Người khôn ngoan nhất không phải là người gặt hái được nhiều thành công, mà là người biết biến thất bại thành những lợi thế nhất định.

Richard R. Grant

 
 
 
 
 
Tác giả: Selma Lagerlöf
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Nils Holgerssons Underbara Resa Genom Sverige
Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 43
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 174 / 13
Cập nhật: 2020-07-08 19:35:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15 - Lũ Quạ Khoang
hiếc hũ sa thạch
Ở góc tây nam tỉnh Småland là một huyện tên gọi Sonnerbo. Đất này khá bằng phẳng, ai trông thấy trong mùa đông, khi tuyết phủ cũng tưởng rằng dưới lớp tuyết là cánh đồng được cày bừa, những đồng lúa mạch xanh tốt và những đồng cỏ chẽ ba đã gặt. Nhưng mà khi tuyết tan, đầu tháng tư, thì những gì bị che dưới tuyết liền hiện ra, chỉ là những trảng cát khô cằn; những mỏm đá trơ trụi, và những đầm lầy mênh mông.
Dĩ nhiên là có một vài cánh đồng, nhưng khô xấu đến nỗi gần như chẳng ai trông thấy, cũng có những túp lều tranh nhỏ màu xám hay đỏ, nhưng thường là ẩn mình giữa những cụm bạch dương, như sợ phải lộ mặt ra ngoài. Nơi xã này giáp với tỉnh Halland có một trảng cát rộng, đến mức đứng đầu này không trông thấy đầu kia. Ở đấy cây thạch thảo ngự trị toàn quyền, trừ một đồi đá thấp lắm chạy qua giữa vùng, là có những cây đỗ tùng, cây thanh lương trà và cả mấy cây bạch dương cao đẹp. Vào cái thời mà Nils Holgersson đi theo đàn ngỗng trời, người ta cũng thấy ở đấy một túp nhà, xung quanh là một miếng đất vỡ hoang, nhưng những người sống ở đấy đã bỏ đi. Túp nhà ở lại trống không và miếng đất hoang phế.
Khi bỏ túp nhà, họ đã bịt ống khói lại, đóng kín các cửa sổ và cửa ra vào. Nhưng họ đã quên là có một ô kính cửa sổ bị vỡ, được bịt bằng một miếng giẻ. Sau vài năm, mưa đã làm cho miếng giẻ mục đi, và một hôm rơi xuống vì bị một con quạ mổ.
Thật ra, ngọn đồi đá ở giữa trảng không vắng vẻ chút nào như người ta có thể tưởng: cả một tộc đoàn quạ đông đúc ở đấy. Tất nhiên, quạ không ở đấy suốt cả năm. Mùa đông, chúng ra nước ngoài. Mùa thu chúng đến thăm tất cả các cánh đồng ở Gottland để ăn lúa mì. Mùa hạ chúng phân tán ra và sống quanh các ấp trại ở Sonnerbo, ăn trái cây, trứng và ngỗng con; nhưng mùa xuân nào chúng cũng quay về trảng này để làm tổ và nuôi con.
Con quạ đã giật miếng giẻ bịt cửa sổ nọ là một quạ đực đã già, tên là Garm Lông Trắng, nhưng người ta bao giờ cũng chỉ gọi nó là Fumle hay Drumle, hay hơn nữa là Fumle-Drumle[42] vì nó vụng về, lúc nào cũng làm những việc ngốc nghếch để bị chế giễu. Nó to hơn và khỏe hơn tất cả những con quạ khác, nhưng sức mạnh của nó chẳng giúp cho nó được việc gì cả. Nó vẫn là đối tượng cho mọi người trêu cợt. Ngay cả cái việc nó thuộc về một dòng dõi rất quý tộc cũng không che chở được cho nó. Cứ công bằng mà nói thì đáng lẽ nó phải là quạ đầu đàn, vì từ rất xưa, không ai nhớ là thuở nào, cái chức vị ấy bao giờ cũng thuộc về đứa con cả của dòng họ Lông Trắng. Nhưng từ trước khi Fumle-Drumle ra đời, họ đó đã để mất quyền thế, và bây giờ nắm quyền là một con quạ độc ác và dã man. Nó tên là Cuồng Phong. Việc triều đại thay đổi là do những con quạ đã bỏ lối sống cũ của mình. Có lẽ người ta tưởng rằng tất cả các con quạ đều sống một cách như nhau. Đó là một điều hiểu sai. Có những tộc đoàn quạ sống một cuộc đời lương thiện, nghĩa là chỉ ăn hạt cây cỏ, sâu bọ, ấu trùng và súc vật đã chết; nhưng có những giống khác sống một cuộc đời cướp bóc, bắt những thỏ con, chim non, và cướp phá tất cả những tổ chim trông thấy.
Những tộc trưởng già của dòng họ Lông Trắng xưa kia nghiêm khắc và ôn hòa; còn dẫn đạo cả đàn là còn buộc các con quạ khác phải ăn ở làm sao để khỏi bị các giống chim khác chê trách. Nhưng mà quạ thì đông và cảnh nghèo khổ lại trầm trọng quá, và chúng đã nổi dậy chống lại dòng Lông Trắng và trao quyền hành cho Cuồng Phong, là kẻ phá tổ bắt chim non tệ nhất, và là tên độc ác nhất mà người ta có thể gặp. Tuy nhiên, vẫn còn kém vợ nó là con Gió Lốc. Dưới triều đại của chúng, bọn quạ đã mở đầu một lối sống khiến cho chúng được sợ hãi và bị oán ghét hơn cả những con chim cắt và cú to. Tất nhiên là Fumle-Drumle chẳng có gì phải nói trong đàn cả. Tất cả quạ đều thống nhất để nói là nó chẳng giống gì cha ông nó, và sẽ chẳng bao giờ có thể làm thủ lĩnh được. Vả lại cũng chẳng ai nghĩ đến nó cả, nếu nó chẳng luôn luôn làm những việc ngốc nghếch. Có kẻ bảo rằng nó mà vụng về và ngu dại đến thế, âu là một điều may cho nó; nếu không thế thì con Cuồng Phong và vợ chắc đã chẳng giữ lại trong đàn một con cháu nào của gia đình thủ lĩnh cũ.
