Số lần đọc/download: 1041 / 5
Cập nhật: 2015-11-21 15:31:55 +0700
Chương 15
B
ên cạnh giường tôi, trên chiếc bàn nhỏ, là một bông loa kèn bằng thủy tinh xuất hiện vào buổi sáng sau hôm câu chuyện về Vicky được kể. Tôi rất lúng túng không hiểu vì sao nó lại ở đó, vì Marianne Engel đã rời bệnh viện từ lâu trước khi tôi ngủ. Khi tôi hỏi các cô y tá xem ai trong số họ đã để bông loa kèn thủy tinh lại thì họ đều thề là không phải mình. Hơn nữa, Maddy còn khẳng định chắc chắn rằng suốt đêm không hề có một ai đi qua phòng trực của y tá. Thế có nghĩa là hoặc các cô y tá nói dối, hoặc Marianne Engel đã lẻn vào với sự trợ giúp của bóng tối.
Câu hỏi thứ hai về bông loa kèn thủy tinh là: Nó tượng trưng cho cái gì?
Tại sao, bạn hoàn toàn có thể hỏi tôi, tại sao tôi lại nghĩ nó mang một ý nghĩa nào đó? Một vài thứ, trong đó có những món được làm từ công nghệ thổi thủy tinh, đơn giản là nhìn rất hay. (Và tôi có cần phải nhắc bạn nhớ là khoa bỏng cấm mang hoa thật vào không nhỉ?) Tuy nhiên, tôi chắc chắn rằng nó thực sự mang một ý nghĩa nào đó; càng dành nhiều thời gian với Marianne Engel, tôi càng tin rằng mọi thứ đều liên quan đến nhau một cách không thể lý giải.
"Ồ," bác sĩ Edwards nói, "một chút bí ẩn không phải lúc nào cũng xấu. Nó khiến người ta có lòng tin."
"Đừng nói với tôi là chị theo đạo đấy, Nan. Tôi không nghĩ là tôi chịu nổi đâu."
"Tín ngưỡng của tôi, có hay không có, cũng chẳng việc gì đến anh. Anh có cuộc sống riêng của mình, như bữa tiệc tối qua ấy, và tôi cũng có cuộc sống của tôi." Có chút... ghen tị pha lẫn giận dữ và làm mình làm mẩy? gọi như thế nào được nhỉ?... trong giọng nói của bà.
Thật lạ khi Nan có vẻ khó chịu với bữa cơm do chính bà chỉ định. Là một kẻ cơ hội, tôi coi đây là bàn đạp cho tôi hỏi bà một câu khiến tôi bận lòng bấy lâu: vâng, tôi biết là tình trạng gia tăng chuyển hóa các chất trong cơ thể khiến tôi cần phải hấp thụ thêm nhiều calo, nhưng lý do thật sự bà cho phép Marianne Engel làm việc đó là gì.
"Mọi người đều phải ăn," Nan thản nhiên nói.
Câu trả lời của bà, dĩ nhiên, không phải một câu trả lời đúng nghĩa. Thế là tôi hỏi lại. Nan, như thỉnh thoảng vẫn thế, dành vài giây cân nhắc lợi hại của việc nói thật. Tôi rất thích khi bà làm thế. Như tôi mong đợi, bà đã không nói dối. "Tôi cho phép những bữa ăn này vì rất nhiều lý do. Đầu tiên, sẽ rất tốt cho anh nếu anh hấp thụ được càng nhiều chất dinh dưỡng càng tốt. Tôi cũng làm việc này vì các y tá nữa vì có vẻ anh đã xử sự phải phép hơn từ khi Marianne Engel đến. Nhưng trên hết, tôi làm việc này vì tôi chưa bao giờ gặp một người nào cần bạn đến như anh."
Nói ra điều đó đã làm Nan cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi hỏi bà nghĩ gì về việc Marianne Engel giúp tôi tập vật lý trị liệu, và bà thừa nhận chính xác những gì tôi đang nghi ngờ, rằng bà không thích ý tưởng đó lắm.
"Chị lo lắng là tôi bắt đầu phải phụ thuộc vào cô ấy nhiều quá," tôi nói, "và cô ấy sẽ làm tôi thất vọng."
"Chẳng phải chuyện ấy cũng làm anh lo lắng sao?"
"Phải," tôi trả lời.
Vì Nan đã quyết định nói cho tôi nghe sự thật, điều nhỏ nhặt nhất tôi có thể làm là trả lời thẳng thắn như vậy.
Mọi thứ dường như đang tiến triển gần giống như cái lẽ phải thế. Giờ đây khi tôi thực sự có khát vọng cải thiện bản thân và đang nỗ lực để thực hiện điều đó, tôi có thể cảm thấy mình ngày càng mạnh mẽ hơn. NGƯƠI CÓ CHẮC KHÔNG? Nhưng để sẵn sàng đối mặt với thế giới thực ngoài kia thì phải cần đến cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần.
