Dịp may ưu ái những ai can đảm

Publius Terence

 
 
 
 
 
Tác giả: Suzanne Collins
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Hunger Games
Dịch giả: Trần Quốc Tân
Biên tập: Gió
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 27
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6238 / 342
Cập nhật: 2017-05-19 13:22:41 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15
ôi rơi vào một cơn ác mộng mà tôi tỉnh giấc mấy lần để rồi chỉ thấy một nỗi kinh hoàng lớn hơn đang chờ đợi mình. Tất cả những thứ mà tôi sợ nhất, tất cả những điều mà tôi lo sợ cho những người khác đều hiện lên một cách sống động, rõ nét khiến tôi không thể không tin chúng là thật. Mỗi lần tỉnh lại, tôi nghĩ, Cuối cùng, nó cũng kết thúc, nhưng nó không kết thúc. Nó chỉ là sự bắt đầu cho một Chương mới của cuộc tra tấn. Có bao nhiêu cách tôi có thể nhìn Prim chết? Tái hiện lại những giây phút cuối cùng của cha tôi? Cảm thấy cơ thể của chính mình bị xé nát? Đây là bản chất nọc độc của tracker jacker, được tạo ra chuyên để nhắm vào những nơi mà nỗi sợ hãi tồn tại trong đầu bạn.
Khi tôi cuối cùng đã có thể lấy lại tri giác, tôi vẫn nằm im, chờ đợi những hình ảnh tiếp theo tấn công. Nhưng sau cùng tôi cũng nhận thức rằng chất độc cuối cùng cũng phát tác hết công dụng, bỏ lại tôi với cơ thể tàn tạ và yếu ớt. Tôi vẫn đang nằm nghiêng về một bên, bất động trong tư thế của một bào thai. Tôi nâng một bàn tay lên mắt để nhận ra rằng chúng vẫn an toàn, không bị những con kiến không hề tồn tại bò vào. Chỉ đơn giản duỗi tay chân ra cũng đòi hỏi một nỗ lực lớn lao. Quá nhiều phần cơ thể đau đớn, nó dường như không đáng để giữ lại chúng. Rất, rất chậm, tôi cố gắng ngồi dậy. Tôi ở trong một cái hố nông, không chứa đầy những bong bóng màu cam kêu vo ve như trong ảo giác của tôi nhưng với nhiều lá cây già úa. Quần áo tôi ẩm ướt, nhưng tôi không biết nước bùn, sương, mưa hay mồ hôi gây ra. Trong một lúc lâu, tất cả điều tôi có thể làm là nhấp những ngụm nước nhỏ từ bình nước và nhìn một con bọ cánh cứng bò lên một bên của bụi cây kim ngân.
Tôi đã hôn mê bao lâu rồi? Lúc tôi mất đi ý thức là vào buổi sáng. Bây giờ là buổi chiều. Nhưng sự cứng nhắc ở các khớp xương cho thấy phải hơn một ngày đã trôi qua, thậm chí có thể là hai ngày. Nếu vậy, tôi sẽ không cách nào biết được cống phẩm nào sống sót khỏi vụ tấn công của ong tracker jacker đó. Không phải Glimmer hay cô gái đến từ Đặc khu 4. Nhưng còn có tên con trai từ Đặc khu 1, cả hai cống phẩm từ Đặc khu 2, và Peeta. Họ có chết vì các vết ong đốt không? Chắc chắn nếu họ còn sống, những ngày vừa qua của họ cũng phải kinh khủng như của tôi. Và còn Rue thì sao? Cô bé rất nhỏ nhắn, không cần nhiều nọc độc cũng khiến cô bé nguy khốn. Nhưng rồi một lần nữa… những con ong tracker jacker không thể đuổi theo cô bé được và cô bé đã rời đi từ trước rồi.
