Số lần đọc/download: 1462 / 23
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
Chương 15 -
C
hiếc máy bay chở chúng tôi tới đảo, là phi cơ riêng của một nhóm người có thế lực, nhưng không ai biết hòn đảo mà chúng tôi sắp đáp xuống là tài sản của người nào. Đảo hẹp, có nhiều cây cối, dài khoảng ba kilomét, ở giữa trũng xuống, mỗi đầu có một hòn núi nhọn nhô lên. Chúng tôi thấy ở một đầu có một ngôi nhà theo kiểu Anh mới, và ở đầu kia là một cái cầu tàu nhỏ màu trắng. Về sau tôi biết được ngôi nhà ấy là do một nhà triệu phú ở Boston cho xây dựng từ những năm đầu của thế kỷ, và người ta gọi là nhà nghỉ hè, vì mùa đông không ai đến ở đó cả. Chúng tôi cảm thấy các cánh máy bay rung động, và chúng tôi hít gió biển qua các cửa sổ tròn bằng kính ở thân máy bay. Ánh mặt trời lấp lánh trên làn sóng biển nhấp nhô như những bó đuốc trong một cuộc rước đuốc, và các con chim cốc đang đương đầu với gió. Phi cơ bay dọc theo bờ biển bang Maine được năm mươi tám phút, thì đột ngột các cây cối trên đảo như mọc cao lên, bầu trời biến mất, và phi cơ đáp xuống trên một bãi cỏ. Randy và êkíp của ông ta đợi chúng tôi bên một chiếc xe jeep.
- Kính chào quý vị. Tôi là chủ nhà được hân hạnh tiếp đãi quý vị trong suốt thời gian quý vị tham quan hòn đảo bé nhỏ của chúng tôi.
Randy bắt tay Barley trước hết. Chắc ông ta đã được cho xem các tấm ảnh của Barley.
- Ông Brown, thật là một vinh hạnh lớn cho tôi. Chào Ned, chào Harry.
Brown là tên của Barley trong suốt thời gian ông ta ở đây.
- Hân hạnh! - Barley đáp.
Chiếc xe jeep của chúng tôi chạy xuống theo sườn đồi.
Xe chạy vào một con đường dẫn đến ngôi nhà nghỉ hè.
- Ông Brown, tôi nhận được lệnh đưa ông vào phòng tân hôn, - Randy nói đùa.
- Cám ơn ông, không có điều gì làm cho tôi thích thú hơn. - Barley đáp một cách lịch sự.
Randy đưa chúng tôi đi ngang qua một tiền sảnh để vào một phòng giống như một cabin của thuyền trưởng: một cái giường gọng đồng ở một góc, một cái bàn viết bằng gỗ tùng bên cửa sổ, và trên tường treo những đồ vật giống như những thứ mà người ta thường dùng trên tàu thủy. Phía sau căn phòng ấy là một phòng nhỏ dùng làm bếp, ở đó Barley để ý ngay đến cái tủ lạnh. Ông ta mở tủ lạnh ra và nhìn vào bên trong.
- Randy, ông Brock muốn có một chai rượu uýt-ki trong phòng của ông ấy. Nếu ông có thứ rượu đó trong kho, thì ông ta sẽ vô cùng tán thưởng đấy!
Ngôi nhà nghỉ hè giống như một nhà bảo tàng các cổ vật. Nơi mái hiên có những cái vồ bằng gỗ để trẻ con chơi trò đánh cầu. Những cái vồ ấy được đặt dựa vào một cái xe kéo có trần đầy bụi bặm, trên xe chất những cái phao tiêu màu đỏ lượm được trên bãi biển. Trong không khí phảng phất mùi sáp ong. Trong tiền sảnh, trên tường có treo những bức chân dung của các nhà quý phái và vợ của họ đội những chiếc mũ rộng vành, bên cạnh là những bức tranh vẽ những chiếc tàu đánh cá voi. Chúng tôi theo Randy đi lên cái cầu thang đồ sộ bằng gỗ đánh xi láng bóng. Chúng tôi đi theo một hành lang hai bên có những gian phòng màu xanh, phòng lớn hơn hết được dành cho Clive. Từ các bao lơn, người ta có thể ngắm nhìn các khu vườn đến tận cầu tàu.
Trong một phòng ăn, một cô đầu bếp xinh đẹp của Langley dọn cho chúng tôi món tôm hùm biển Maine, rưới rượu vang trắng, nhưng cô ta không nhìn chúng tôi. Trong lúc ăn, Randy giải thích cho chúng tôi biết thể lệ áp dụng ở đây:
“Chúng tôi yêu cầu quý vị đừng tiếp xúc với các nhân viên ở đây. Nếu quý vị có cần một điều gì, xin vui lòng đến gặp tôi. Các nhân viên bảo vệ luôn luôn có mặt để bảo đảm an ninh cho quý vị. Tôi xin quý vị đừng đi ra ngoài khu nhà này. Xin cám ơn quý vị trước”.
Ăn tối xong, Randy đưa Ned đến phòng liên lạc vô tuyến, còn tôi đưa Barley về phòng của ông ta. Các người bảo vệ mang máy bộ đàm nhìn chúng tôi đi qua.
- Hay là chúng ta chơi một ván cờ? - Tôi đề nghị với Barley khi đến ngưỡng cửa phòng của ông ta. Nhưng tôi cảm thấy một cái bóp tay thân mật ở cánh tay tôi, tiếp theo là lời “Chúc ngủ ngon” của ông ta.
Cánh cửa mở ra, rồi đóng lại, và tôi đủ thì giờ để nhìn thấy có bóng dáng như ma của người lính canh núp trong bóng tối, chỉ cách chúng tôi chưa đầy hai mét.
*
- Harry, ông là một luật gia thận trọng và là một sĩ quan giỏi, - Russel Sheriton nói với tôi một cách kính cẩn sáng hôm sau. - Đúng là một ông lớn, - ông ta nói thêm và siết tay tôi một cách nhiệt tình - Công việc tiến triển như thế nào rồi?
Một nhóm phụ tá trẻ tuổi cung kính đứng riêng ra một nơi. Clive và Bob đi theo Sheriton như hai người cận vệ.
Cuộc hỏi cung mà về sau người ta gọi là cuộc họp cho được đẹp đẽ theo lối uyển ngữ sắp bắt đầu.
Có một điều lạ lùng hơn hết là Barley, tuy là người bị chất vấn, nhưng không bao giờ ác cảm với người Mỹ ở đây, không bao giờ bất bình với họ về tất cả những gì đã xảy đến với ông ta kể từ ngày hôm ấy. Nói chung, ông ta chửi người Mỹ thậm tệ, nhưng khi đã quen biết từng người một, ông ta nói họ là những người rất trung hậu. Ông ta vui lòng uống rượu với bất cứ người nào trong bọn họ. Và ông ta thừa nhận tính xác thực của các bằng chứng mà họ đưa ra để biện bác với ông ta, cũng như ông ta đánh giá đúng công việc họ làm.
*
Các cuộc hỏi cung diễn ra trong phòng bida. Nhưng người ta đã sơn lại sàn nhà bằng màu đỏ thẫm, và đã thay thế cái bàn bida bằng một dãy ghế xếp thành một vòng tròn. Ánh sáng từ ngọn đèn treo sát trần nhà chiếu xuống tạo thành một quầng sáng ở chính giữa phòng, nơi mà Barley ngồi. Ned đã đến tìm Barley tại phòng ngủ của ông ta để đưa ông ta đến đây.