Maddy đặt tôi ngồi vào xe lăn rồi đẩy tôi vào phòng chung nơi có bốn bệnh nhân bỏng khác. Một người đàn ông đang đứng trên bục trong lễ phục áo sơ mi và cà vạt: Lance Whitmore là một bệnh nhân đã xuất viện. Anh đã phải chịu những vết bỏng gần (nhưng không hoàn toàn) tệ bằng tôi. Vết thương của anh thì khó nhìn thấy hơn - chỉ có bên cằm phải và phần cổ mới cho thấy anh từng bị bỏng - nhưng anh nói trên người anh có chi chít sẹo lồi mà anh sẽ cho chúng tôi xem sau buổi thuyết trình, nếu chúng tôi có muốn xem liệu vài năm sau khi hồi phục thì chúng tôi sẽ được những gì. Tôi chẳng cần; phải đối mặt với những tháng ngày hiện tại đã đủ lắm rồi.
Sự hiện diện của Lance vừa có tác dụng củng cố tinh thần vừa là nguồn thông tin đáng tin cậy. Anh đã ở bên ngoài ba năm và rất sẵn lòng truyền thụ chút kinh nghiệm trong việc hòa nhập thành công, cứ như một nhà diễn thuyết của Hội Cai Rượu ấy.
"Hãy nhìn vào từ chấn thương trong từ điển," Lance bắt đầu, "và các bạn sẽ thấy có rất nhiều định nghĩa. Về mặt y khoa, đây là một từ chỉ những tổn thương gây ra cho cơ thể do tác động bên ngoài, trong trường hợp của chúng ta là do lửa. Dĩ nhiên, cũng có các nghĩa tương tự, và các bạn cũng sẽ bị tổn thương - do người ta vô tình hay hữu ý - khi các bạn rời khỏi đây. Người khác không thực sự hiểu những gì đã xảy đến với chúng ta đâu."
Bài diễn văn của Lance diễn ra như người ta đoán trước: anh lại nói về những "thách thức" và "cơ hội" mình gặp phải, và những gì anh đã làm để có lại cuộc sống của chính mình. Khi bài diễn văn kết thúc, anh để mọi người được tự do thảo luận.
Câu hỏi đầu tiên đến từ một nữ bệnh nhân cứ gãi suốt từ đầu đến cuối buổi nói chuyện. Cô muốn biết liệu "những vùng da bị lóc" của cô có luôn "ngứa đến phát điên" thế này không.
"Cảm giác ngứa cuối cùng cũng hết thôi. Tôi hứa đấy." Một loạt tiếng xì xào nhẹ nhõm rộ lên giữa đám đông. Thậm chí cả tôi, người đã thề sẽ giữ im lặng, cũng phải thở phào biết ơn. "Các bạn không thể làm gì khác ngoài việc cố gắng chịu đựng cho qua thời kỳ khó khăn, quả là bất hạnh, nhưng tôi luôn luôn thấy dễ chịu hơn mỗi khi nhớ về điều mà Winston Churchill từng nói."
"Chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng?" nữ bệnh nhân bị ngứa gợi ý.
"Ồ, vâng," Lance cười, "Nhưng tôi đang nghĩ về câu 'Nếu chúng ta phải đi qua Địa ngục... thì cứ đi thôi.'"
Một bệnh nhân khác hỏi, "Khi ra ngoài xã hội anh cảm thấy thế nào?"
"Thực sự rất khó khăn, nhất là trong thời kỳ đầu. Hầu hết mọi người đều giả vờ không nhìn thấy bạn, nhưng họ vẫn thì thầm. Một vài người còn ngang nhiên nói kháy bạn nữa, thường là mấy cậu choai choai. Điều thú vị ở đây là rất nhiều người nghĩ nếu bạn bị bỏng thì hẳn là do bạn bị quả báo. Suốt bao thế hệ ông bà ta đã dạy như vậy, đúng không? Lửa là dấu hiệu trừng phạt của thánh thần. Thật khó cho mọi người phải đối mặt với một thứ phi logic như chúng ta - bị bỏng, nhưng vẫn sống - vì thế chúng ta hẳn đã làm việc gì đó rất sai trái, nếu không họ sẽ phải chấp nhận một sự thật rằng những điều như vậy cũng có thể xảy đến với họ." Anh ngừng lại. "Có ai ở đây nghĩ những vết bỏng của mình là kết quả của một sự trừng phạt nào đó không?"
Chúng tôi nhìn nhau cho tới khi một bệnh nhân rụt rè giơ tay lên, một giây sau lại thêm một người nữa. Tôi sẽ không giơ tay đâu, dù Lance có đợi bao lâu đi nữa.
"Điều này cũng hoàn toàn bình thường thôi," anh trấn an chúng tôi. "Sao lại là tôi? Ngày nào tôi cũng hỏi mình câu này nhưng chưa một lần nhận được câu trả lời. Tôi sống tốt. Tôi đi lễ nhà thờ, đóng thuế, tình nguyện tham gia câu lạc bộ nam sinh vào cuối tuần. Tôi đã, và đang, là một người tốt. Vậy-sao-lại-là-tôi?" Ngừng lại. "Chẳng có lý do nào cả. Một khoảnh khắc đen đủi, với hậu quả cả đời."