Bây giờ thì vợ chồng chúng đã khá tử tế với nó, và hay đem đi theo săn mồi. Những lúc ấy, tất cả đều được thấy vợ chồng chúng giỏi giang và táo bạo hơn nó biết bao nhiêu.
Không một con quạ nào lại ngờ rằng chính Fumle-Drumle đã rứt miếng giẻ ở cái cửa sổ; biết được điều đó, chắc chúng sẽ rất ngạc nhiên. Không một ai lại ngờ là nó to gan, đến gần chỗ ở của con người như thế. Chính nó cũng chẳng nói gì về chuyện ấy. Nó có lí do của nó. Con Cơn Lốc và Cuồng Phong vẫn cư xử tốt với nó ban ngày, và trước mắt những con quạ khác. Nhưng một đêm tối trời, sau khi tất cả những con quạ khác đều đã đậu trên cây để ngủ, nó đã bị hai con quạ tấn công và đánh gần chết. Sau vụ mưu sát đó, nó có thói quen là cứ đêm đến là rời chỗ cũ và đến ẩn trong túp nhà trống. Nhưng mà một buổi chiều mùa xuân, sau khi đã xếp đặt xong các tổ, đàn quạ phát hiện ra một việc lạ: Cuồng Phong và Cơn Lốc cùng hai con quạ khác, đã chúi xuống đáy một cái hố to trong một góc trảng. Đó chỉ là một mỏ cát, nhưng các con quạ không hiểu vì sao người ta đã đào ra. Tò mò, chúng cứ tới đấy lật đi lật lại không ngớt từng hạt cát. Bỗng cát sỏi lở ra và đổ xuống chúng nó như mưa. Giữa các tảng đá và túm cây thạch thảo đổ xuống ấy, chúng thấy một cái hũ to, có nắp gỗ đậy kín.
Chúng muốn biết trong hũ ấy đựng gì, nhưng cố mở hay dùng mỏ bổ vỡ ra đều vô ích.
Sững sờ, chúng nhìn cái hũ, thì có tiếng nói:
“Có muốn mình giúp một tay không, các bác quạ?”
Chúng ngẩng đầu lên. Bên miệng hố, một con cáo đang nhìn. Đó là một trong những con cáo có màu lông và dáng vóc đẹp nhất mà chúng chưa bao giờ được thấy. Nhược điểm duy nhất của nó là một tai bị sứt.
“Nếu anh muốn giúp, chúng tôi chẳng từ chối đâu.“Cuồng Phong vừa nói, vừa bay nhanh lên cùng cả bọn. Con cáo nhảy xuống đáy hố, cắn ngay chiếc hũ và kéo cái nắp để giật ra, nhưng cũng không tài nào mở được. “Anh có đoán được cái gì trong đó không?”, Cuồng Phong hỏi.
Con cáo lăn cái hũ và lắng nghe:
“Có lẽ chỉ là những đồng tiền bạc”, nó nói.
Thật là vượt quá những điều mà quạ không dám mong ước.
“Anh tin là bạc thật chứ?” - mấy con quạ hỏi, mắt thao láo vì thèm thuồng; vì, thật là lạ lùng, ở đời chẳng có cái gì mà quạ thích bằng tiền cả.
- Nghe này, kêu loảng xoảng đấy! Con cáo vừa nói, vừa lăn cái hũ lần nữa. Khổ nỗi, mình chẳng biết làm thế nào mà lấy ra được.
- Chịu, chẳng có cách nào cả, lũ quạ thở dài nói.
Con cáo đưa chân trái lên gãi đầu và suy nghĩ. Giá nhờ lũ quạ mà nó có thể tóm được cái thằng mất dạy vẫn bay cùng đàn ngỗng trời, và lần nào cũng thoát khỏi tay nó, thì hay biết mấy! Cuối cùng nó nói:
- Mình biết chắc ai có thể mở được cái hũ cho các bác.
- Cho biết tên kẻ đó đi! Nói đi! Lũ quạ reo lên, và trong lúc hăng hái, chúng sà cả xuống đáy hố.
- Mình không cho các bác biết, trừ phi các bác nhận những điều kiện của mình, cáo đáp lại.
Cáo bèn nói với mấy con quạ về Tí Hon, quả quyết rằng chú sẽ đủ sức mở cái hũ, nếu lũ quạ có thể đem được nó đến đây. Để đền ơn vì lời khuyên hay của nó, quạ phải nộp Tí Hon cho nó, sau khi chú đã giúp cho chúng xong việc ấy. Lũ quạ không có chút lí do gì để chừa Tí Hon ra cả, liền nhận lời.
Nhưng cái việc khó nhất đâu đã làm được; phải tìm cho ra đàn ngỗng trời và Tí Hon. Cuồng Phong đích thân lên đường, có năm chục quạ đi theo. Nó hứa sẽ trở về ngay. Nhưng bao ngày đã qua mà đàn quạ vẫn không thấy nó trở về.