- Ông Brown, tôi rất hân hạnh được bắt tay ông. Tôi vừa quyết định rằng tên của tôi là Haggarty trong suốt thời gian ông ở đây, - Sheriton tuyên bố. - Ngay từ lúc mới thấy ông, tôi đã cảm nhận được trong các mạch máu của ông dòng máu Xcôtlen của tôi. Tôi không hiểu vì sao.
Ông ta dẫn Barley đi vào trong phòng.
- Ông Brown, trước hết tôi xin có lời ngợi khen ông. Ông có tất cả những phẩm chất tốt: trí nhớ, năng khiếu quan sát, sự can đảm và ông còn biết chơi cả saxophone.
Barley mỉm cười ngồi vào chỗ danh dự.
Ned đã ngồi vào chỗ của mình, vòng tay lại, trong lúc Clive kéo ghế của ông ta thụt lùi một chút, như muốn ở vào hàng ghế thứ hai dành cho các phụ tá của Sheriton.
Sheriton đứng trước mặt Barley, nói mà không rời con mắt khỏi ông này, ngay cả khi ông ta nói với một người nào khác.
- Clive, ông cho phép tôi quấy nhiễu ông Brown với những câu hỏi tò mò tọc mạch của tôi chứ? Ned, ông có muốn giải thích cho ông Brown rằng ông ta bây giờ đang ở Hoa Kỳ, và ông ta không bị bắt buộc phải trả lời nếu ông ta không muốn, nhưng sự im lặng của ông ta sẽ được coi là một bằng chứng quả tang ông có tội?
- Ông Brown đã khá hơn để tự xoay xở một mình, - Barley mỉm cười nói.
- Ông Brown, có thật sự chắc chắn không? Thật phi thường! Bởi vì, trong những ngày sắp tới, đó chính là những gì chúng tôi mong muốn chứng kiến ông thực hiện.
Sheriton đi đến cái bàn để thức ăn và tự rót cho mình một ly cà phê rồi cầm về chỗ cũ trước khi nói tiếp với một giọng điềm tĩnh hơn, giọng của lý trí.
- Ông Brown, giả sử chúng ta mua một bức tranh của Picasso, đồng ý? Tất cả các người trong phòng này đều muốn mua bức tranh ấy. Nhưng đây có phải đích thực là một tác phẩm của Picasso hay là của một anh chàng J.P Duchmol Junior nào đó, ở South Bend, bang Indiana, hay ở Omsk bên Liên Xô đã làm giả mạo? Ông đừng quên một điều: chúng ta không thể đem bán lại nó. Chúng ta không phải ở Luân Đôn mà ở Washington. Và ở Washington các tin tức tình báo phải có ích, nghĩa là chúng phải được đem ra sử dụng, chứ không phải để nhìn ngắm.
Ông ta hạ thấp giọng, nói tiếp:
- Ông Brown, và bây giờ ông là người bán tranh. Dù muốn hay không, ông là mối dây liên lạc gần gũi hơn hết của chúng tôi với nguồn gốc cung cấp tin tức, cho đến ngày người ta có thể thuyết phục được người mà ông gọi là Goethe thay đổi lề lối làm việc và liên lạc trực tiếp với chúng tôi... điều mà theo tôi ít có cơ may xảy ra, rất, rất ít có cơ may xảy ra.
Sheriton đi quanh một vòng rồi nói tiếp:
- Ông Brown, ông là rường cột trong công việc này. Ông viết kịch bản, ông đạo diễn, ông đóng vai chính, ông sản xuất phim? Hay ông chỉ là một vai phụ?
Sheriton thở dài rồi nói tiếp:
- Ông Brown, lúc này ông có một người tình cố định, hay ông hôn bất cứ ai ông tìm được?
Ned chưa kịp đứng lên thì Barley đã trả lời:
- Còn ông thì sao, ông lớn? Haggarty phu nhân làm tròn bổn phận của bà ta hay ông lớn phải lang thang tìm bồ bịch?
- Ông Brown, người ta mua bức tranh Picasso của ông, chứ không phải mua bức của tôi. Washington không thấy nhân viên tình báo la cà các quán rượu dành cho những anh chàng độc thân.
- Tôi không thấy đời tư của ông Brown có liên hệ gì đến công việc này hết! - Ned cắt ngang.
- Coi kìa, Ned! Ông đừng giả vờ ngây thơ như thế, - Sheriton phản đối. - Này ông Brown, điều gì thúc đẩy ông đi qua nước Nga như đi chợ thế? Ông mua đất ở bên đó à?
Barley vẫn mỉm cười. Sheriton dụng ý bắt đầu làm cho Barley bực tức.
Barley đáp:
- Nói cho đúng, đó là một điều mà tôi đã thừa hưởng của bố tôi. Lúc bố tôi còn sống, ông luôn luôn yêu chuộng Liên Xô hơn nước Mỹ, và ông đã hy sinh rất nhiều để xuất bản các tác phẩm văn học của Liên Xô. Ông thuộc thành phần Fabian Society, hơi giống như New-dealers của các ông. Nếu là ở bên nước của các ông, chắc chắn người ta đã nhanh chóng ghi tên ông vào danh sách đen rồi.
- Tôi có đọc hồ sơ của bố ông. Thật là kinh khủng! Ông Brown, hãy cho chúng tôi biết đôi chút về ông cụ. Ông cụ đã để lại cho ông những gì?
- Nhưng điều ấy nào có liên quan gì đến vấn đề này! - Ned kêu lên.
Nhưng Barley đã nói tiếp, với một giọng điềm tĩnh hơn trước:
- Trong những năm của thập niên ba mươi, chắc ông cũng đã biết, bố tôi có sáng lập một Câu lạc bộ đọc sách Liên Xô, nhưng Câu lạc bộ ấy đã không tồn tại được bao lâu. Và trong thời kỳ chiến tranh, khi nào ông cụ tìm được giấy, ông cụ in những tài liệu tuyên truyền ủng hộ Liên Xô, tán dương Staline.
- Và sau chiến tranh ông cụ làm gì? Có phải cuối tuần nào ông cụ cũng sang bên ấy để giúp họ xây bức tường Berlin không?
- Bố tôi có những ước mơ, nhưng rồi ông cụ đã thất vọng.
Sheriton thở dài, rồi nói:
- Ông Brown, còn đây là hồ sơ của ông: bố ông là một phần tử thân Cộng, nhưng về sau đã thất vọng. Trong tám năm tiếp theo cái chết của bố ông, ông đã sáu lần sang Liên Xô và ở đó một thời gian. Ông đã bán được cho người Nga bốn quyển sách của ông, đúng là bốn quyển. Và ông đã xuất bản được ba quyển sách của họ, đúng là ba quyển. Ông đã gần phá sản, nhưng người ta đã ước tính chi phí của ông trong các chuyến đi là mười hai ngàn đồng bảng Anh, và các chuyến về chỉ một ngàn chín trăm bảng mà thôi. Ông ly dị vợ, không có những sự ràng buộc, và ông học một trường tư. Ông uống rượu như uống nước, và có bạn bè trong giới nhạc jazz. Nhìn từ Washington, ông là một kẻ vớ vẩn hiền lành. Nhìn gần, ông là một con người hấp dẫn, nhưng làm sao tôi có thể biện minh với Ủy ban Lưỡng viện Quốc hội sắp tới mà các ủy viên nhất quyết cho rằng các tài liệu của Goethe làm cho pháo đài Mỹ lâm nguy?
- Vì sao lại lâm nguy? - Barley hỏi.
- Xin lỗi, ông nói gì?
- Vì sao các tài liệu của Goethe làm cho họ sợ? Nếu người Nga không có một trục bắn tốt, thì pháo đài Mỹ phải mừng rỡ mới phải chứ?