Mùi vị thối rữa tràn ngập trong miệng tôi và nước đã có một chút tác dụng với nó. Tôi lê người về phía bụi cây kim ngân và giất một bong hoa. Tôi nhẹ nhàng kéo nhị hoa ra khỏi bông hoa và cho các giọt mật hoa chảy vào lưỡi. Mật ngọt khuếch tán trong miệng, thấm xuống họng tôi, làm ấm huyết quản với những kỷ niệm về mùa hè, và về khu rừng ở quê nhà với sự hiện diện của Gale bên cạnh tôi. Vì một lý đo nào đó, cuộc nói chuyện của chúng tôi trong buổi sáng cuối cùng đó ùa về.
“Chúng ta có thể làm điều đó, em biết đấy.”
“Điều gì?”
“Rời khỏi đặc khu. Chạy trốn. Sống ở trong rừng. Em và anh, chúng ta có thể làm được.”
Và đột nhiên, tôi không phải đang nghĩ đến Gale mà là Peeta và… Peeta! Cậu ấy đã cứu tôi! Tôi nghĩ. Bởi vì lúc mà chúng tôi chạm mặt, tôi không thể phân biệt được đâu là thật và đâu là những ảo giác do nọc độc của ong tracker jacker gây ra. Nhưng nếu cậu ấy đã làm vậy, và những bản năng trong tôi mách bảo rằng cậu ấy đã làm, thì đó là vì cái gì? Có phải cậu ấy chỉ đơn giản là đang diễn vai Chàng trai đang yêu mà cậu ấy đã bắt đầu từ buổi phỏng vấn không? Hay cậu ấy đang thực sự cố gắng bảo vệ tôi? Và nếu đúng là vậy, thì lúc đầu cậu ấy đã định làm gì với những Cống phẩm Chuyên nghiệp kia? Tôi không thể hiểu được điều gì cả.
Trong một thoáng tôi tự hỏi Gale sẽ lý giải tình huống này là gì và rồi tôi đẩy mọi thứ ra khỏi đầu mình bởi vì có một lý do nào đó khiến Gale và Peeta không thể cùng tồn tại trong suy nghĩ của tôi.
Do đó, tôi tập trung vào một việc tốt đẹp duy nhất đã xảy ra kể từ khi tôi vào đấu trường. Tôi có một cây cung và các mũi tên! Một bộ đầy đủ mười hai mũi tên nếu bạn tính cả chiếc tôi lấy được ở trên cây. Chúng không có chút dấu vết nào của thứ chất lỏng màu xanh nhớt nhát, độc hại chảy ra từ thi thể Glimmer – điều này khiến tôi tin rằng điều đó có lẽ hoàn toàn không có thực. – nhưng chúng có dính một lượng máu khô. Tôi có thể rửa chúng đi sau, nhưng tôi dùng một phút để bắn vài mũi tên vào một cái cây gần mình. Chúng có vẻ giống những vũ khí ở Trung tâm Huấn luyện hơn là những cái tôi dùng ở nhà, nhưng ai thèm quan tâm chứ? Chỉ cần tôi có thể sử dụng chúng.
Vũ khí này đã cho tôi một triển vọng hoàn toàn mới trong Trò chơi. Tôi biết tôi vẫn còn phải đối mặt với nhiều đối thủ nguy hiểm khác. Nhưng tôi không còn đơn thuần chỉ là một con mồi, chỉ biết bỏ chạy, lẩn trốn, chấp nhận áp dụng những biện pháp liều lĩnh. Nếu Cato xông đến đây ngay lúc này, tôi sẽ không chạy biến đi, mà sẽ bắn. Tôi nhận thấy tôi đang thực sự tưởng tượng ra khoảnh khắc đó với cảm giác thích thú.