Bị quạ bắt cóc
Thứ tư 13 tháng tư
Trời mới hửng sáng, đàn ngỗng trời đã dậy để ăn một chút gì trước khi khởi hành chuyến bay qua tỉnh Ưstergưtland.[43] Hòn đảo nhỏ chúng ngủ đêm qua vừa chật hẹp, vừa trơ trụi, nhưng trong vùng nước bao quanh có khá đủ những thứ cây cho chúng ăn no. Chú bé thì không được may mắn như thế, chú đã cố tìm mãi mà chẳng tài nào kiếm ra cái gì có thể ăn được.
Vừa đói vừa rét cóng vì cái lạnh ban mai, chú đang nhìn quanh mình, thì chợt thấy hai con sóc đang chơi đùa trong vòm cây trên một mũi đất đối diện hòn đảo. Nghĩ rằng những con sóc có thể chưa ăn hết lương thực dự trữ mùa đông của chúng, Nils nhờ ngỗng đực cõng mình sang bên đất liền để xin chúng ít hạt phỉ.
Ngỗng đực trắng làm theo lời chú tức khắc, nhưng khổ thay các con sóc cứ mải chơi đến nỗi chẳng nghe chú bé nói gì. Nhảy từ cây này sang cây khác, mỗi lúc chúng một đi sâu vào trong rừng. Nils theo chúng và chẳng mấy chốc đã không trông thấy ngỗng đực đứng lại bên bờ nước nữa.
Tí Hon đang vất vả bước đi giữa những cây bạch đầu ông cao đến tận cằm thì bỗng nhiên cảm thấy bị túm lấy ở phía sau, ai đó đang cố nhấc bổng chú lên. Chú quay lại thì thấy một con quạ khoang. Nó đã quắp lấy cổ sơ mi của chú. Nils vẫy vùng để gỡ ra, nhưng một con quạ thứ hai bay đến giúp sức, túm lấy một chiếc tất dài của chú và làm chú loạng choạng.
Giá Nils Holgersson kêu cứu ngay thì chắc ngỗng đực trắng đã có thể cứu chú khỏi tay bọn quạ, nhưng chú nghĩ là một mình, cũng đủ sức đánh đuổi được hai con quạ. Chú đá, chú đánh, nhưng hai con quạ không buông ra chút nào, và cuối cùng đã quắp chú bay lên không. Chúng dại dột đến nỗi để đầu Nils đập vào một cái cây. Bị chạm mạnh quá mắt Nils quáng loạn, và chú ngất đi. Lúc Nils mở mắt ra thì đã xa đất liền rồi. Chú tỉnh lại dần dần, và lúc đầu chẳng biết mình đang ở đâu, cũng như cái gì đã xảy ra. Phía dưới trải ra một thảm lớn như len dệt, màu nâu đen và màu lục. Dưới những chỗ rách và lỗ thủng có ánh rực lên như cửa kính mài, có thể nói là tấm thảm đã được trải trên một mặt gương.
Rồi chú thấy mặt trời đang lên trên bầu trời. Thế là mặt gương lúc nãy trông thấy qua những chỗ tấm thảm bị móc rách, bắt đầu lấp lánh màu đỏ và vàng. Cảnh đẹp tuyệt trần. Bấy giờ, mấy con quạ hạ xuống thấp. Nils nhận ra tấm thảm lớn kia là mặt đất phủ những khu rừng, những lỗ thủng và chỗ rách là những hồ và đầm lầy.
Chú tự đặt cho mình vô số câu hỏi. Làm sao chú lại không ở trên lưng ngỗng đực trắng? Tại sao cả một bầy quạ lại bay chung quanh chú? Và sau cùng, tại sao chú bị lay, bị lắc đến long cả người ra?
Bỗng chú hiểu: những con quạ đã bắt cóc chú. Ngỗng đực trắng đang đợi chú trên bờ biển và đàn ngỗng sắp bay đi Ưstergưtland ngay hôm nay. Còn chú thì bọn quạ đang đưa về phía tây nam, mặt trời đang ở sau lưng chú. Lũ quạ không cần để ý chút gì đến những lời yêu cầu của chú. Chúng bay hết tốc độ, thẳng về phía trước. Bỗng một con đột nhiên đập mạnh cánh báo hiệu có nguy cơ. Cả đàn liền sà vội xuống một rừng thông, lẩn sâu vào giữa những cành cây chằng chịt. Chúng đặt Nils xuống đất, dưới một gốc cây um tùm. Một con chim ưng cũng không tìm ra chú được.
Năm mươi con quạ vây lấy chú bé, quay những chiếc mỏ đe dọa về phía chú.
- Này quạ, có lẽ bây giờ đã nói được cho ta biết tại sao đã bắt cóc ta chứ?
Chú vừa hỏi xong thì một con quạ to rít lên:
- Im đi, không tao mổ mắt bây giờ.
Nils phải làm theo, vì nó như hết sức quyết tâm thực hiện lời dọa của nó. Vậy là chú cứ ngồi chằm chằm nhìn lũ quạ, trong khi lũ quạ cũng chằm chằm nhìn chú.
Càng nhìn Nils càng không ưa chúng. Bộ áo lông của chúng bụi bặm và xốc xếch kinh khủng. Hình như chúng chẳng biết gì đến tắm rửa, đến lau chùi cho bóng bẩy. Chân và móng phủ dày một lớp bùn khô, hai bên mép còn dính thức ăn. Chúng là những con chim khác hẳn những con ngỗng trời. Nils thấy chúng có vẻ độc ác, tham tàn, hung bạo và liều lĩnh như những tên côn đồ hay quân du đãng.