- Ôi, người ta mừng rỡ chứ sao! Ông Brown, hãy suy nghĩ đi! Người ta đắm mình trong hoan lạc. Mặc kệ Tư lệnh tối cao Quân lực Mỹ tin chắc như đinh đóng cột rằng vũ khí nặng của Liên Xô có một độ chính xác đáng sợ. Mặc kệ tất cả vấn đề của chúng ta là phải biết sự tác xạ của họ chính xác đến mức nào; khi người ta có sự chính xác, người ta có thể phá hủy các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa của địch. Mặc kệ ưu thế quân sự của Liên Xô, đến nay vẫn còn là lý do chính để người ta nghiên cứu chiến tranh giữa các vì sao.
Đột ngột, Sheriton thay đổi giọng nói và nói giọng đặc sệt của một nông dân miền Nam:
- Ông Brown, hay là đã đến lúc chúng ta tiêu diệt quân khốn nạn ấy trước khí chúng tiêu diệt chúng ta. Ông Brown, hành tinh này không đủ lớn để cho hai siêu cường cùng sống chung. Thế thì, ông sẽ đứng về phe nào, ông Brown, khi tất cả sắp nổ rền?
Sheriton ngừng lại một lát rồi mới nói tiếp:
- Điều tệ hại hơn hết, đó là việc tôi tin Goethe. Tôi tin ông ta ngay từ ngày ông xuất đầu lộ diện. Tôi tin rằng giờ vinh quang của Goethe đã điểm. Và ông có biết điều đó có ý nghĩa rằng tôi cũng phải tin ông Brown có mặt ở đây và rằng ông Brown phải tỏ ra hoàn toàn trung thực đối với tôi, nêu không tôi chết mất.
Sheriton trịnh trọng đặt bàn tay phải lên trên trái tim mình và tuyên bố:
- Tôi tin ông Brown, tôi tin Goethe, tôi tin các tài liệu của ông ta. Và chết vì khiếp đảm.
Có những người thay đổi ý kiến, tôi nghĩ thầm. Có những người khác thay đổi tôn giáo. Nhưng chỉ có Russel Sheriton dám tuyên bố rằng ông ta đã thấy Chân lý làm cho ông ta đột ngột đổi ý, đổi quan niệm một cách hoàn toàn. Ned nhìn ông ta với vẻ hoài nghi, và Clive thích ngắm cái túi đựng các cây gậy chơi bida còn để tựa vào chân tường. Sheriton ngắm ly cà phê của ông ta và bĩu môi. Một phụ tá của ông ta nhìn đăm đăm mũi giày da của mình, còn một phụ tá khác nhìn ngắm đại dương qua cửa sổ.
Nhưng rõ ràng không ai dám nhìn Barley, ngồi không nhúc nhích trên ghế của ông ta, vẻ ngay thật.
Tôi nói với Barley:
- Đây là những gì Haggarty muốn biết. Ông có chấp nhận để cho người Mỹ hỏi cung ông theo lối trắc nghiệm không? Ông có quyền từ chối. Phải không, Clive?
Tất cả mọi người đều quay mặt về phía Barley, như hoa hướng dương quay về phía mặt trời.
Barley im lặng một hồi, vẻ buồn bực, rồi nhún vai. Ông ta nghĩ gì trong đầu óc của ông ta. Một tiếng “không” của ông ta sẽ ngăn cách vĩnh viễn ông ta với Goethe, với Katia? Ông ta mỉm cười để che giấu sự bối rối của mình.
Cuối cùng Barley chấp nhận.
*
Phái đoàn đầu tiên vừa mới tới đảo bằng máy bay. Ngồi trong phòng bida sàn nhà sơn màu đỏ, chúng tôi đợi Barley đến. Quinn, tốt nghiệp trường West Point (1) chủ tọa, hai bên có hai phụ tá là Todd và Larry. Họ còn rất trẻ.
Sheriton đã có nói với chúng tôi: Quinn bay trong thiên cầu. Ông ta nói chuyện với các người có trách nhiệm ở Bộ Quốc Phòng, ông ta nói chuyện với các nhà lãnh đạo, ông ta nói chuyện với Chúa trời.
Quinn cao một mét chín mươi lăm, to con, vai rộng và tai lớn. Ông ta mặc một bộ comlê giống như áo giáp, nhưng không đeo huy chương, cũng không mang lon.
Ned và Barley đi vào. Sau khi Sheriton giới thiệu mọi người xong, Larry bắt đầu cuộc hỏi cung:
- Ông Brown, chúng tôi bị bắt buộc phải ngồi vào chỗ những người công kích ông một cách dữ dội. Trong nghề nghiệp của chúng tôi, có những tin tức xác thực và những tin tức không xác thực. Chúng tôi mong muốn làm cho các tin tức của ông trở thành xác thực. Đó là công việc của chúng tôi, người ta trả lương cho chúng tôi là để chúng tôi làm công việc ấy, vì thế xin ông đừng coi việc này như là một sự công kích cá nhân ông. Phép phân tích là một khoa học mà chúng tôi phải tuân theo các phương pháp của nó.
- Vì thế, chúng tôi sắp coi việc này như là sự xếp đặt một cách thầm kín, - Todd nói.
- Ông Brown, ai đã có ý kiến đi đến Peredelkino ngày hôm ấy? Mùa thu, hai năm trước đây? - Larry hỏi.
- Tôi.
- Ông có chắc như thế không?
- Lúc chúng tôi quyết định đi Peredelkino, tất cả chúng tôi đều say rượu. Nhưng gần như chắc chắn là chính tôi đã đưa ra ý kiến đầu tiên.
- Ông uống rượu nhiều lắm, phải không ông Brown?
- Vâng, tôi uống không ít.
- Rượu có làm cho ông mất trí nhớ không?
- Thỉnh thoảng có.
- Nhưng không luôn luôn. Ông đã lặp lại từng chữ cuộc nói chuyện dài dòng của ông với Goethe vào cái đêm mà hai ông đều say mèm. Trước đó ông đã có đến Peredelkino?
- Có.
- Có thường đi không?
- Hai hay ba lần. Có thể bốn lần.
- Ông đã gặp bạn bè trong cái xó xỉnh ấy?
- Trong cái làng ấy, tôi có gặp lại bạn bè của tôi, - Barley trả lời với vẻ khó chịu vì ngôn từ của anh chàng người Mỹ này.
- Bạn bè người Nga?
- Lẽ dĩ nhiên.
Larry ngừng lại một lát rồi mới hỏi tiếp:
- Ông có muốn cho chúng tôi biết tên những người bạn ấy được không?
- Một nhà văn, một nhà thơ nữ, một viên chức làm việc trong một nhà xuất bản.
- Ngày các ông đi du ngoạn Peredelkino, chúng ta hãy gọi là ngày N, ông có ý nghĩ đến thăm bạn bè cũ của ông không? Để xem ai vẫn luôn luôn còn ở đó? Để chào hỏi nhau một tiếng?
Barley hình như không còn nhớ lúc bấy giờ ông có ý nghĩ ấy hay không. Ông nhún vai, trả lời:
- Lúc đó tôi không muốn bắt buộc họ phải tiếp Jumbo. Vả lại, chúng tôi quá đông. Không, thú thật, tôi không có ý nghĩ ấy.
- Chắc chắn là như thế rồi, - Larry nói.
Ba lý do. Tôi buồn rầu nghĩ thầm. Ba trong khi một lý do thôi cũng đủ. Tôi thấy Todd ghé miệng vào tai Quinn nói thầm điều gì đó.