Một bệnh nhân khác hỏi, "Mọi người có hỏi về những vết bỏng của anh không?"
"Có bọn trẻ con, vì chúng vẫn chưa biết cách cư xử phải phép. Một số người lớn nữa, và nói thật thì tôi rất cảm kích. Mỗi một người bạn gặp trong suốt quãng đời còn lại sẽ băn khoăn về chuyện đó, vì thế thỉnh thoảng dẹp thắc mắc ấy khỏi đường đi của mình để có thể đến với những điều khác cũng là một việc tốt."
Một bàn tay dè dặt giơ lên, "Thế còn chuyện ấy thì sao?"
"Tôi rất thích chuyện ấy." Câu nói của Lance khiến vài người cười khúc khích, và tôi đoán anh đã đọc bài phát biểu này đủ nhiều để hoàn thiện câu trả lời mà anh luôn luôn gặp phải. "Với mỗi người khác nhau thì việc chăn gối cũng khác. Da bạn là một phần khá tuyệt vời của chuyện ấy, phải không? Cơ quan lớn nhất trong cơ thể, với diện tích bề mặt lên đến ba mét vuông, và mang lại rất nhiều khoái cảm. Giờ đây chúng ta đã mất khá nhiều đầu dây thần kinh rồi, quả thật rất tệ nhỉ."
Người bệnh vừa nêu câu hỏi liền thở dài nặng nề, nhưng Lance giơ cao tay lên để thể hiện rằng mình vẫn còn vài điều muốn nói. "Da là đường chia cắt giữa người với người, nơi bạn kết thúc và nơi người khác bắt đầu. Nhưng trong quan hệ tình dục, tất cả đều thay đổi. Nếu da là một hàng rào ngăn cách người với người thì tình dục là cánh cổng mở cơ thể của bạn ra cho đối phương."
Chưa bao giờ trong đời tôi lại có ý nghĩ đấy, với bất cứ ai. Càng không phải với Marianne Engel.
Lance đằng hắng. "Tôi đã rất may mắn: vợ tôi đã ở lại bên tôi. Trên thực tế, những vết bỏng đã làm chúng tôi đồng cảm hơn, và điều đó cũng được vận vào đời sống tình dục nữa. Tôi buộc phải trở thành một người tình tuyệt vời hơn, vì tôi phải trở nên ngày một, ừm, sáng tạo hơn. Đó là tất cả những điều tôi muốn nói về chuyện đó."
"Điều gì là khó khăn nhất đối với anh sau khi xuất viện?"
"Quả là một câu hỏi khó, nhưng tôi nghĩ đó là việc phải mặc trang phục tạo áp suất hai mươi ba tiếng mỗi ngày. Chúng thật tuyệt vời, các bạn biết đấy, trong việc hạn chế tạo sẹo nhưng - Chúa ơi! - cảm giác giống như bị chôn sống vậy. Bạn sẽ luôn mong đợi được tắm, dù rất đau đớn, để có thể thoát ra khỏi cái thứ kinh khủng ấy." Lance nhìn vào mắt tôi một thoáng, rồi tôi có cảm giác anh đang đặc biệt nói đến tôi. "Tôi mặc bộ đồ của mình trong mười tháng đầu tiên từ khi ra viện nhưng với một số bạn ở đây thì có thể là một năm, hoặc lâu hơn."
Anh tiếp tục, "Chỉ sau khi rời khỏi đây các bạn mới nhận ra rằng một vết bỏng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Đó là một sự kiện dai dẳng, một sự việc liên tục tái diễn. Các bạn sẽ rơi thẳng từ cảm giác hạnh phúc lâng lâng vì biết mình còn sống xuống hố sâu tuyệt vọng khi bạn chỉ ước được chết. Và chính khi bạn bắt đầu nghĩ rằng sẽ chấp nhận con người mới của mình, điều đó cũng thay đổi luôn. Vì việc bạn là ai không phải điều bất di bất dịch đâu."
Lance có vẻ hơi bối rối, như thể anh đã nhỡ đưa mình vào một chủ đề mà bản thân không muốn nói tới. Anh đưa mắt nhìn khắp phòng, đăm đăm nhìn xuống mọi ánh mắt trong vài giây, trước khi kết thúc buổi nói chuyện. "Những phương pháp điều trị bỏng hiện đại thật không thể tưởng tượng nổi, còn các bác sĩ thì thật tuyệt vời, và tôi rất biết ơn vì đã được sống. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Da bạn là dấu hiệu nhận biết nhân dạng bạn, hình ảnh mà bạn trưng ra với mọi người. Nhưng nó không bao giờ khẳng định bạn thực sự là ai. Vì bị bỏng chẳng hề làm bạn kém - hoặc nhiều - tính người hơn. Chỉ là bạn bị bỏng mà thôi. Vì thế trong hoàn cảnh kỳ dị này, bạn hiểu ra điều mà hầu hết mọi người sẽ không bao giờ hiểu được, rằng da chỉ là nước sơn chứ không phải nét tinh túy của một con người. Xã hội chỉ giỏi khua môi múa mép về chuyện tốt gỗ hơn tốt nước sơn, nhưng ai có thể hiểu được điều đó bằng chúng ta?"