“Mình rơi vào tay một bọn kẻ cướp rồi”, chú nghĩ bụng.
Đúng lúc đó, chú nghe trên đầu tiếng gọi của đàn ngỗng trời:
- Cậu ở đâu? Mình đây. Cậu ở đâu? Mình đây.
Chú hiểu là các bạn đồng hành đang tìm mình nhưng không có thì giờ đáp lại. Con quạ to hình như là con đầu đàn, rít vào tai chú: “Liệu hồn, đôi mắt mày!”, Nils chỉ còn biết im lặng nữa mà thôi.
Đàn ngỗng trời không thể biết là Nils đang ở gần chúng đến thế. Sau hai ba câu, tiếng gọi của chúng mất vào nơi xa. “Thôi rồi, Nils Holgersson à,” chú bé tự nhủ, “giờ thì phải tự xoay xở lấy một mình thôi. Hãy tỏ ra là có học được gì trong mấy tuần sống cuộc đời hoang dã vừa rồi”.
Một lúc sau, lũ quạ làm bộ lên đường lại, nhưng hình như chúng có ý định cho hai con cùng mang Nils đi. Một con quắp chú ở cổ áo sơ mi, con kia quắp ở một chiếc tất, nên chú kêu lên:
- Không ai trong bọn có đủ sức cõng ta sao? Đã hành người ta quá rồi, làm ta nhừ cả người ra. Phải để ta ngồi trên lưng như cưỡi ngựa, ta sẽ không nhảy xuống đất đâu, ta cam đoan như vậy.
- Mày tưởng là chúng tao phải lo cho mày được thoải mái đấy à, mày lầm rồi, quạ thủ lĩnh nói.
Nhưng lúc đó, một con to lớn, lù đù, thô kệch, lông lởm chởm, cánh có một chiếc lông trắng, bước ra khỏi đàn và nói:
- Này Cuồng Phong à, giữ cho Tí Hon về đến nơi được nguyên vẹn có phải là tốt cho tất cả bọn mình không. Tôi sẽ cố cõng nó trên lưng vậy.
- Nếu mày làm được, Fumle-Drumle à, thì ta còn đòi gì hơn nữa, quạ cầm đầu đáp. Nhưng đừng để nó ngã đấy. Thế cũng là được rồi, và Nils lấy làm hài lòng. Bị quạ bắt cóc. Chẳng có gì phải sợ, chú nghĩ bụng. Mình nhất định sẽ có cách trị được quân khốn kiếp này.
Lũ quạ vẫn tiếp tục bay theo hướng cũ, về phía tây nam. Buổi sáng đẹp trời, yên tĩnh và chan hòa ánh nắng, khắp nơi, chim chóc cất tiếng hót những khúc hôn lễ. Trong một khu rừng cây cao âm u, cả đến con sáo, đôi cánh rũ xuống, cái cổ gân lên, đến đậu trên ngọn một cây thông, cũng hót: “Em đẹp làm sao! Em đẹp làm sao! Chẳng một ai đẹp bằng em cả. Chẳng một ai đẹp bằng em cả!”. Khúc hát vừa dứt, sáo liền hót lại tức thời.
Bấy giờ Nils bay qua, hai ba lần được nghe bài hát. Chú bèn đưa hai tay lên miệng làm loa và kêu lên như gọi:
- Chúng tôi nghe rồi! Chúng tôi nghe rồi!
- Ai đấy? Ai đấy? Ai giễu ta đấy? Sáo kêu to lên hỏi.
- Chính Kẻ-bị-quạ-bắt-trộm giễu bài hát của anh đấy, chú bé trả lời.
Lập tức, con quạ thủ lĩnh quay lại dọa:
- Liệu đôi mắt mày đấy, Tí Hon!
Nhưng Nils thì nghĩ: “Kệ mày. Tao sẽ cho mày biết là tao không sợ mày đâu.”
Càng bay vào sâu xứ này, khắp nơi đâu cũng có rừng và hồ. Trong một khu rừng bạch dương nhỏ, một con chim gáy mái đậu trên một cành cây trụi lá; trước mặt là con chim gáy trống. Nó xù lông lên uốn éo cái cổ, cúi xuống, rồi ưỡn mình lên; lông cổ cọ sột soạt vào những cành con, nó gù: “Chính em, em, em là đẹp nhất rừng. Không một ai khác đẹp bằng em, em, em.”
Chú bé bay qua trên cao, không thể làm thinh được.
- Đừng tin lời nó. Đừng tin lời nó. Chú kêu lên.
- Ai, ai, ai vu khống ta đó? Con chim gáy vừa gù, vừa cố nhìn xem ai nói.
- Chính Kẻ-bị-quạ-bắt vu khống anh đấy - chú bé trả lời.
Cuồng Phong lại đưa mắt dọa, và ra lệnh cho chú phải im mồm, nhưng Fumle-Drumle nói chêm vào:
- Cứ để mặc nó. Bọn chim nhỏ kia sẽ tưởng là giống quạ chúng mình đã thành ra khôi hài và dí dỏm đấy.
- Chúng chẳng ngu đến thế đâu, quạ thủ lĩnh đáp. Nhưng chắc là ý kiến kia đã làm cho nó thích, vì nó không quở mắng chú bé nữa.