- Ông Brown, có phải ông đã đề xuất việc đi thăm mộ Pasternak không?
- Phải, chính tôi. Tôi tin là các người khác không hề biết ở đó có một của Pasternak.
- Và đi thăm ngôi nhà của Pasternak nữa?
- Đúng.
- Nhưng cuối cùng ông đã không đi thăm ngôi nhà ấy?
- Lúc đó trời mưa.
- Ông có một chiếc xe hơi và một người tài xế?
Larry ngừng lại một lát trước khi tiếp tục với một giọng hờn dỗi.
Ông Brown, như thế ông là người đã tổ chức cuộc du ngoạn ngày N. Ông đã cầm đầu đoàn du ngoạn và dẫn họ lên trên đồi để thăm mộ của Pasternak. Và khi ở trên đồi đi xuống, ông Nejdanow đã nói với ông chứ không nói với ai khác. Ông ta đã hỏi ông có phải các ông là người Mỹ không, và ông đã trả lời: “Không, nhờ ơn Chúa, chúng tôi là người Anh”. Ông Brown, và cũng chính ông, hoàn toàn ngẫu nhiên, đã có thể ngâm thơ của Pasternak. Ông đã chia tay một cách rất tài tình với đoàn du ngoạn do ông cầm đầu, để rồi sau đó chỉ một mình ông ngồi ăn bữa trưa bên cạnh người mà chúng ta gọi là Goethe. Ông Brown, chúng tôi có một bản báo cáo từ Luân Đôn liên quan đến Magda làm việc tại nhà xuất bản Penguin. Madga có cảm tưởng rằng ông muốn nói chuyện một mình với Nejdanov. Ông có thể giải thích cho chúng tôi biết thêm về sự việc ấy không?
- Quả thật, có thể tôi đã muốn chia tay với họ. Sau một tuần tham dự hội chợ triển lãm, bất cứ người bình thường nào cũng không còn muốn tiếp đãi các nhà xuất bản nữa.
- À, ra thế, - Larry nói trước khi giao Barley cho Todd hỏi cung tiếp.
- Ông Brown, xin ông vui lòng cho chúng tôi biết những sự giao tiếp giữa ông và Niki Landau.
- Tôi không có tiếp xúc với ông ta. Người ta đã cấm chúng tôi không được gặp lại nhau cho đến Ngày phán xét cuối cùng. Tôi đã phải ký một giấy cam kết không còn được nói chuyện với ông ấy. Ông hãy hỏi Harry.
- Nhưng trước khi ký giấy cam kết ấy?
- Chúng tôi đã nốc với nhau vài gô-đê.
- Xin lỗi?
- Chúng tôi đã uống rượu uýt-ki với nhau. Ông ta là một anh chàng dễ thương.
- Nhưng ông ta chắc chắn không phải là cùng đẳng cấp với ông. Ông ta đã không được học ở Harrow hay ở Cambridge.
- Thử hỏi, điều đó có thay đổi gì không?
- Ông Brown, có phải ông làm như thế để gián tiếp công kích cấu trúc xã hội của nước Anh không?
- Theo tôi, đó là một trong những tai họa lớn hơn hết của thế giới hiện đại.
- “Một anh chàng dễ thương”, như thế có nghĩa là ông mến ông ta lắm, phải không?
- Ôi, ông ta là một người hay quấy rầy như quỷ sứ, nhưng tôi đã mến ông ta và bây giờ vẫn còn mến.
- Ông đã có những áp-phe làm chung với ông ta?
- Ông ta làm cho các nhà xuất bản khác. Chúng tôi không thể có những áp-phe làm chung với nhau.
- Ông không bao giờ mua gì của ông ta?
- Không, vì sao?
- Xin ông vui lòng cho tôi biết về các cuộc giao tiếp mà ông đã có với Niki Landau khi cả hai người có mặt ở đâu đó, thường là tại các thủ đô của các nước xã hội chủ nghĩa.
- Ông ta khoe khoang với tôi về các bà các cô mà ông ta đã cám dỗ được.
- Có bao giờ ông ta nói với ông về bà chị của ông ta không? Cái bà chị còn ở bên Ba Lan ấy.
- Không.
- Ông ta có tâm sự với ông về việc ông ta hận thù các nhà chức trách Anh quốc, vì họ đã trục xuất bố ông ta về Ba Lan không?
- Không.
- Lần cuối cùng ông gặp riêng Niki Landau xảy ra khi nào?
Tới đây Barley đã để lộ vẻ bực bội.
- Nghe ông nói, như thể ông cho chúng tôi là một cặp đồng tính luyến ái! - Barley bắt bẻ.
- Ông Brown, tôi đã hỏi ông gặp Niki Landau lần cuối cùng vào lúc nào? Ông hãy vui lòng trả lời câu hỏi của tôi, - Todd nói với giọng của người mà sự kiên nhẫn có những giới hạn.
- Tôi nhớ hình như là ở Francfort. Năm ngoái.
- Chắc ông muốn nói là nhân dịp cuộc hội chợ triển lãm sách ở Francfort.
- Không ai đến Francfort để du hí cả, ông bạn ạ.
- Sau lần ấy ông đã không gặp lại Landau chứ?
- Theo tôi nhớ thì không.
- Ngay cả ở Luân Đôn, nhân dịp hội chợ triển lãm sách mùa xuân năm nay?
Hình như Barley moi óc cố nhớ lại.
- Lạy Chúa, đúng rồi! Stella. Ông có lý.
- Xin lỗi.
- Niki đã để ý đến một cô gái làm việc cho tôi. Stella. Ông ta thấy cô ấy hợp “gu” của ông ta. Tôi tin là ông ta thấy tất cả các cô gái đều hợp “gu” của ông ta. Ông ta là một tay chim gái lão luyện. Và ông ta đã yêu cầu tôi giới thiệu.
- Ông đã làm gì?
- Tôi đã nhận lời.
- Nói cách khác, ông đã làm trung gian.
- Đúng.
- Và điều gì đã xảy ra?
- Tôi đã mời cô gái đến uống rượu tại Bocbuck lúc sáu giờ chiều. Niki đến, nhưng cô gái thì không.
- Thế là một mình ông chuyện trò với Niki. Hai người đã nói gì với nhau?
Về Stella. Và rồi nói về đủ thứ chuyện.
- Ông Brown, ông có tiếp xúc với ông tùy viên Văn hóa Sứ quán Liên Xô ở Luân Đôn?
- Khi nào có một nhà văn Nga đến Luân Đôn và sứ quán Nga có tổ chức tiếp tân, thường tôi có đến dự.
- Ông thường đánh cờ tại một quán cà phê ở Camden Town ở Luân Đôn?
- Vâng, có sao không?
- Ông Brown, có phải những người Nga lưu vong thường lui tới quán cà phê ấy?
- Tôi có biết một người tên là Leo. Biết Josef nữa. Tôi không ngủ với họ và cũng không tiết lộ bí mật quốc gia với họ.
*
Phòng bida, hiệp hai, nhưng lần này không có bàn và ghế cứng như trong màn đầu với Quinn. Chúng tôi ngồi một cách thoải mái trong những chiếc ghế bành bọc nệm êm ái. Trời chuyển dông. Các cô phục vụ xinh đẹp của Randy đã đóng các lớp cửa và thắp đèn. Brady mở cặp da của ông ta ra.
- Barley, tôi không nằm mơ chứ? Tôi đã có đọc ở đâu đó rằng ông đã thổi kèn saxophone trong dàn nhạc của Ray Noble?