Nhưng trước hết, tôi phải lấy lại sức lực cho cơ thể mình. Tôi lại bị mất nước nghiêm trọng và lượng nước dự trữ của tôi đang ít đến mức báo động. Chút trọng lượng mà tôi đã tăng lên bằng cách nhồi nhét thức ăn trong thời gian chuẩn bị ở Capitol đã ra đi cùng với vài pound nữa. Xương hông và xương sườn của tôi đã nhô lên hơn những gì tôi nhớ về chúng trong những tháng tồi tệ sau cái chết của cha tôi. Và còn những vết thương mà tôi phải chiến đấu với chúng – các vết bỏng, vết cắt, vết thâm tím do đập vào cây, và ba vết chích của ong tracker jacker, tất cả đều đau đớn, sưng tấy như trước. Tôi dùng thuốc mỡ bôi lên vết bỏng, và cũng thử chấm một ít vào vết ong đốt, nhưng nó không có tác dụng với chúng. Mẹ tôi biết một cách để chữa chúng, một loại lá nào đó có thể hút được chất độc ra, nhưng bà hiếm khi có lý do để dùng đến nó, và tôi thậm chí còn không nhớ được tên nó là gì nữa là hình dáng của nó.
Nước trước, tôi nghĩ. Bây giờ mày có thể săn bắn dọc đường rồi. Thật dễ dàng nhận ra phương hướng mà từ đó tôi đã đến đây dựa vào dấu vết ngả nghiêng của cây lá do cơ thể chao đảo tôi gây ra khi len qua chúng. Vì vậy tôi đi về hướng khác, hi vọng kẻ thù của mình vẫn đắm chìm trong thế giới kỳ quái của nọc độc tracker jacker tạo ra.
Tôi không thể di chuyển quá nhanh, các khớp xương của tôi từ chối bất kỳ loại vận động đột ngột nào. Nhưng tôi thiết lập một cách đi chậm của thợ săn mà tôi vẫn thường sử dụng khi lần theo dấu vết các con thú. Trong vòng vài phút, tôi phát hiện ra một con thỏ và giết được con thú đầu tiên bằng cung tên. Nó không phải phát bắn trơn tru vào mắt như mọi khi, nhưng tôi sẽ chấp nhận nó. Sau khoảng một tiếng đồng hồ, tôi tìm thấy một dòng suối, nông nhưng rộng và thừa đủ cho nhu cầu của tôi. Mặt trời vẫn nóng bức và gay gắt, nên trong lúc đợi nước uống của tôi được lọc sạch, tôi cởi quần áo, chỉ còn mặc đồ lót và lội xuống dòng nước êm dịu. Tôi bẩn thỉu từ đầu tới chân, tôi thử kì cọ mình nhưng rốt cuộc chỉ nằm im trong nước một vài phút để nước làm trôi sạch các vết nhọ nhem, máu và những chỗ da đang bắt đầu tróc ra khỏi các vết bỏng. Sau khi giũ quần áo và phơi chúng lên các bụi cây cho khô, tôi ngồi bên bờ suối đắm mình trong ánh nắng mặt trời một lát, gỡ mái tóc rối của mình bằng các ngón tay. Tôi thấy thèm ăn trở lại và ăn một cái bánh với một miếng thịt bò. Tôi dùng một nhúm rêu để gột sạch vết máu ra khỏi những vũ khí màu bạc của mình.
Khi đã sạch sẽ, tôi lại bôi thuốc cho vết bỏng, tết lại tóc, và mặc lại bộ quần áo ẩm ướt, biết rằng mặt trời sẽ nhanh chóng sấy khô chúng. Đi dọc theo dòng suối về phía nguồn của nó có vẻ là hành động khôn ngoan nhất. Lúc này tôi đang đi lên đồi, điều mà tôi thích hơn, với một nguồn nước sạch không chỉ cho tôi mà có lẽ còn cho các con thú nữa. Tôi dễ dàng nhận ra một con chim lạ mà chắc phải là một dạng nào đó thuộc loài gà rừng. Dù sao đối với tôi, trông nó có vẻ là ăn được. Vào lúc chiều muộn, tôi quyết định nhóm một đống lửa nhỏ để nướng thịt, cá rằng trời nhá nhem tối sẽ giúp tôi che dấu khói và tôi có thể dập tắt lửa khi đêm xuống. Tôi làm sạch con thú, xem xét kĩ càng hơn đối với con chim, nhưng không có dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm nào về nó. Sau khi nhổ lông, nó không to hơn một con gà, nhưng nó béo tròn và chắc nịch. Tôi vừa mới đặt miếng đầu tiên lên than khi tôi nghe thấy tiếng gãy của cành cây nhỏ.