Lũ quạ bay nhiều nhất trên những khu rừng rậm và những cánh rừng nhỏ, nhưng thỉnh thoảng cũng bay qua những làng xóm, nhà thờ và những chiếc nhà nhỏ xây ven một cánh rừng. Chúng trông thấy một trang viên cổ rất đẹp. Ngôi nhà quét màu đỏ, lưng quay vào rừng và có cái hồ phía trước mặt, quanh sân trồng những cây phong lớn, và vườn đầy những cây phúc bồn rậm rạp. Một con chim sẻ đá đậu ngay trên chiếc chong chóng chỉ hướng gió, đem hết sức ra hót để cho con mái đang ấp trứng trong tán lá một cây lê có thể nghe rõ từng điệu: “Chúng ta có những quả trứng nho nhỏ xinh xinh,” chim sẻ đá hót. “Chúng ta có bốn quả trứng tròn tròn, nho nhỏ, xinh xinh. Chúng ta có đầy cả tổ những quả trứng đẹp tuyệt vời”.
Con chim sẻ đá hát đi hát lại đến lần thứ một nghìn thì lũ quạ bay qua. Nils đưa tay lên miệng làm loa, nói to:
- Con ác là sẽ lấy mất trứng. Con ác là sẽ lấy mất trứng.
- Ai muốn dọa cho ta sợ đó? Sẻ đá lo lắng đập cánh hỏi.
- Chính Kẻ-bị-quạ-cướp-đi làm anh sợ đấy - chú bé đáp. Lần này thì quạ thủ lĩnh không tìm cách bắt chú làm thinh nữa. Trái lại, nó và cả đàn khoái chí, quạ quạ inh ỏi vì chúng thấy quá vui mừng.
Càng vào sâu nội địa, những cái hồ lại càng rộng và càng có nhiều cù lao và mỏm đất. Trên một bãi cát, con vịt đực đang làm duyên với con vịt cái:
- Anh sẽ trung thành với em suốt cả đời anh, anh sẽ trung thành với em suốt cả đời anh.
- Không trung thành được đến hết hè này đâu, chú bé nói, khi bay qua.
- Đứa nào đấy? Vịt đực hỏi.
- Ta tên là Tù-nhân-của-lũ-quạ, Nils kêu to lên.
Vào khoảng giữa trưa, lũ quạ lao xuống một đồng cỏ để ăn. không một con nào nghĩ đến việc cho chú bé một chút gì. Bỗng Fumle-Drumle lại gần quạ thủ lĩnh, và đưa cho nó một cành tường vi dại còn vài quả đỏ.
“Phần anh đấy, Cuồng Phong ạ”, nó nói. Cuồng Phong hít hít vẻ khinh bỉ.
- Mày tưởng tao muốn ăn những quả đã lâu ngày, khô khốc ấy à? Nó nói.
- Tôi nghĩ là làm anh vui lòng, Fumle-Drumle thất vọng đáp lại, và ném cành tường vi đi.
Cành tường vi dại rơi ngay trước mặt Nils, chú liền vớ lấy ăn cho đỡ đói.
- Thủ lĩnh nghĩ gì thế, Cuồng Phong à? Hôm nay thủ lĩnh im tiếng thế, một con nói.
- Ta nghĩ đến một con gà mái trước kia ở vùng này. Nó yêu quý mụ chủ nó lắm, và để làm vui lòng chủ, nó đẻ một ổ trứng, đem giấu dưới sàn kho thóc. Dĩ nhiên mụ chủ ngạc nhiên vì thấy vắng nó. Mụ đi tìm, nhưng chẳng thấy đâu. Này, Dài mỏ, mày có thể đoán được là ai đã tìm ra nó, con gà mái và ổ trứng không?
- Tôi nghĩ là đoán được, Cuồng Phong à. Và lại đến lượt tôi, tôi cũng có một chuyện tương tự để kể cho các vị nghe. Các vị có nhớ con mèo cái to đen trong nhà mục sư ở Hinneryds không? Nó không bằng lòng bọn chủ của nó, cứ lần nào nó đẻ cũng đem những con mới ra đời của nó dìm cho chết đuối. Một lần, nó giấu được con, ngay trong một đống cỏ khô ở giữa đồng. Nó rất mê đàn con nhỏ ấy như ăn phải bùa, nhưng mà tôi nghĩ là tôi còn sung sướng vì chúng nó hơn con mèo mẹ nhiều. Cả lũ quạ, con nào cũng có những chuyện để kể lại cho nhau nghe. Chúng kích động nhau và cả bọn cùng nói một lúc.
“Ăn cắp trứng và bắt mèo con thì có gì đáng để khoe khoang. Làm thế chẳng tài gì - một con nói. Tôi ấy à, đã có lần tôi săn một con thỏ con, đã to gần bằng con thỏ lớn. Tôi rượt nó hết bụi này sang bụi khác...”
Một con quạ khác ngắt lời:
“Làm cho những gà mái và những mèo cái phát điên lên thì cũng thú, nhưng quạ mà có thể làm cho một con người phải lo lắng mới đáng phục hơn. Tôi đã có lần đánh cắp một cái thìa bằng bạc...”
Tức giận, Nils bỗng ngắt lời chúng. Chú nghe đủ lắm rồi.
“Im cả đi, đồ quạ,” chú thét lên, “chúng bay không xấu hổ à? Tao đã sống ba tuần với đàn ngỗng trời và tao chỉ thấy làm và nghe nói toàn những cái hay. Thủ lĩnh chúng bay phải là đồ xấu xa, mới để chúng bay cướp bóc và giết chóc như thế. Vả lại, chúng bay nên bắt đầu một cuộc đời mới đi thì hơn, vì tao có thể nói cho chúng bay biết rằng loài người, đã chán những hành động xấu xa của chúng bay, sẽ tìm đủ cách để diệt sạch chúng bay”.