- Vâng, lúc đó tôi còn mặc quần áo soóc.
- Ray là người đáng mến, phải không?
- Phải.
- Ông đã có đánh cờ với ông ta?
- Có.
- Ai thắng?
- Tôi.
Rồi hai người nói chuyện về Luân Đôn và về Hampstead, nơi Barley ở. Sau đó, họ chuyển qua nói về các dàn nhạc và các nhạc công.
Cuối cùng họ đàm luận về chính sách của nước Anh. Brady thành thật muốn biết những gì Barley chê trách bà Thatcher.
Barley phải suy nghĩ một lát và không trả lời ngay. Có lẽ ông ta đã để ý đến vẻ lo âu trong nét nhìn của Ned.
- Coi kìa, Barley, bà ta không có một đối thủ nào ngang sức với bà ta, thì đâu có phải là lỗi của bà ta.
- Bà ta quả thật là một nhà độc tài! - Barley lẩm bẩm. - Đó là một nền độc tài lập hiến. Một ngàn bắp chân là tốt, nhưng chỉ có hai bắp chân mà thôi thì lại là một tai họa. Cầu xin Chúa giáng phúc cho các nghiệp đoàn và tống khứ chủ nghĩa cá nhân đi!
Dù sao thì đó cũng là một cách nhập đề cởi mở và sau mười phút, chắc Barley đã phải cảm thấy rất thoải mái... cho đến lúc Brady ung dung đề cập “vấn đề mà trong đó ông đã có dính dáng vào...”, và đề nghị Barley kể lại hết một lần nữa, nhưng “nhấn mạnh về cuộc nói chuyện đối mặt với Goethe ở Leningrad”.
Barley vâng lời. Tôi chăm chú nghe cũng như Brady, và không thấy có gì khác so với những gì đã có trong hồ sơ của tôi.
Mới đầu, hình như Brady cũng không thấy có gì khác so với những gì đã có trong hồ sơ của ông ta. Ông ta mỉm cười vui vẻ với Barley khi Barley đã kể xong.
- Barley, tôi cám ơn ông nhiều lắm, - ông ta vừa nói vừa tra xét lại các giấy tờ trong tập hồ sơ. - Tôi đã luôn luôn nói rằng trong nghề tình báo, cái lúc hồi hộp hơn hết, là lúc chờ đợi. Barley, có phải ông đã cảm thấy như thế khi phải kéo dài thời gian chờ đợi Katia, chờ đợi Goethe? Tuy nhiên, ông cũng đã kéo dài thời gian sau khi đã gặp Goethe, phải không?
Brady xem xét kỹ một tờ giấy trong hồ sơ trước khi đưa cho Skelton, phụ tá của ông ta. Tôi biết đó là một sự tạm ngừng có tính toán của Brady. Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy rất lo âu và rõ ràng là Ned cũng có vẻ lo lắng như tôi.
- Barley, theo hồ sơ của chúng tôi thì Goethe và ông, hai ông đã chia tay nhau vào lúc 14 giờ 33 phút, giờ Leningrad. Ông có thấy tấm ảnh này? - Skelton đưa tấm ảnh cho ông ta xem.
Tất cả chúng tôi đều đã có xem xét tấm ảnh ấy trước kia rồi, trừ Barley, tất nhiên. Ảnh chụp Barley và Goethe trong các khu vườn ở Smolny ngay sau khi hai người từ giã nhau. Goethe đã quay gót và Barley còn đưa hai tay ra về phía ông ta. Giờ in ở góc trên phía trái của tấm ảnh là 14 giờ 33 phút 20 giây.
- Barley, ông còn nhớ các lời sau cùng của ông chứ? - Brady hỏi một cách ôn tồn.
- Tôi đã nói với ông rằng tôi sẽ in sách của ông ta.
- Còn ông ta, các lời sau cùng của ông ta?
- Ông ta muốn biết ông ta phải hay không phải tìm một con người khác xứng đáng hơn với danh xưng ấy.
- Những lời từ giã ngộ nghĩnh thay! -Brady nói với vẻ thỏa mãn, trong lúc Barley còn nghiên cứu tấm ảnh. - Barley, sau đó ông đã làm gì?
- Tôi đã trở về khách sạn Europe và tôi đã trao các tài liệu cho người có trách nhiệm.
- Ông đã trở về theo đường nào, ông còn nhớ không?
- Cũng theo đường như khi đi. Đi trôlâybuýt đến thành phố và sau đó tôi đi bộ.
- Ông có đợi trôlâybuýt lâu không?
- Tôi nhớ là không lâu lắm.
- Độ mấy phút?
- Năm phút... có thể lâu hơn một chút.
Cho đến bây giờ, tôi chưa bao giờ nghe Barley nói ngập ngừng như thể ông ta không nhớ được rõ.
- Có nhiều người xếp hàng đợi xe không?
- Không, không nhiều lắm. Tôi không đếm.
- Trôlây cứ mười phút là có một chuyến, và từ Somlny đến trung tâm thành phố, xe chạy cũng chỉ mất mười phút. Còn thêm mười phút đi bộ nữa, theo tốc độ đi bộ của ông, là đến khách sạn Europe. Các trinh sát viên của chúng tôi đã dùng đồng hồ bấm giờ để đo thời gian của tất cả các lộ trình, và mười phút là con số tối đa. Nhưng theo hai ông bà Henziger, ông đã về khách sạn gặp họ lúc 15 giờ 55. Như vậy chúng tôi thấy có một lỗ hổng khá đẹp. Một lỗ hổng trong thời gian. Ông có thể giúp tôi lấp cái lỗ hổng ấy không? Tôi không muốn tin rằng ông đã đi nhậu nhẹt trong khoảng thời gian ấy. Ông mang trong người những tài liệu quý giá, và tôi tin rằng đáng lẽ ông phải vội vã trút cái gánh nặng ấy đi mới phải.
Bây giờ Barley giữ thế đề phòng, và chắc Brady phải thấy thái độ ấy, vì ông ta mỉm cười rất thân mật để khuyến khích Barley thú nhận.
Ned ngồi chết điếng trên ghế của mình, mắt vẫn nhìn đăm đăm gương mặt băn khoăn của Barley.
Chỉ có Clive và Sheriton hình như thể không để lộ ra ngoài một sự xúc động nào.
- Barley, ông đã làm gì trong khoảng thời gian ấy? - Brady hỏi.
- Tôi đi chơi rong, - Barley đáp.
Tôi thấy rõ ràng ông ta nói dối một cách vụng về.
- Đi chơi rong với quyển sổ tay của Goethe trong túi? Quyển sổ tay mà ông ta đã gởi gắm cho ông như con ngươi của mắt ông ta? Ông đã chọn một lúc rất lạ kỳ để đi chơi rong trong năm mươi phút! Thôi đi, Barley! Nào, thú thật đi, ông đã đi đâu?
- Tôi đã đi dạo dọc theo bờ sông. Nơi mà Goethe và tôi đã đi qua trước đó, Paddy đã bảo tôi đừng quá vội vã, đừng hấp tấp trở về khách sạn ngay, cứ đi một cách ung dung.
- Đúng, - Ned nói, - Đó là những chỉ thị mà tôi đã cho qua đường vô tuyến của chúng tôi ở Matxcơva.
- Trong năm mươi phút sao? - Brady nhấn mạnh, lờ đi sự can thiệp của Ned.
- Tôi cũng không biết trong bao lâu. Tôi không có xem đồng hồ. Khi người ta thong thả, người ta cứ thong thả.