Theo phản xạ, tôi quay về phía có tiếng động, cầm cung và mũi tên đặt lên vai. Không có ai ở đó. Dù sao đi nữa tôi cũng không thể nhìn thấy ai. Sau đó tôi phát hiện ra đầu một chiếc giày trẻ con nhô ra đằng sau một gốc cây. Vai tôi thả lỏng và tôi tươi cười. Cô bé có thể di chuyển len lỏi trong rừng như một cái bóng, bạn phải nhận xét về cô bé như vậy. Làm cách nào khác cô bé có thể đi theo tôi được cơ chứ? Lời nói buột ra khỏi miệng tôi trước khi tôi có thể ngăn lại.
“Em biết đấy, bọn chúng không phải là những người duy nhất có thể thiết lập liên minh,” tôi lên tiếng.
Trong một lúc, không có phản hồi. Sau đó, một mắt của Rue hé ra khỏi gốc cây. “Chị muốn em thành đồng minh à?”
“Tại sao không? Em đã cứu chị bằng những con ong tracker jacker đó. Em đủ thông minh để vẫn còn sống sót. Và dù sao thì chị cũng không thể thoát khỏi em được,” tôi nói. Cô bé chớp mắt nhìn tôi, cố gắng quyết định. “Em đói không?” Tôi có thể thấy cô bé đang nuốt nước miếng, hai mắt long lanh nhìn miếng thịt. “Vậy thì đến đây. Hôm nay chị bắn được đến hai con thú cơ.”
Rue ngập ngừng bước ra khỏi gốc cây. “Em có thể chữa vết ong đốt của chị.”
“Em có thể ư?” tôi hỏi. “Làm thế nào?”
Cô bé đút tay vào chiếc túi em đang đeo và lấy ra một nhúm lá cây. Tôi gần như chắc chắn chúng là những chiếc lá mẹ tôi dùng. “Em tìm thấy chúng ở đâu vậy?”
“Chỉ quanh đây thôi. Tất cả chúng em đều mang theo chúng khi chúng em làm việc trong vườn cây ăn quả. Bọn họ bỏ lại rất nhiều tổ ong ở đó,” Rue trả lời. “Cũng có rất nhiều ở đây nữa.”
“Đúng rồi. Em ở Đặc khu 11. Nông nghiệp,” tôi nói. “Vườn cây ăn quả à? Chắc chắn đó là nguyên nhân em có thể bay quanh những cái cây giống như em có cánh vậy.” Rue mỉm cười. Tôi đã đề cập đến một trong vài thứ ít ỏi mà cô bé sẽ đặt lòng kiêu hãnh của mình ở đó. “Nào, đến đây. Chữa cho chị đi.”
Tôi ngồi phịch xuống bên đống lửa và cuộn ống quần lên để lộ ra vết ong đốt ở đầu gối. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Rue cho một ít lá vào miệng và bắt đầu nhai chúng. Mẹ tôi đã dùng những phương pháp khác nhưng có vẻ như chúng tôi không có nhiều sự lựa chọn. Sau một phút hoặc khoảng đó, Rue ấn chỗ bã lá trộn lẫn nước bọt vừa nhai đó vào đầu gối tôi.
“Ôiii.” Tiếng rên buột ra khỏi miệng trước khi tôi có thể ngăn lại. Nó như thể những chiếc lá đang thực sự loại bỏ nỗi nhức nhối khỏi vết ong đốt ngay tức khắc.