Nghe thế, Cuồng Phong và đồng bọn giận điên lên, định lao vào xé xác chú bé, nhưng Fumle-Drumle cười, và kêu quạ quạ, đứng chắn ngang trước mặt nói:
- Đừng, đừng, đừng! Nó thét lên, như kinh hãi. Các anh mà giết chết Tí Hon trước khi nó giúp ta việc đó thì Cơn Lốc sẽ bảo sao?
- Này Fumle-Drumle, chỉ có mày là sợ giống cái. Cuồng Phong đáp, nhưng mà nó cũng để yên cho Tí Hon.
Tức khắc sau đó, đàn quạ lại lên đường. Đến lúc này, đối với Nils hình như tỉnh Småland chẳng phải là vùng hoang vắng và nghèo nàn như chú được nghe tả chút nào. Đúng là nhiều rừng và sông núi, nhưng mà ở quanh các sông, các hồ, trải ra những cánh đồng đã được trồng trọt; cho đến đây vùng này không phải là hoang vắng. Nhưng từ đây, làng xóm và nhà cửa thưa thớt dần. Chẳng mấy chốc chú chỉ thấy những đầm lầy, những trảng cát và những đồi phủ đầy cây đỗ tùng.
Mặt trời đã lặn, nhưng trông còn rõ lắm, lúc đàn quạ về đến cái trảng rộng của chúng, Cuồng Phong phái một con về trước báo tin chuyến đi thành công; và vừa nghe tin, là Cơn Lốc và hàng trăm con quạ đã bay đi đón Tí Hon. Giữa những tiếng quạ quạ đinh tai của cả hai đàn quạ, Fumle-Drumle khẽ rỉ tai Nils:
- Trong lúc đi đường, cậu vui vẻ và dũng cảm quá, khiến tôi mến cậu lắm. Vì vậy, tôi khuyên cậu một điều, ngay lúc chúng ta đến nơi, người ta sẽ nhờ cậu một việc, đối với cậu có lẽ dễ thôi. Nhưng cẩn thận, chớ có làm đấy! Mấy phút sau, Fumle-Drumle đặt Nils xuống đáy một cái hố to. Chú bé để mình ngã xuống đất như đã mệt hết hơi. Bọn quạ bay chập chờn quanh chú, nhiều đến nỗi làm cho không khí ào ào như bão, nhưng Nils vẫn không ngẩng đầu lên.
“Tí Hon,” Cuồng Phong gọi, “dậy đi! Mày sẽ giúp chúng tao một việc mà đối với mày là rất dễ”.
Nhưng Nils không động đậy. Chú giả vờ ngủ. Cuồng Phong bèn quắp lấy cánh tay chú và lôi xềnh xệch trên cát về phía cái hũ kiểu cổ, đặt ở giữa hố.
- Dậy đi, Tí Hon, nó nói, và mở cái hũ này ra.
- Để ta ngủ, chú bé đáp. Mệt quá rồi, tối nay chẳng làm gì được đâu. Để đến mai.
- Mở hũ ra - Cuồng Phong vừa hét, vừa lay chú. Chú bé đứng dậy, và xem xét cái hũ.
- Làm sao mà ta, một đứa bé đáng thương, lại có thể mở được một cái hũ như thế này? Chú nói. Hũ này to hơn ta.
- Mở đi! Cuồng Phong ra lệnh một lần nữa. Mở đi, nếu mày muốn sống!
Chú bé đứng dậy, làm như loạng choạng, bước lại gần cái hũ, nắn nắn cái nắp, rồi buông thõng hai tay xuống. “Thường thì ta không đến nỗi yếu thế này” - chú nói. “Nếu để cho ta ngủ đến sáng mai, ta tin chắc là có thể mở được.”
Nhưng mà Cuồng Phong sốt ruột. Nó lao vào chú bé, và mổ một cái vào chân chú. Phải chịu để cho một con quạ đối xử với mình như thế thì quá lắm, chú bé đột nhiên gỡ mình ra, nhảy lùi lại mấy bước, rút con dao ra cầm, dang thẳng về phía trước.
“Coi chừng!”. Chú thét lên với Cuồng Phong. Giận quá đến nỗi mù quáng, Cuồng Phong chẳng chút để ý đến con dao; nó lao thẳng vào mũi dao, bị dao đâm vào mắt và ngập sâu đến tận óc. Nils nhanh tay rút vũ khí ra, nhưng Cuồng Phong đập mạnh đôi cánh và lăn ra chết. “Cuồng Phong chết rồi. Tên lạ mặt đã giết thủ lĩnh của chúng ta!”
Đàn quạ kêu lên, và tiếp đó là một cảnh huyên náo khủng khiếp. Vài con rên siết, những con khác đòi trả thù. Cả bọn chạy và bay tới chú bé, đi đầu là Fumle-Drumle. Nhưng cũng như mọi khi, con này vẫn vụng về. Nó vừa bay trên đầu chú bé, vừa đập cánh và chỉ cản trở không cho những con khác lại gần để lấy mỏ mổ chết chú.
Nils hiểu tình thế nguy hiểm, và tuyệt vọng nhìn quanh tìm một chỗ tránh. Chú đang nghĩ là không tài nào thoát khỏi đàn quạ, thì bỗng trông thấy cái hũ. Chú nắm mạnh lấy cái nắp, nhấc lên và nhảy vào trong hũ để trốn. Chỗ trốn này không tốt, vì hũ đầy những đồng tiền bạc nhỏ đến tận miệng. Chẳng có cách nào chui vào được, Nils bèn cúi xuống và ném tiền ra.