- Và trong tâm trí ông không hề có ý nghĩ rằng với một cái ghi âm nằm trong thắt lưng của ông và một quyển sổ tay đầy những thông tin bí mật quý giá trong cái túi xách bằng chất dẻo của ông, thì con đường ngắn nhất giữa hai điểm là con đường thẳng hay sao?
Sự tức giận đang bừng lên nơi Barley trở thành nguy hiểm, nguy hiểm cho chính ông ta, ông ta đã có thể biết được điều đó nếu nhìn nét mặt của Ned hay nét mặt của tôi.
- Ông không thèm nghe những gì tôi nói với ông sao? - Barley bùng nổ. - Tôi lập lại với ông rằng Paddy đã khuyên tôi hãy thong thả. Đó cũng là những gì người ta đã huấn luyện cho tôi ở Luân Đôn: “Hãy thong thả. Đừng vội vàng khi ông mang trong người một cái gì quý báu. Tốt hơn hết là cứ thong thả”. Đó, người ta đã dạy tôi như thế đó.
Một lần nữa, Ned lại tiếp cứu:
- Đúng, đó là những gì người ta đã dạy cho ông trong lúc huấn luyện.
- Barley, thế là sau khi xuống xe trôlây, ông đã đi chơi rong tới phía cơ quan đầu não của Đảng Cộng Sản ở Viện Smolny - đó là tôi chưa nói trụ sở của Komsomol và các tổ chức khác của Đảng - với quyển sổ tay của Goethe? Vì sao vậy, Barley? Những người của chúng ta khi hoạt động trên thực địa, đôi khi có những mưu mẹo kỳ cục, tôi ở một cấp bậc đủ cao để biết điều đó chứ, nhưng trong trường hợp này, đó là một hành vi mà tôi đánh giá là tự sát.
- Ôi lạy Chúa! Brady, tôi tuân theo các mệnh lệnh mà tôi đã nhận được. Tôi thong thả, không dám hấp tấp. Tôi phải lặp lại với ông bao nhiêu lần?
Mặc dù sự giận dữ của Barley, theo tôi, ông ta đang lâm vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan, chứ không phải lâm vào tình trạng nói dối. Những bằng chứng Barley đưa ra rất thành thật, và nét mặt của ông ta có vẻ cô đơn của một con thú bị vây, để rồi bị bắt. Hình như Brady cũng cảm thấy điều đó, cho nên thay vì tỏ vẻ đắc thắng trước sự bối rối của Barley, Brady chọn con đường giúp đỡ Barley chứ không đẩy ông ta vào bước đường cùng.
- Barley, ông thấy đó, cái lỗ hổng trong thời gian biểu của ông sẽ gợi lên những sự ngờ vực xác đáng ở một số người. Chắc chắn họ sẽ hình dung ông đã ngồi trong văn phòng hay trong xe của một người lạ đang cho ông những chỉ thị hay đang chụp ảnh quyển sổ tay của Goethe. Điều đó có thể xảy ra không? Nếu có xảy ra thì đã đến lúc phải thú thật. Lúc này chưa phải là chậm.
- Không.
- Không cái gì? Ông không muốn nói?
- Không, điều đó đã không xảy ra.
- Dù sao thì cũng đã có một điều gì khác đã xảy ra. Ông có nhớ ông đã nghĩ đến điều gì trong lúc đi chơi rong không?
- Tôi đã nghĩ đến Goethe. Đến việc xuất bản các quyển sổ tay của ông ta. Đến việc ông ta sẽ phá hủy ngôi đền nếu ông cảm thấy điều đó cần thiết.
- Ngôi đền nào? Chúng ta có thể để siêu hình học sang bên một lúc?
- Katia và các con của cô ấy. Ông ta sẽ kéo theo cả Katia và hai đứa con của cô ấy xuống mồ của ông ta, nếu ông ta để cho mình bị bắt. Không ai có quyền làm điều đó. Tôi không thể hiểu nổi ông ta.
- Thế là ông đã đi chơi rong để cố hiểu?
Barley thật đã có đi chơi rong, hay không? Có hay không? Ông ta im lặng.
Brady nói:
- Giao nộp quyển sổ tay trước cho người có trách nhiệm, rồi gỡ rối các vấn đề luân lý đạo đức của ông sau, như thế có phải là hợp lý hơn không? Tôi lấy làm lạ, làm sao ông có thể có được những ý kiến sáng suốt với quyển sổ tay của Goethe nóng hổi trong cái túi xách của ông. Tôi không dám nói rằng chúng ta phải thật lôgic trong một tình huống thuộc loại ấy, nhưng bằng cách chấp nhận các định luật của phép phản lôgic, tôi có cảm giác rằng ông đã lầm lạc vào trong một tình huống rất rắc rối. Cá nhân tôi, tôi nghĩ rằng ông đã làm một điều gì đó.
- Tôi đã mua một cái mũ.
- Một cái mũ?
- Một cái mũ bằng lông thú.
- Cho ai?
- Miss Coad.
- Bồ của ông?
- Đó là bà quản gia của ngôi nhà bảo đảm ở Knightsbridge, - Ned nói ngay không đợi Barley trả lời.
- Vậy ông đã mua cái mũ ấy ở đâu?
- Ở trên đường, giữa trạm trôlâybuýt và khách sạn. Nhưng tôi không còn nhớ đích xác ở đâu. Một cửa hàng nào đó.
- Chỉ mua có bấy nhiêu?
- Vâng, chỉ mua một cái mũ.
- Ông đã mất bao nhiêu thời giờ?
- Trước hết, tôi phải xếp hàng.
- Mất bao nhiêu thời giờ?
- Tôi không biết.
- Và ông đã làm gì khác nữa? Barley, ông nói dối. Không nhiều lắm, nhưng ông đã nói dối, chắc chắn ông nói dối.
- Tôi đã gọi điện thoại cho cô ta.
- Cô nào, cô Coad?
- Không, Katia.
- Ông đã gọi ở đâu?
- Ở một trạm bưu điện.
- Trạm bưu điện nào?
Ned đã đưa bàn tay lên che mắt như để che ánh mặt trời. Tuy nhiên dông tố đã nổi lên, và bên ngoài, trời với biển tối đen như mực.
- Tôi không biết. Một trạm bưu điện lớn. Các ca-bin điện thoại được đặt trong một hành lang bằng sắt.
- Ông đã gọi cho cô ta ở cơ quan hay ở nhà riêng?
- Ở cơ quan. Vì là trong giờ làm việc.
- Vì sao chúng tôi không có được sự ghi âm của cuộc điện đàm ấy?
- Tôi đã ngắt dòng điện của máy.
- Lý do vì sao ông phải gọi?
- Tôi muốn chắc chắn rằng mọi sự đều được tốt đẹp.
- Ông đã làm như thế nào để đạt được mục đích của ông?
- Tôi gọi. Cô ta trả lời. Tôi cho cô ta biết tôi đang ở Leningrad, tôi đã gặp người tôi muốn gặp, và công việc tiến hành tốt. Ai nghe lén thì chỉ có thể cho là tôi nói đến Henziger. Nhưng Katia thì biết là tôi nói đến Goethe.
- Lôgic, - Brady mỉm cười nói.
- Và sau đó tôi đã bảo cô ta rằng chúng tôi sẽ gặp lại nhau ở Matxcơva nhân dịp hội chợ triển lãm sắp đến. Tôi đã nói với cô ta hãy bảo trọng. Cô ta đã hứa sẽ làm như thế.
- Còn gì nữa không? Hay thế là hết?
- Tôi đã bảo cô ta hủy các quyển sách của Jane Austen mà tôi đã mang qua cho cô ta, với lý do các bản sách ấy có những thiếu sót trong lần tái bản và tôi sẽ tim cho cô ta những bản khác tốt hơn.