Rue cười khúc khích. “May mà chị biết để lôi ngòi ong ra, nếu không chị sẽ còn bị nặng hơn nhiều.”
“Đắp lên cổ chị! Má chị nữa!” tôi gần như cầu xin.
Rue nhét một nhúm lá khác vào miệng và ngay sau đó tôi bật cười bởi tác dụng giảm đau thật tuyệt vời. Tôi nhìn ra vết bỏng dài trên cẳng tay Rue. “Chị có một thứ cho vết thương đó.” Tôi đặt vũ khí sang bên cạnh và chữa trị cánh tay của cô bé bằng thuốc trị vết bỏng.
“Chị có những nhà tài trợ thật tốt,” cô bé nói đầy thiết tha.
“Em đã nhận được gì chưa?” tôi hỏi. Cô bé lắc đầu. “Dù sao em cũng sẽ sớm nhận được thôi. Hãy chờ xem. Chúng ta càng tiến gần đến cuối, càng nhiều người sẽ nhận ra em thông minh đến nhường nào.” Tôi lật miếng thịt nướng.
“Chị không nói đùa chứ, về việc muốn em trở thành đồng minh ấy?” cô bé hỏi.
“Không, chị nói thật đấy,” tôi trả lời. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng lầm bầm chửi rủa Haymitch khi tôi lập nhóm với đứa trẻ mỏng manh này. Nhưng tôi muốn cô bé. Bởi vì cô bé là một người sống sót, và tôi tin em, và tại sao tôi lại không thừa nhận điều đó chứ? Cô bé gợi cho tôi nhớ tới Prim.
“Được thôi,” cô bé nói, và chìa tay ra. Chúng tôi bắt tay nhau. “Đã thỏa thuận.”
Tất nhiên, loại thỏa thuận này chỉ là tạm thời, nhưng không ai trong chúng tôi đề cập đến điều đó.
Rue đóng góp một lượng lớn các loại củ giàu tinh bột cho bữa ăn. Nướng chúng trên đống lửa, chúng có vị ngọt sắc của củ cải vàng. Cô bé cũng nhận ra con chim lạ tôi bắt được, một loại chim rừng mà họ gọi là groosling ở đặc khu của em. Cô bé nói thỉnh thoảng có một đàn đi tha thẩn trong vườn trái cây và họ sẽ có một bữa ăn tươm tất vào ngày hôm đó. Trong một lúc, tất cả cuộc đối thoại của chúng tôi dừng lại khi chúng tôi lấp đầy dạ dày mình. Con groosling đã cho một bữa ăn ngon lành, nhiều chất béo, mỡ chảy xuống mặt bạn khi bạn cắn vào nó.
“Ôi,” Rue rên lên với một tiếng thở dài. “Trước đây em chưa bao giờ được ăn cả một cái đùi.” Tôi cá là cô bé chưa từng. Tôi cũng cá rằng thịt hầu như không bao giờ xuất hiện trong cuộc đời em. “Ăn cả chiếc kia đi,” tôi nói.
“Thật ạ?” cô bé hỏi.
“Ăn bất cứ thứ gì em muốn. Bây giờ chị đã có cung và các mũi tên, chị có thể săn được nữa. Thêm vào đó chị còn đặt bẫy nữa. Chị sẽ chỉ cho em làm thế nào để làm chúng,” tôi nói. Rue vẫn do dự nhìn cái chân. “Ồ, ăn đi,” tôi giục, đặt chiếc đùi vào tay em. “Dù sao nó cũng chỉ để được ít ngày, và chúng ta thì có cả một con chim cùng với một con thỏ.” Ngay khi cô bé cầm lấy nó, sự thèm thuồng đã chiến thắng và em cắn một miếng to.
“Chị đã nghĩ, ở Đặc khu 11, bọn em phải có nhiều thức ăn hơn bọn chị một chút. Em biết đấy, vì bọn em trồng thực phẩm mà,” tôi nói.