Đàn quạ vây quanh chú thành một đám dày, nhưng khi chú bắt đầu quẳng bạc ra, thì chúng liền quên hết lòng khao khát trả thù, xúm vào nhặt các đồng bạc. Chú bé ném từng vốc, và tất cả đàn quạ, và cả chính Cơn Lốc nữa, cũng đánh nhau để đớp tiền. Con nào mà cướp được một đồng là liền vội vàng bay đi giấu của.
Mãi đến lúc ném hết sạch tiền trong hũ, Nils mới dám ngẩng đầu lên; trong hố chỉ còn có một con quạ. Đó là Fumle-Drumle có chiếc lông trắng ở cánh, con quạ đã cõng Tí Hon trước đấy.
“Cậu đã giúp tôi một việc lớn hơn cậu có thể tưởng Tí Hon ạ,” nó nói giọng khác hẳn. “Tôi sẽ cứu sống cậu. Leo lên lưng, tôi sẽ đưa cậu đến một chỗ ẩn. Ở đó cậu sẽ an toàn đêm nay. Ngày mai tôi sẽ thu xếp để đưa cậu trở về với đàn ngỗng trời”.
Chiếc nhà nhỏ
Thứ năm, 14 tháng tư
Sáng hôm sau, chú bé thức giấc trên một cái giường, ở giữa bốn bức tường, dưới một mái nhà. Lúc đầu chú tưởng là mình đang ở nhà. “Không hiểu là mẹ có sắp mang cà phê cho mình không?”, chú lẩm bẩm một mình. Rồi chú chợt nhớ ra là mình đang nằm trong một chiếc nhà bỏ hoang, nơi Fumle-Drumle có lông trắng đã đưa chú đến tối hôm qua.
Và người chú còn nhừ như dưa, nên chú thấy là nằm nghỉ thêm một tí, chờ Fumle-Drumle hẹn đến tìm mình, thì dễ chịu quá.
Trước giường có treo những rèm vải bông kẻ ô, chú vén lên nhìn xem căn buồng. Chú nhận thấy ngay là chưa bao giờ chú được thấy một cái nhà xây như thế này. Tường là mấy hàng gỗ dầm, tiếp luôn đến mái. Nhà không có trần, và có thể nhìn lên tận nóc. Tất cả cái nhà nhỏ đến nỗi hình như làm ra cho những kẻ như chú, chứ không phải cho những con người. Chỉ có lò sưởi và cái bếp là to, to hơn tất cả những cái mà chú đã thấy. Trong nhà gần như chẳng có đồ đạc gì có thể di chuyển được. Chiếc ghế băng nhỏ dọc suốt bề dài của ngôi nhà và cái bàn ở cửa sổ đều đóng liền vào tường. Chiếc giường chú nằm và chiếc tủ con sơn màu lòe loẹt cũng đều gắn vào tường như thế.
Nils tự hỏi không biết ai là chủ nhà, và tại sao nhà lại bỏ trống. Vả lại hình như những người trước ở đây đã nghĩ đến việc trở lại. Ấm cà phê và cái nồi vẫn còn để trên lò sưởi, và trong góc lò có củi chẻ nhỏ. Que gạt than lò và cái xẻng để đưa bánh mì vào lò nướng còn dựng trong một góc khác; guồng quay sợi đặt trên một ghế dài. Phía trên cửa sổ, ở cái giá nhỏ có những gói sợi lanh và xơ gai, mấy cuộn len, một cây nến và một bao diêm.
Chắc là những người ở nhà này đã nghĩ đến việc trở về. Họ đã để chăn đệm trên giường, và quanh tường có căng những băng vải dài vẽ ba người cưỡi ngựa tên là Kaspar, Melchior, và Balthazar. Cái nhóm ba người được vẽ đi vẽ lại, suốt chiều dài của băng vải. Họ cưỡi ngựa chạy quanh suốt cả căn phòng, và việc cưỡi ngựa rong chơi của họ tiếp tục lên tận các dầm trên mái nhà.
Nhưng trên cao kia, chú bé chợt trông thấy một cái gì làm chú vụt nhảy ra khỏi giường. Đó là mấy chiếc bánh mì hình vòng tròn, xâu vào một cái gậy đặt ở khoảng giữa các dầm. Tất nhiên bánh trông đã lâu lắm và mốc rồi, nhưng mà là bánh mì, và vẫn là bánh mì. Chú lấy cái que gạt than, đập và làm rơi xuống mấy miếng. Chú ăn và còn nhét đầy vào cái bị của mình nữa. Thật không ngờ bánh ngon đến thế.
Chú lại tìm xem còn vật gì khác có thể có ích cho chú nữa không “Mình rất có thể lấy cái gì mình cần, vì hình như chẳng có ai phiền gì mình cả”, chú nghĩ thầm. Nhưng có gì nhiều đâu mà lấy, phần lớn vật dụng đều quá to và quá nặng, không mang đi được. Chú chỉ có thể lấy được mấy que diêm.
Chú trèo lên bàn và từ đấy lần theo bức rèm, leo lên cái giá ở trên cửa sổ. Trong khi chú đang cho diêm vào bị thì con quạ có chiếc lông trắng bay vào, qua cửa sổ.
- Tôi đây rồi, quạ vừa đỗ xuống bàn, vừa nói. Tôi không thể đến sớm hơn, vì hôm nay người ta bầu một thủ lĩnh kế vị cho Cuồng Phong.