- Vì sao phải hủy?
- Vì trong đó có những câu hỏi để hỏi Goethe, những câu hỏi giống như những câu trong quyển sách bỏ túi tôi đã đưa cho Goethe, nhưng ông ta đã không chịu nhận. Người ta đã làm như thế để phòng trường hợp Katia tiếp xúc với Goethe chứ không phải tôi. Bây giờ Goethe đã không muốn trả lời các câu hỏi ấy, tôi nghĩ rằng để lại các quyển sách tại nhà cô ta không những chẳng còn có ích lợi gì, trái lại rất nguy hiểm cho cô ta. Tốt hơn là hủy đi.
- Barley, cuộc điện đàm ấy đã kéo dài trong thời gian bao lâu?
- Tôi không thể nói với ông.
- Tốn hết bao nhiêu tiền?
- Tôi không nhớ rõ. Tôi đã trả tiền ở ghisê. Chúng tôi đã nói chuyện về hội chợ triển lãm sách. Tôi muốn nghe tiếng nói của cô ta.
Lần này đến lượt Brady im lặng.
Barley nói tiếp:
- Tôi có cảm giác rằng mọi sự đều tốt đẹp, nàng khỏe mạnh.
Brady ung dung đưa ra câu kết luận làm cho mọi người đều ngạc nhiên:
- Một cuộc nói chuyện làm cho người ta sung sướng tê mê như say thuốc phiện, nếu tôi hiểu đúng những gì ông nói. Đúng không? - Brady vừa nói vừa xếp hồ sơ vào trong cặp da của ông ta.
- Hoàn toàn đúng, - Barley công nhận. - Và cũng là một cuộc nói chuyện vô hại.
- Cám ơn, Barley. Tôi khâm phục ông. - Brady vừa nói vừa khóa cặp da của ông ta lại.
*
Bây giờ chúng tôi ở trong phòng khách, Brady ngồi ở giữa. Barley đã đi ra rồi.
- Clive, hãy cho lão ta rơi vào quên lãng đi! - Brady khuyên luôn với giọng ôn tồn. - Lão ta là một con rối do người khác điều khiển, không thể tin cậy lão được, và lão lý luận nhiều quá. Các nhóm có thế lực ở đây cho là thế giới đang ở trong tình trạng có chiến tranh, các tướng lãnh không quân đang ngà ngà say, cơ quan an ninh cho rằng Barley sắp tiết lộ cho điện Kremlin biết các bí mật quốc phòng của chúng ta, và Lầu Năm góc tố cáo cơ quan tình báo chúng ta cung cấp cho họ hàng xấu, hàng giả. Lối thoát duy nhất của ông là thôi đừng dùng lão ta nữa và chọn một người nhà nghề để thay thế. Một người của chúng ta.
- “Bluebird” từ chối dùng một người nhà nghề để thay thế Barley - Ned nói.
Skelton cũng đề nghị:
- “Bluebird” không có quyền ra lệnh. Barley là một thằng phản bội, một thằng khốn nạn, thúc đẩy một mặc cảm tội lỗi và chắc chắn còn nhiều chuyện khác nữa.
- Nếu Goethe ngoan ngoãn, lão ta sẽ trúng số độc đắc, - Brady hứa. - Một triệu. Và ngay cả mười triệu cũng nên.
- Barley đã nói dối ông sao.
- Không nhiều lắm, nhưng lão ta đã say đắm con nhỏ Katia. Lão ta có một đầu óc rất phức tạp. Và do đó, lão ta rất nguy hiểm.
*
Rồi vào một buổi sáng đẹp trời, máy bay từ phi cảng Logan, chở đến đảo hai người đàn ông đúng vào giờ ăn sáng, đó là Merv và Stanley.
Họ có vẻ như hai vai hề của một đoàn hí kịch đi hát rong với những chiếc mũ phớt và các vali mà họ giữ kè kè bên mình trong khi ăn sáng. Sau đó, họ để vali ấy rất cẩn thận xuống sàn nhà sơn đỏ của phòng bida.
Tóc hớt ngắn và uốn quăn, Merv giống như một con cừu vừa mới hớt lông. Stanley có hai bắp chân cong vòng, và có cài một phù hiệu nơi ve áo.
Lúc tất cả chúng tôi tụ tập trong phòng của Barley để xúi giục, ông ta chấp nhận cuộc trắc nghiệm. Sheriton đã nói với ông ta:
- Ông Brown, ông sẽ có thể là Chúa Giêsu hay là một anh đánh máy lương tháng một ngàn rưỡi đô-la. Đây là một trò ma giáo để buộc người ta xưng tội. Nếu ông không chấp nhận, sự nghiệp của ông coi như tiêu ma.
Clive lên tiếng:
- Nếu ông Brown chẳng có gì phải giấu giếm, thì theo tôi, vì sao ông ta phải lo ngại?
- Ned, ông nghĩ như thế nào? - Barley hỏi.
- Barley, tùy ông chọn lựa, - Ned trả lời một cách lúng túng.
- Harry, ý kiến của ông thế nào? - Barley hỏi.
- Tùy ông quyết định, - Tôi đáp.
Barley nhìn đăm đăm ra đại dương qua cửa sổ, vẻ do dự của ông ta từ từ chuyển sang vẻ nhẫn nhục. Cuối cùng, ông ta nói:
- Tôi chấp nhận.
*
Stanley nói với Barley, giọng dịu dàng như bố nói với con:
- Ông Brown, trước hết tôi xin ông đừng có ác cảm với chúng tôi. Người hỏi cung ông không phải là kẻ thù mà là một viên chức công minh. Tất cả công việc là do máy móc đảm nhiệm. Xin ông vui lòng cởi áo vét ra. Cám ơn ông. Không cần xắn tay áo hay cởi nút áo sơmi. Xin ông cứ ngồi một cách thoải mái và thư giãn.
Trong lúc đó, Merv đeo vào cánh tay trái của Barley cái băng của chiếc máy đo áp lực động mạch. Ông ta bóp quả bom cao su, bơm hơi cho đến khi áp kế chỉ năm mươi milimet thủy ngân, trong lúc Stanley đeo một ống phế động ký bằng cao su chung quanh ngực của Barley, rồi một ống khác nơi phần bụng. Merv đeo một cái bao ngón tay bảo vệ một điện cực trên ngón tay giữa và ngón tay đeo nhẫn để ghi phản ứng tâm lý và sự thay đổi nhiệt độ của da.
Merv căn dặn:
- Ông Brown, chúng tôi yêu cầu ông ngồi yên, đừng cử động, dù là cử động rất chậm chạp. Một cử động nhỏ nhặt nào cũng có thể gây nên sự nhiễu loạn nghiêm trọng, bắt buộc chúng tôi phải làm lại cuộc trắc nghiệm và lặp lại các câu hỏi. Xin cảm ơn ông. Ông hãy hình dung một cái địa chấn ký: ông là vỏ địa cầu, và chúng tôi sắp ghi các địa chấn do ông gây nên. Ông sẽ chỉ trả lời có hay không, và ông hãy luôn luôn nói thật. Cứ sau mỗi lần hỏi xong tám câu hỏi, chúng tôi lại tạm nghỉ để nới lỏng cái băng tay để ông khỏi khó chịu, và trong thời gian ấy, chúng ta nói chuyện một cách thoải mái. Nhưng xin ông vui lòng đừng nóng nảy. Ông tên là Brown?
- Không.
- Ông có một tên khác không?
- Có.