"Một ngày nào đó, nhanh thôi," Lance nói, "các bạn sẽ bước ra khỏi nơi đây và phải quyết định xem mình sẽ sống nốt quãng đời còn lại như thế nào. Bạn sẽ được đánh giá bởi cái mà người khác nhìn thấy, hay bởi cái tinh túy trong tâm hồn các bạn?"
HAI LỰA CHỌN THẬT NGHÈO NÀN.
Gregor mua một bịch kẹo đủ loại để chúc mừng tôi nhân lễ Halloween. Vì chúng tôi là đàn ông nên chúng tôi không đả động gì đến cuộc nói chuyện hôm trước giữa hai người, và mấy cái kẹo là cách ông ta ngỏ ý rằng chúng tôi nên dĩ hòa vi quý. Nếu địa điểm không phải là bệnh viện, tôi tin chắc ông ta đã mang đến cả bịch sáu lon bia rồi.
Buổi tối đó đã cho thấy một đột phá trong tình bạn của chúng tôi. Gregor kể cho tôi nghe một câu chuyện ngượng chín người về lễ Halloween tệ nhất của ông ta, khi ông ta hóa trang - trong một nỗ lực sai lầm để tạo ấn tượng với cô sinh viên y khoa mình đang mê mẩn - thành một bộ gan người. Ông ta đã mất nhiều công sức để chế bộ trang phục của mình trông càng thật càng tốt, gồm cả một ống cao su giả làm ống gan được gài vào một chiếc túi bí mật đựng rượu vodka trong thùy trái lá gan. Lý lẽ ông ta đưa ra là làm thế sẽ giúp ông ta có thể hút rượu cả tối, bất cứ khi nào người phụ nữ kia làm ông ta hồi hộp quá mức. (Có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, một người đàn ông lọc rượu khỏi gan rồi hấp thụ nó vào cơ thể.) Không may là ông ta thẹn đến nỗi nhanh chóng say bí tỉ. Cuối buổi tối hôm đó, Gregor và người ấy thấy mình đang ở trên gác xép của một họa sĩ chép tranh của Jackson Pollock. Câu chuyện kết thúc với cảnh Gregor phải trả cho ông họa sĩ mấy trăm đô la sau khi nôn vào một trong những bức vẽ của ông ấy, dù tôi cũng chẳng hiểu việc đó có tạo được khác biệt gì cho bức tranh hay không.
Tôi cố vượt mặt Gregor bằng câu chuyện về Giáng sinh đáng xấu hổ nhất của mình, về một nỗ lực không thành trong việc quyến rũ một cô yêu tinh tại một cửa hàng tạp hóa, người đã kết hôn với một anh già Noel lạm dụng chất kích thích. Gregor đáp trả bằng câu chuyện lễ Noel của ông ta, khi ông ta đã nhỡ tay bắn mẹ mình bằng khẩu súng hơi mới được tặng sau hàng tháng trời thề thốt rằng an toàn là mối quan tâm hàng đầu của ông ta. Cuối cùng, không hiểu sao chúng tôi quyết định sẽ cùng chia sẻ một câu chuyện đáng xấu hổ nhất thời thơ ấu, vào các ngày lễ hoặc không. Tôi là người kể trước.
Là một cậu bé bình thường, tôi đã phát hiện ra nghịch cái ấy của mình thật thích thú biết bao, nhưng vì lúc ấy đang phải sống với bà mợ nghiện cùng ông cậu nghiện, nên tôi chẳng có ai để san sẻ những khám phá sinh học của mình cả.
Tôi cũng biết láng máng, từ việc nghe lỏm mấy người lớn hút đá, rằng có những bệnh hoa liễu. Bạn chắc chắn không muốn mắc phải một trong số đó đâu, vì những điều rất xấu sẽ xảy đến với súng của bạn. (Mợ Derbi, khi thấy bản thân không thể tránh nói đến cái ấy của tôi, đã luôn gọi nó là súng.) Tôi cũng biết các bệnh hoa liễu được truyền qua chất dịch tiết ra trong khi giao hợp. Mình lẽ ra cũng có thể làm vài nghiên cứu, tôi nghĩ, nhưng tôi biết rõ các cô thủ thư đến độ chẳng thể liều lĩnh bị bắt quả tang đang tìm mấy cuốn sách như thế. Hơn nữa, điều này cũng dễ hiểu: vì người ta có thể mắc bệnh hoa liễu khi xuất tinh và giờ đây khi tôi đã có khả năng xuất tinh, tôi sẽ phải cẩn thận để tránh bị lây nhiễm. Vì thế tôi bắt đầu xem xét các lựa chọn.
Tôi có thể dừng việc thủ dâm. Nhưng việc đó đã quá.