Mắt Rue mở to. “Ồ, không, bọn em không được phép ăn các thực phẩm được thu hoạch.”
“Họ sẽ bắt giữ bọn em hay làm gì?” tôi hỏi.
“Họ sẽ dùng roi da đánh chị và bắt mọi người đứng xem,” Rue trả lời. “Ngài thị trưởng rất nghiêm khắc về việc này.”
Qua biểu hiện của cô bé, có thể thấy rằng đó không phải là sự kiện hiếm khi xảy ra. Việc trừng phạt bằng roi da công khai là một việc hiếm hoi ở Đặc khu 12, mặc dù đôi khi cũng có. Theo pháp luật thì Gale và tôi có thể ngày nào cũng bị trừng phạt bằng roi da về việc xâm nhập rừng trái phép – ừ thì, đúng ra, chúng tôi có thể phải chịu một đống những điều tồi tệ nhất – ngoại trừ việc tất cả các quan chức đều mua thịt của chúng tôi. Bên cạnh đó, ngài thị trưởng của chúng tôi, cha của Madge, có vẻ không thích những sự kiện kiểu đó. Có lẽ, là một đặc khu ít thanh thế nhất, nghèo đói nhất, thường bị chế nhạo nhất cả nước cũng có ưu điểm của nó. Chẳng hạn, chúng tôi hầu như được Capitol lờ đi chừng nào chúng tôi còn cung cấp đủ hạn ngạch than.
“Bọn chị có bao giờ có đủ lượng than mình cần dùng không?” Rue hỏi.
“Không,” tôi trả lời. “Chỉ những gì bọn chị mua được và bất cứ cái gì có thể giấu được trong bốt thôi.”
“Họ chỉ cho bọn em nhiều thức ăn hơn chút xíu trong thời gian thu hoạch mùa vụ, để cho mọi người có thể làm việc lâu hơn,” Rue kể.
“Các em không phải đến trường à?” tôi hỏi.
“Trong thời gian thu hoạch thì không. Lúc đó tất cả mọi người đều phải làm việc,” Rue trả lời.
Thật thú vị khi nghe về cuộc sống của cô bé. Chúng tôi gần như chẳng bao giờ nói chuyện với bất cứ ai ngoài đặc khu của mình. Thực tế, tôi tự hỏi liệu có phải các Nhà thiết lập Trò chơi đang ngắt tiếng cuộc đối thoại của chúng tôi hay không, bởi mặc dù các thông tin này có vẻ vô hại, họ vẫn không muốn người ở các đặc khu khác nhau biết về nhau.
Theo ý kiến của Rue, chúng tôi lấy ra tất cả thực phẩm để lên kế hoạch cho thời gian tới. Cô bé đã nhìn thấy hầu hết thức ăn của tôi, nhưng tôi cho thêm hai chiếc bánh quy và mấy miếng thịt bò cuối cùng vào đống thức ăn đó. Cô bé thu thập được hẳn một đống củ rễ, hạt, rau xanh, và thậm chí cả dâu rừng.
Tôi vân vê một quả dâu lạ mắt trong các ngón tay mình. “Em chắc là nó an toàn chứ?”
“Ồ, vâng, chúng em có loại dâu này ở quê nhà mà. Em đã ăn chúng nhiều ngày nay rồi,” cô bé nói, ném một vài quả vào miệng. Tôi dè dặt cắn một quả, và vị nó cũng ngon như những quả dâu mâm xôi của chúng tôi. Nhận Rue làm đồng minh có vẻ là lựa chọn tốt hơn bao giờ hết. Chúng tôi phân chia số thực phẩm của mình, để trong trường hợp chúng tôi tách ra, cả hai chúng tôi sẽ vẫn có thể duy trì được vài ngày. Ngoài thực phẩm, Rue có một túi da đựng nước nhỏ, một súng cao su tự chế, và có thêm một đôi tất. Cô bé cũng có một mảnh đá sắc dùng để làm dao. “Em biết nó không nhiều lắm,” cô bé nói có vẻ xấu hổ, “nhưng em phải nhanh chóng rời khỏi Cornucopia.”