- Ông Brown, có phải ông là người Anh hay không?
- Phải.
- Có phải ông đến đây bằng máy bay hay không?
- Phải.
- Có phải ông đến đây bằng tàu thủy hay không?
- Không.
- Ông Brown, ông có trả lời một cách thành thật các câu hỏi của tôi không?
- Có.
- Ông Brown, ông có định trả lời cũng một cách thành thật như thế cho đến kết thúc cuộc trắc nghiệm không?
- Có.
- Xin cám ơn, - Merv nói với một nụ cười dễ mến, trong lúc Stanley nới lỏng cái băng tay. - Bây giờ là những câu hỏi giải trí.
- Ông có vợ?
- Trong lúc này thì không.
- Có con?
- Hai đứa.
- Con trai hay con gái?
- Một trai và một gái.
- Bây giờ đến lượt các câu hỏi nghiêm chỉnh, - Merv vừa nói vừa bơm cho cái băng tay phồng lên.
- Tôi tham dự một cuộc âm mưu cung cấp những tin tức những sai lạc cho các cơ quan tình báo nước Anh và nước Mỹ. Có hay không?
- Không.
- Mục đích của tôi là khuyến khích hòa bình giữa các quốc gia với nhau? Có hay không?
- Không.
- Tôi cộng tác với cơ quan tình báo Liên Xô.
- Không.
- Tôi hãnh diện với nhiệm vụ của tôi nhân danh chủ nghĩa Cộng Sản Quốc Tế?
- Không.
- Tôi cộng tác với Niki Landau.
- Không.
- Niki Landau là tình nhân của tôi.
- Không.
- Trước kia anh là tình nhân của tôi.
- Không.
- Tôi là người đồng tính luyến ái.
- Không.
- Ông Brown, không đau đớn lắm chứ? - Stanley hỏi.
- Tôi thích chịu đau đớn.
- Tôi cộng tác với Katia Orlova và là tình nhân của cô ta.
- Không.
- Tôi biết người mà tôi gọi là Goethe, là một người làm việc cho Cơ quan tình báo Liên Xô.
- Không.
- Những tài liệu mà ông ta đã gửi cho tôi đều do cơ quan tình báo Liên Xô cung cấp.
- Không.
- Tôi là nạn nhân bị người ta bắt buộc phải làm theo ý muốn của họ bằng cách dọa sẽ phát giác những việc thầm kín của tôi.
- Không.
- Nạn nhân của một sự áp đảo tinh thần.
- Không.
- Nạn nhân bị ép buộc.
- Có.
- Từ phía Liên Xô.
- Không.
- Tôi bị đe dọa phá sản nếu tôi không cộng tác với người Nga.
- Không.
Lại tạm nghỉ. Hiệp ba. Đến lượt Merv hỏi.
- Tôi đã nói dối khi nói đã gọi điện thoại cho Katia Orlova từ Leningrad.
- Không.
- Tôi đã gọi điện thoại cho sĩ quan tình báo Liên Xô mà tôi có nhiệm vụ phải tiếp xúc để báo cáo cuộc nói chuyện của tôi với Goethe.
- Không.
- Tôi là tình nhân của Katia Orlova.
- Không.
- Trước kia tôi đã là tình nhân của cô ta.
- Không.
- Tôi là nạn nhân bị người ta buộc làm theo ý muốn của họ và đã giao du với Katia Orlova.
- Không.
- Tôi đã nói sự thật trong suốt cuộc hỏi cung, phải không?
- Phải.
- Tôi là một kẻ thù của nước Mỹ.
- Không.
- Mục đích của tôi là phá hủy cách phòng thủ của nước Mỹ.
- Không.
Đến đây cuộc trắc nghiệm kết thúc.
*
Chúng tôi phải chờ đợi ba ngày và tóc tôi đã bạc thêm mấy sợi. Chúng tôi đã phân công mỗi người làm nhiệm vụ của mình tùy theo sự quan trọng của chức vụ mình giữ: Sheriton đi Langley với Bob và Clive, Ned ở lại đảo với Barley và tôi. Barley đã trở nên lãnh đạm, như mất hết khí vị hoạt kê. Tính kiêu hãnh của ông ta đã bị tổn thương.
Thế là chúng tôi chờ đợi. Chúng tôi chơi cờ một cách lơ đễnh, ít khi chơi hết ván cờ. Chúng tôi nghe Randy nói về chiếc du thuyền của ông ta. Chúng tôi đợi tiếng chuông điện thoại.
Mười hai giờ trưa ngày thứ ba, trong lúc tôi đang đọc tờ Washington Post, thì nghe tiếng Randy bảo các nhân viên bảo vệ báo ngay cho Ned rằng có người đang muốn gặp ông ta qua điện thoại. Tôi xoay người lui thì thấy Ned đang từ ngoài vườn đi tới, băng qua tiền sảnh và đi vào phòng điện thoại. Ngước mắt lên, tôi thấy bóng dáng bất động của Barley nơi bậc đầu cầu thang có cửa sổ cuốn vòng bán nguyệt trông ra biển.
Đứng quay lưng lại, hai chân hơi dang ra một chút, một tay cầm một quyển sách, tay kia đưa lên ngang đầu như một cử chỉ tự vệ, Barley nhìn đại dương. Chắc chắn ông ta nghe được tất cả những gì đã xảy ra: những tiếng thét của Randy, những bước chân vội vã của Ned trong tiền sảnh, và tiếng của cánh cửa đóng sập lại nhau sau khi Ned bước vào. Tôi nghe tiếng chân của Ned từ trong phòng điện thoại đi ra, bước lên vài bậc thang và đứng lại.
- Harry, Barley ở đâu?
- Ở đây, - Barley trả lời một cách điềm tĩnh.
- Họ bật đèn xanh cho ông đó! - Ned la to lên, phấn khởi như một đứa trẻ. - Họ ngỏ lời xin lỗi ông. Tôi đã nói chuyện với Bob, Clive và Haggarty. Tin chính thức! Họ tin Goethe một trăm phần trăm. Họ đã quyết định một cách dứt khoát rồi. Ông đã vượt qua được tất cả các rào cản rồi!
Bây giờ Ned đã quen với những lúc đăm chiêu, xa vắng của Barley, đáng lẽ không nên lấy làm ngạc nhiên về thái độ thờ ơ của ông ta. Barley vẫn đăm đăm nhìn biển cả. Có thể ông ta chợt thấy một chiếc thuyền nhỏ bị đắm chăng? Điều đó xảy ra với mọi người ở đây. Nếu người ta nhìn kỹ biển cả, ở ngoài khơi bang Maine, cuối cùng rồi người ta luôn luôn thấy một mảnh buồm, một mảnh vỏ tàu, một cái đầu của một người bị đắm tàu, hay một bàn tay giơ lên cầu cứu, để rồi chìm lỉm dưới các đợt sóng không còn trồi lên nữa. Phải thời gian sau mới ý thức được rằng thật sự đó là những con cò trắng và những con chim cốc bói cá.
Nhưng Ned trong lúc bồng bột, cảm thấy khó chịu vì sự thờ ơ của Barley.
- Barley, ông lại trở qua Matxcơva! Đó là điều ông mong muốn không phải sao? Hãy đi cho đến tận cùng của công việc này.
Đến lúc ấy, Barley mới ý thức được rằng mình đã làm mất lòng Ned, nên mới quay người lại để mỉm cười với ông ta.
- Vâng, ông bạn thân mến, đó đúng là những gì tôi ao ước.
Chú thích
(1) West Point: Trường đào tạo sĩ quan bộ binh và không quân Mỹ - ND.