Tôi có thể phủ bụng bằng một chiếc khăn tắm để hứng dòng tinh dịch tội lỗi. Nhưng không thể giấu một chiếc khăn to như thế và lén lút giặt sạch nó cũng khó.
Tôi có thể thủ dâm vào một chiếc tất. Nhưng tất cả những đôi tất của tôi đều được dệt bằng vải bông thưa, và chất dịch có thể rỉ qua đó và thấm vào lỗ chân lông trên da tôi.
Tôi có thể thủ dâm vào những cái túi đựng sandwich có mép dán. Phải rồi, việc này không những nghe có vẻ y học mà còn hợp với tôi kinh khủng. Hiển nhiên, đây là cách tôi chọn.
Không lâu sau tôi đã có một bộ sưu tập túi căng phồng dưới gầm giường, nhưng tôi không thể cứ chất cả đống vào thùng rác chung được - nếu ai đó phát hiện ra, hay nếu một con chó ăn vụng nào đó rải mấy cái túi chứa chất mặn mặn ấy trên bãi cỏ trước cửa? Thế là tôi quyết định tốt nhất là vứt chúng vào thùng rác nhà khác; càng xa ngôi nhà di động của chúng tôi càng tốt.
Địa điểm lý tưởng là khu nhà giàu trong thị trấn, cách xa bãi đỗ xe lưu động cả về khoảng cách lẫn địa vị xã hội. Tuy nhiên điều tôi không lường tới là người giàu ở đây rất nghi ngờ những thằng nhóc cứ lén lút quanh thùng rác nhà họ. Không lâu sau đó, một chiếc xe cảnh sát đã xuất hiện và tôi phải đứng trước hai ông sĩ quan lực lưỡng, cố gắng giải thích những hành vi đáng ngờ của mình.
Tôi không hề muốn phản bội bản chất đích thực của nhiệm vụ của tôi, nhưng các ông cảnh sát đã yêu cầu tôi đưa cho họ túi đồ mua sắm mà tôi đang cầm. Tôi van xin họ để tôi đi, nói rằng chẳng có gì trong túi trừ "bữa trưa" của tôi cả. Khi dùng vũ lực để lấy cái túi, họ đã tìm thấy bốn mươi gói nhỏ chứa một chất màu trắng không rõ nguồn gốc và bắt tôi trả lời chính xác rằng tôi đang buôn bán loại ma túy dạng lỏng nào.
Hoảng sợ trước viễn cảnh bị hỏi cung tại đồn cảnh sát địa phương trong khi họ phân tích thành phần hóa học của chất lỏng dạng sữa này, tôi thú nhận tôi đang đi loanh quanh để tìm chỗ vứt mấy cái túi đựng bánh sandwich có mép dán chứa đầy tinh dịch của mình.
Hai ông cảnh sát lúc đầu chẳng hề tin, nhưng khi câu chuyện của tôi trở nên chi tiết hơn, họ đứng lặng như trời trồng - cho tới khi họ bật cười. Không cần phải nói, tôi chẳng ấn tượng gì trước cách họ phản ứng với tình trạng khủng hoảng sức khỏe của tôi. Sau khi cười đã đời, hai người bỏ cái túi của tôi vào thùng rác gần nhất rồi đưa tôi về nhà.
Trên tinh thần đồng chí vừa xây dựng giữa chúng tôi, Gregor khoác lác rằng ông ta có một câu chuyện hay chẳng kém, nếu không muốn nói là hay hơn.
Khi còn nhỏ, Gregor chẳng khác gì một đứa vô học, dù tôi cho ông ta điểm tối đa vì ông ta không bao giờ tin rằng mình có thể tự chuốc bệnh hoa liễu. Khi ông ta khám phá ra trò thủ dâm, ông ta đã nghĩ thế này: Nếu thủ dâm bằng nắm tay khô cong đã thích thế này rồi, thì sẽ còn thế nào nữa nếu dùng một thứ gì đó trông có vẻ giống âm đạo hơn?
Thế là Gregor bắt đầu các thí nghiệm của mình. Ông ta đã thử dùng nước rửa tay trong nhà tắm cho tới khi phát hiện ra thực tế phũ phàng của bỏng xà phòng. Tiếp theo ông ta thử dùng kem thoa tay, khá công hiệu cho tới khi cha ông ta bắt đầu vặn hỏi tại sao ông con có ham muốn bất thường về một làn da mềm mại. Cuối cùng thì Gregor, luôn có đầu óc sáng tạo và một căn bếp chất đầy bát đựng hoa quả tú ụ, bắt đầu nghiên cứu những khả năng mà một cái vỏ chuối có thể mang lại. Chẳng phải chính tự nhiên đã chế tạo vỏ chuối đặc biệt cho việc phục vụ cái ống bơm da thịt này?
Vỏ chuối có một xu hướng rất xấu là hay bị rách trong khi hành sự nhưng, không bao giờ chịu đầu hàng, Gregor đã quyết định giải quyết yếu điểm tự nhiên này bằng băng dính trong. Rất thành công, nhưng ông ta cũng lại phải đối mặt với vấn đề khó khăn từng gây phiền hà cho tôi: đó là công đoạn xóa dấu vết.