“Em đã làm đúng,” tôi nói. Khi tôi bày đồ đạc của mình ra, cô bé há hốc miệng một chút khi nhìn thấy cặp kính râm của tôi.
“Làm thế nào chị có được chúng vậy?” em hỏi.
“Trong ba lô của chị. Cho đến giờ thì chúng vẫn không có công dụng gì. Chúng không ngăn được ánh mặt trời và chúng còn làm cản trở thị lực,” tôi nói với một cái nhún vai.
“Chúng không phải kính râm, chúng là kính dùng ban đêm,” Rue kêu lên. “Đôi lúc, khi chúng em phải thu hoạch suốt đêm, người ta phát vài đôi kính này cho những người phải trèo lên cây cao nhất. Những chỗ mà ánh đuốc không thể chiếu sáng tới được. Một lần, một bạn nam tên Martin đã cố gắng giữ lại đôi kính của mình. Giấu nó trong quần cậu ấy. Họ đã giết cậu ấy khi phát hiện ra.”
“Họ đã giết một cậu bé chỉ vì lấy cái này ư?” tôi kêu lên.
“Vâng, và tất cả mọi người đều biết cậu ấy không gây nguy hiểm gì. Martin có vấn đề về đầu óc. Ý em là, cậu ấy vẫn hành động giống như một đứa trẻ ba tuổi. Cậu ấy chỉ muốn chiếc kính đó để chơi,” Rue kể.
Nghe điều này khiến tôi cảm thấy Đặc khu 12 có vẻ là một thiên đường an toàn. Tất nhiên, người ta vẫn luôn bất ngờ đổ gục vì đói, nhưng tôi không thể tưởng tượng được những Người giữ trị an lại đi giết một đứa trẻ đầu óc đơn giản. Có một cô gái nhỏ, một trong những đứa cháu của bà Greasy Sae, thường đi lang thang quanh Hob. Cô bé đó đầu óc không tốt, nhưng cô bé được đối xử như một loại thú nuôi, người ta ném cho cô bé những đồ thừa hoặc đồ vứt đi.
“Vậy cái kính này có công dụng thế nào?” tôi hỏi Rue, cầm lấy chiếc kính.
“Chúng giúp chị nhìn được trong bóng tối,” Rue đáp. “Hãy thử chúng tối nay, khi mặt trời lặn.”
Tôi đưa Rue một ít diêm và cô bé thì đảm bảo rằng tôi có một đống lá trong trường hợp vết ong đốt của tôi lại nhức nhối. Chúng tôi dập lửa và hướng về đầu nguồn suối cho đến khi gần như màn đêm đã buông xuống.
“Em ngủ ở đâu?” tôi hỏi cô bé. “Ở trên cây à?” Em gật đầu. “Chỉ với chiếc áo khoác của em thôi à?”
Rue giơ lên đôi tất thừa ra của mình. “Em có cái này để đeo vào tay.”
Tôi nghĩ về những đêm lạnh lẽo ở đây. “Em có thể dùng chung túi ngủ với chị nếu em muốn. Cả hai chúng ta dễ dàng vừa trong đó.” Khuôn mặt cô bé sáng bừng lên. Tôi có thể nói rằng điều nảy còn hơn những gì cô bé mong đợi.
Chúng tôi chọn một cái chạc cây cao và nghỉ đêm ở đó ngay khi bài quốc ca bắt đầu vang lên. Không có cái chết nào trong ngày hôm nay.
“Rue, hôm nay chị mới tỉnh lại. Chị đã bỏ lỡ mấy đêm rồi?” Bản nhạc quốc ca sẽ át đi tiếng nói của chúng tôi, nhưng tôi vẫn thì thầm. Tôi thậm chí còn đề phòng lấy tay che lên miệng. Tôi không muốn khán giả biết những điều tôi định kể với cô bé về Peeta. Nhận được ám hiệu từ tôi, cô bé cũng làm theo như vậy.
