bùi Tín Hoa Xuyên Tuyết