Ông ta quyết định vứt vỏ chuối vào bồn cầu rồi xả nước, nhưng chiếc vỏ thứ tư đã làm mấy cái ống đồng loạt đình công. Khi cha của Gregor phát hiện ra tình trạng tắc nghẽn, rất tự nhiên, cụ bắt tay vào xử lý cái ống bơm. Gregor trốn trong phòng ngủ của mình, cầu Chúa ra tay khiến những cái vỏ trôi khỏi ống thay vì cứ dồn ứ lại. Nếu Người giúp con, thưa Chúa, con sẽ không bao giờ thủ dâm vào vỏ chuối nữa. Khi cha của Gregor không thể tự thông cái ống, cụ đã gọi thợ sửa ống nước trong vùng đến, mang theo dụng cụ thông toilet và những hiểm họa lơ lửng trên đầu.
Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của Gregor. Vỏ chuối gánh tội cuối cùng cũng trôi, và lời nhận xét duy nhất của người thợ sửa ống nước là mẹ Gregor nên xem xét việc thêm chút chất xơ vào khẩu phần ăn của gia đình. Gregor đã giữ lời hứa với Chúa bằng việc từ bỏ việc lạm dụng hoa quả mãi mãi - hay ít nhất ông ta cũng đảm bảo như vậy, bên giường bệnh của tôi.
Chúng tôi đang trêu chọc lẫn nhau và hứa giữ bí mật của cả hai thì Marianne Engel bước vào phòng, bó trong những dải băng xác ướp, đôi mắt xanh biển/xanh lục sáng lấp lánh giữa những dải băng trắng quấn quanh mặt, mái tóc sẫm màu thả hờ xuống lưng. Cô rõ ràng không ngờ đến sự có mặt của một chuyên gia tâm thần trong phòng tôi, chứ đừng nói là người đã từng điều trị cho cô trong quá khứ. Nó làm cô chết lặng/cứng đơ giữa đường, như một tử thi cứng đờ ba nghìn (hoặc bảy trăm) năm tuổi sống dậy tức thì. Gregor, nhận ra mái tóc và đôi mắt không lẫn vào đâu được của cô, lên tiếng trước. "Marianne, thật tuyệt khi gặp lại cô. Cô khỏe không?"
"Tôi khỏe." Hai từ cụt lủn phát ra. Có lẽ cô sợ bộ trang phục của mình sẽ làm cô bị ném ngay lại vào phòng tâm thần, vì việc lảng vảng quanh khoa bỏng trong bộ dạng quấn băng thì tử tế nhất cũng bị coi là dở hơi và thảm nhất sẽ là một trò đùa tồi tệ.
Trong nỗ lực làm cô được thoải mái, Gregor nói, "Halloween là ngày lễ yêu thích của tôi, thậm chí còn hơn cả lễ Giáng sinh ấy. Bộ hóa trang của cô thật tuyệt." Ông ta dừng lại để cho cô cơ hội đáp lại nhưng cô chẳng nói gì cả, thế nên ông lại tiếp tục, "Điều này rất thú vị đối với các bác sĩ tâm thần, cô biết đấy. Nhìn những bộ hóa trang của mọi người cũng là cách để ta có cái nhìn qua về những ước mơ thầm kín của họ. Tôi ấy à, tôi sẽ hóa trang thành một anh Bolshevik khát máu."
Marianne Engel căng thẳng kéo mấy dải băng xoắn xuýt quanh eo mình. Gregor nhận thấy nỗ lực kéo dài cuộc hội thoại chẳng đi đến đâu cả, thế là ông ta nhã nhặn xin phép rồi thẳng tiến ra khỏi cửa.
Cô nhẹ cả người sau khi ông ta đi, cô đút cho tôi những thanh sô cô la và kể tôi nghe những câu chuyện ma - thể loại truyền thống, không phải chuyện về những người quen của cô. Cô kể câu chuyện nổi tiếng về hai đứa trẻ, sau khi nghe đài báo có một kẻ tay móc sắt vừa trốn khỏi nhà thương điên gần đấy đã chạy vội khỏi Đường Tình Nhân để rồi phát hiện ra một cái móc gãy treo lủng lẳng trên tay nắm cửa khi chúng trở về nhà; câu chuyện về một cô gái trẻ đi nhờ xe về nhà và quên mất áo khoác, mấy ngày sau khi người lái xe mang chiếc áo đến nhà cô trả thì biết rằng người xin đi nhờ ấy đã chết từ mười năm trước, cũng trên đoạn đường anh gặp cô; câu chuyện về người đàn ông ngồi chơi xếp hình bên bàn bếp khi xếp xong hiện lên bức tranh anh đang ngồi bên bàn bếp hoàn thành trò chơi xếp hình, với mảnh cuối cùng lộ ra một khuôn mặt kinh dị đang đứng nhìn từ ngoài cửa sổ; câu chuyện về một cô trông trẻ cứ phải nghe những cuộc điện thoại mỗi lúc một khó chịu hơn, cảnh báo cô về những nguy hiểm xảy đến với đứa trẻ mà cô đang chăm sóc cho tới khi, nhờ tổng đài lần theo số điện thoại gọi đến, cô mới biết cuộc gọi đó được thực hiện từ chính trong ngôi nhà, vân vân.