“Hai,” em trả lời. “Hai chị từ Đặc khu 1 và 4 đã chết. Chỉ còn lại mười người chúng ta.”
“Một điều gì kỳ lạ đã xảy ra. Ít nhất, chị nghĩ nó đã xảy ra. Cũng có thể nọc độc của tracker jacker đã khiến chị tưởng tượng ra những thứ đó,” tôi nói. “Em biết cái anh đến từ đặc khu của chị chứ? Peeta ấy? Chị nghĩ anh ấy đã cứu chị. Nhưng anh ấy đã từng đi cùng bọn Chuyên nghiệp.”
“Bây giờ anh ấy không đi cùng họ nữa,” cô bé nói. “Em đã bí mật theo dõi chỗ họ cắm trại ở gần hồ. Họ đã quay trở lại đó trước khi họ gục ngã bởi những vết ong đốt. Nhưng anh ấy không ở đó. Có lẽ anh ấy đã cứu chị và phải chạy trốn.”
Tôi không trả lời. Nếu, thực sự, Peeta đã cứu tôi thì tôi lại mắc nợ cậu ấy một lần nữa. Và món nợ này không thể trả được. “Nếu anh ấy đã làm vậy, có lẽ tất cả chỉ là một phần trong vở kịch của cậu ấy. Em biết đấy, để làm mọi người nghĩ rằng anh ấy đang yêu chị.”
“Ồ,” Rue có vẻ suy ngẫm. “Em không nghĩ đó là diễn kịch.”
“Dĩ nhiên đó chỉ là đóng kich,” tôi khẳng định. “Cậu ấy đã đạo diễn nó cùng với cố vấn của bọn chị.” Bản nhạc quốc ca kết thúc và bầu trời tối đen lại. “Nào, hãy thử chiếc kính này thôi.” Tôi lôi cái kính ra và đeo nó vào. Rue đã không nói đùa. Tôi có thể nhìn rõ mọi thứ, từ những chiếc lá trên cây đến một con chồn hôi đang đi thơ thẩn xuyên qua các bụi rậm trong khoảng năm mươi feet. Tôi có thể giết nó từ chỗ này nếu tôi muốn. Tôi có thể giết bất cứ ai.
“Chị tự hỏi còn ai khác có cái kính này không,” tôi nói.
“Nhóm Chuyên nghiệp có hai chiếc. Nhưng họ đã có mọi thứ ở gần hồ nước rồi,” Rue nói. “Và họ còn rất mạnh nữa.”
“Chúng ta cũng mạnh mà,” tôi nói. “Chỉ là mạnh theo cách khác thôi.”
“Chị rất mạnh. Chị có thể bắn cung,” cô bé nói. “Em thì có thể làm gì chứ?”
“Em có thể tự kiếm thức ăn cho mình. Họ có thể không?” tôi hỏi.
“Họ không cần phải làm vậy. Họ đã có những hàng hóa đó rồi,” Rue trả lời.
“Nếu như họ không có thì sao. Nếu như những hàng hóa đó biến mất. Họ có thể sống được bao lâu chứ?” tôi nói. “Ý chị là, đây là trò chơi về sự đói khát mà, đúng không?”
“Nhưng chị Katniss à, bọn họ không phải chịu đói,” Rue nhắc tôi.
“Đúng, chúng không đói. Đó chính là vấn đề,” tôi đồng ý. Và lần đầu tiên, tôi có một kế hoạch. Một kế hoạch mà không phải bị thúc ép bởi việc cần phải bỏ chạy và lẩn trốn. Một kế hoạch tấn công. “Chị nghĩ chúng ta cần phải sửa lại điều đó, Rue ạ.”
Đấu Trường Sinh Tử 1/3 Đấu Trường Sinh Tử 1/3 - Suzanne Collins Đấu Trường Sinh Tử 1/3