- Người ta đã bầu ai? Nils hỏi.
- Người ta đã lấy một kẻ không cho phép cướp bóc và trộm cắp! Người ta đã chọn Garm Lông Trắng, từ trước đến nay vẫn bị gọi là Fumle-Drumle! Quạ vừa đáp vừa ưỡn người lên dáng điệu thật uy nghi.
- Chọn thế là tốt, Nils vừa nói vừa chúc mừng quạ.
Bấy giờ chú bé nghe phía dưới cửa sổ có giọng nói mà chú tưởng có thể nhận ra.
- Nó ở đây à? Smirre, con cáo hỏi.
- Phải, nó trốn ở đây, tiếng một con quạ đáp.
- Cẩn thận, Tí Hon! Garm kêu lên. Cơn Lốc đang ở đấy, nơi cửa sổ, với con cáo đang muốn vồ lấy cậu mà ăn thịt đấy.
Đúng thế, Smirre vừa nhảy xổ vào cửa sổ. Gỗ đã cũ mục gãy ngay, và Smirre hiện ra; Garm Lông Trắng không kịp chạy đi, Smirre giết nó chết tươi. Rồi cáo nhảy xuống đất, đưa mắt nhìn quanh để tìm chú bé. Nils cố nấp sau một bó xơ gai, nhưng Smirre đã trông thấy chú và thu mình lại để lấy đà. Cái nhà thấp quá, hẹp quá đến mức Nils thấy rõ là con cáo sẽ bắt được chú, chẳng khó gì. Nhưng mà không phải chú không có cách tự vệ: chú đánh ngay một que diêm, châm vào xơ gai, tức thì xơ bốc cháy và chú ném ngay bó xơ vào con cáo. Hoảng hốt, kinh hoàng, cáo vọt ra khỏi nhà. Khốn thay, để thoát một mối nguy, Nils lại tự lao vào mối nguy khác. Bó xơ bốc cháy đã bắt vào các rèm che giường, Nils nhảy xuống đất và cố dập ngọn lửa, nhưng muộn quá rồi, rèm đã bốc cháy. Khói um cả căn nhà, và Smirre, con cáo, còn đứng bên ngoài, dưới cửa sổ, thấy rõ tình hình đó.
“Thế nào, Tí Hon! Nó hét to, mày chọn đường nào bây giờ? Tự để mình được thui hay là ra đây theo tao?
Chắc là tao thích ăn thịt mày hơn, nhưng mày chết cách nào thì tao cũng chẳng vì thế mà kém phần hả dạ”. Nils nghĩ rằng con cáo sắp được hả dạ, vì ngọn lửa lan ra nhanh khủng khiếp. Cái giường đã cháy rồi, và trên suốt băng vải sơn, các ngọn lửa chạy từ người kị mã này đến người kị mã khác. Nils đã trèo vào lò sưởi thì chợt nghe tiếng một chiếc chìa khóa nhè nhẹ quay trong ổ khóa. Hẳn là có người đến. Trong cơn nguy biến, chú chẳng sợ chút nào, mà lại thấy vui. Chú lao tới lối ra và gần đến ngưỡng cửa thì cửa mở.
Chú thấy trước mặt mình hai đứa trẻ. Chú chẳng mất thì giờ nhìn hai đứa, mà lao ra ngoài.
Chú không dám chạy ra xa lắm, chắc chắn là Smirre, con cáo, còn rình chú; như vậy thì phải ở gần hai đứa trẻ. Chú quay lại, nhưng vừa thoáng trông thấy chúng, chú liền reo lên, và chạy đến với chúng: “Chào Åsa, cô bé chăn ngỗng! Chào bé Mats!”
Trông thấy hai đứa trẻ, Nils đã quên đứt là mình đang ở đâu. Những con quạ, cái nhà cháy, những con vật biết nói, tất cả biến hết khỏi kí ức của chú. Chú đang ở trên một đống rơm ở Vemmenhưg, và đang chăn một đàn ngỗng trên cánh đồng, bên cạnh hai đứa trẻ người tỉnh Småland đang trông đàn ngỗng của chúng. Tức thì chú trèo lên một bức tường đá xếp và gọi: “Chào Åsa, cô bé chăn ngỗng! Chào bé Mats!”. Nhưng trông thấy cái mẩu người bé tí tẹo đó tiến lại phía mình, tay dang ra, hai đứa bé liền nắm lấy tay nhau, lùi lại mấy bước, lộ vẻ kinh hoàng.
Trước nỗi khiếp sợ của chúng, Nils tỉnh giấc mơ, và nhớ là lúc này chú là ai; chẳng có gì ghê gớm hơn có thể đến với chú bằng cái việc để cho những đứa ấy trông thấy mình dưới dạng một gia thần. Nỗi xấu hổ và đau đớn vì không được là một con người nữa, làm cho lòng chú khắc khoải. Chú quay lại và chạy trốn, không biết mình sẽ đi đâu.
Nhưng ra đến ngoài trảng, chú bé được một cuộc gặp gỡ may mắn. Giữa bụi thạch thảo, chú thoáng thấy một vật gì màu trắng, ngỗng đực có Lông Tơ Mịn đi theo, tiến đến với chú. Thấy Nils chạy đến hấp tấp như vậy, ngỗng đực tưởng là chú bị ai đuổi. Vì vậy nó vội vàng quắp lấy chú, hất chú lên lưng, và mang chú bay vụt lên không.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils - Selma Lagerlöf Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Diệu Của Nils