Vừa kể, Marianne Engel vừa phủ một tấm ga giường thừa lên đầu và chiếu đèn ngược lên mặt bằng chiếc đèn pin mượn ở bàn y tá. Trông cô ảo đến quyến rũ. Cô ở lại quá cả giờ thăm cho phép - mấy cô y tá từ lâu đã thôi áp đặt luật lệ với Marianne Engel - và lúc nửa đêm, cô dường như cảm thấy bối rối vì sự vắng mặt của chiếc đồng hồ quả lắc điểm mười hai (hay có lẽ là mười ba) tiếng giữa phòng.
Điều cuối cùng cô nói, trước khi rời đi vào sáng sớm, là "Đợi đến Halloween sang năm nhé. Chúng ta sẽ đến một bữa tiệc rất tuyệt vời."
Việc thu hoạch da của tôi diễn ra thưa dần. Những cuộc phẫu thuật vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cuộc sống của tôi, dĩ nhiên là thế, nhưng những mơ mộng tự sát giờ hầu như đã không còn nữa và tôi đã trở thành học sinh siêu sao của Sayuri. Tôi có thể nói dối rằng đó là vì tính cách mạnh mẽ của tôi, và vì tôi quyết tâm giữ lời với Nan. Tôi có thể nói dối rằng tôi làm việc này vì bản thân. Tôi có thể nói dối rằng tôi làm việc này vì tôi đã nhìn thấy ánh sáng chân lý. Nhưng lý do chính khiến tôi làm việc này là để tạo ấn tượng với Marianne Engel.
THẬT DỄ THƯƠNG LÀM SAO. Con rắn cái khẽ hất đuôi và đánh lưỡi, háo hức mơn trớn tôi từ cả hai phía. TA ĐANG BĂN KHOĂN XEM MỌI CHUYỆN SẼ THẾ NÀO KHI NGƯƠI RỜI BỆNH VIỆN.
Tôi đã tốt nghiệp khóa học lê vài bước một lúc, có sử dụng khung tập đi bằng nhôm. Tôi thấy mình như thằng ngốc, nhưng Sayuri đã trấn an rằng tôi sẽ sớm được chuyển sang dùng gậy buộc vào cẳng tay thôi.
Một thứ đã giúp tôi rất nhiều là đôi giày chỉnh hình được chế tạo riêng cho tôi. Đôi đầu tiên làm chân tôi đau đớn nên các chuyên gia đã chế đôi thứ hai khắc phục mọi nhược điểm. Lợi ích lớn nhất của đôi giày, tuy thế, lại nghiêng về mặt tinh thần nhiều hơn thể chất. Giày là cứu tinh vĩ đại cho một người đàn ông bị mất ngón chân: chúng như những món hóa trang bằng da giúp đôi chân tàn phế trông được bình thường.
Tôi phải thừa nhận Sayuri biết chính xác những gì cô làm. Lúc đầu những bài tập rất chú trọng đến việc kéo giãn cơ để giúp tôi lấy lại cảm giác vận động. Rồi chúng tôi viện đến Thera-Bands, những sợi dây co giãn giúp tạo sức cản, trước khi chuyển sang chương trình luyện tập nâng những vật nhẹ. Sức nặng được tăng dần lên theo mỗi tuần, và thỉnh thoảng tôi còn hỏi Sayuri xem liệu mình có thể nâng những vật nặng hơn so với bài tập đề ra một chút được không.
Vì giờ đã có thể đi được vài bước ra khỏi giường, tôi bắt đầu tập tễnh đi về phía toilet của mình mỗi khi cần tỉnh táo. Bạn có thể nghĩ đây là một bước tiến lớn trong việc tin tưởng bản thân nhưng đây thực sự là một cú đấm tâm lý khi nhận ra mình không còn tiểu đứng được nữa. Tôi thấy tình trạng này khiến tôi giống hoạn quan quá chừng.
Tôi đã vào viện được gần tám tháng và Giáng sinh đang đến gần. Marianne Engel làm tất cả những gì cô có thể, treo các vòng hoa, chơi nhạc của Handel và than vãn vì cô không được phép thắp những cây nến Mùa Vọng trong phòng điều trị bỏng.
Vào đêm ngày mùng sáu tháng Mười hai, Marianne Engel đặt đôi giày chỉnh hình mới của tôi lên bậu cửa sổ và giải thích rằng đêm nay thánh Nicholas sẽ nhét quà vào trong những đôi giày của trẻ nhỏ. Khi tôi nói chúng tôi chưa bao giờ có tập tục này hồi còn ở khu nhà lưu động, cô nhắc tôi nhớ rằng thế giới không hề bắt đầu và kết thúc với những kinh nghiệm của bản thân tôi. Khá hợp lý. Khi tôi chỉ ra rằng tôi không còn là một đứa trẻ nữa, cô chỉ suỵt tôi một cái. "Trong mắt Chúa, chúng ta đều là những đứa trẻ."
Khi Connie lấy đôi giày của tôi xuống vào buổi sáng hôm sau - "Những thứ này làm cái quái gì ở đây vậy?" - cô thấy chúng được ních đầy những tờ một trăm đô la.
Tôi rất cảm động trước việc làm ấy, hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Phản ứng của tôi không vì bản thân món tiền này, mà vì những tình cảm Marianne Engel gửi gắm vào hoàn cảnh hiện tại của tôi. Kỳ nghỉ lễ đã đặt tôi vào một tình huống khó xử: làm sao tôi có thể tặng lại những món quà Giáng sinh chứ? Dù đúng là tôi có chút tiền giấu trong nhà băng dưới một cái tên giả nhưng tôi chẳng có cách nào để lấy được nó ra cả. Có lẽ thế, sự thật là, tôi sẽ không bao giờ có thể rút được số tiền đó ra, thậm chí cả khi tôi xuất viện, vì nhân dạng giả mà tôi đã dùng để lập tài khoản được đính một bức ảnh không bao giờ có thể là khuôn mặt của tôi nữa.
Marianne Engel đã nhận ra thứ tôi cần và, thay vì bắt tôi hỏi xin tiền hay mặc kệ tôi, đã tìm ra cách trao quà thật đáng yêu. Một món quà! Từ thánh Nicholas! Và thế là tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôi đã được giải quyết. Gần như vậy. Tôi vẫn phải tìm cách đem những món quà từ cửa hàng về bên giường mình, nhưng tôi đã có kế hoạch sẵn rồi.
Tôi yêu cầu Gregor ghé qua vào cuối một buổi tập của tôi với Sayuri. Khi cả hai đã tập trung ở đó, tôi bắt đầu: "Cứ thoải mái nói không nếu muốn, nhưng hai người thực sự có thể giúp được tôi chuyện này. Tôi mong hai người có thể mua sắm hộ tôi."
Gregor hỏi tại sao tôi lại cần cả hai người. Bởi vì tôi muốn trao cho mỗi người một món quà, tôi giải thích, và tôi hầu như không thể bảo họ tự mua quà cho mình được. Sayuri sẽ mua món quà tôi định tặng Gregor, và Gregor sẽ mua món quà tôi định tặng Sayuri. Những món quà còn lại, hai người có thể đi mua cùng nhau.
"Đừng lo lắng," Sayuri nói, "Tôi yêu việc mua sắm cho lễ Giáng sinh."
Nghe thấy thế, Gregor cũng nhanh chóng đồng ý. Tôi đưa cho mỗi người một chiếc phong bì chứa danh mục những thứ tôi muốn họ mua, thay mặt tôi, cho mỗi người. Khi họ rời phòng Gregor liếc lại về phía tôi, một nụ cười lạ lùng thoáng hiện trên khuôn mặt.
Marianne Engel vẫn chưa đọc xong phần Địa ngục cho tôi nghe. Đọc lâu một phần là vì cô chẳng bao giờ đọc quá nhiều liền một lúc, cô có vẻ thích tận hưởng vẻ đẹp của những con chữ hơn, nhưng cũng vì cô cứ luôn nhảy sang đọc bằng tiếng Ý. Tôi chẳng bụng dạ nào mà bắt cô dừng lại mỗi khi cô làm thế vì cô quá chú tâm vào câu chuyện và, hơn nữa, thứ tiếng Ý thốt ra từ miệng cô thật tuyệt. Cuối khổ thơ, tôi phải chỉ cho cô thấy là tôi chả hiểu gì cả, và ngày hôm sau cô sẽ đọc lại đoạn ấy, thường là đọc hết bằng tiếng Anh.
Voltaire viết rằng Dante là một lão điên có quá nhiều kẻ nịnh nọt, và danh tiếng của ông cứ tiếp tục tăng cao chỉ vì hầu như chẳng có ai thực sự đọc hết trường ca Thần khúc. Tôi gợi ý lý do ít người đọc Dante là vì chẳng có ai thực sự thấy cần đọc cả. Trong thế giới Tây phương, Địa ngục là ý niệm của tất cả mọi người về Địa ngục; với tư cách là một tác phẩm văn học, chỉ có Kinh Thánh là thấm sâu vào nhận thức chung của xã hội hơn Địa ngục mà thôi.
"Anh có biết," Marianne Engel hỏi, "rằng Địa ngục của Dante được sáng tác dựa trên Ánh sáng trôi chảy của Thượng đế của Mechthild von Magdeburg không?"
"Một trong Ba Vị Chủ Nhân của cô phải không?"
"Phải," cô đáp.
Tôi thừa nhận, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, rằng tôi biết rất ít (sự thật là: không chút nào) về người phụ nữ này, vì thế Marianne Engel lại tiếp tục quá trình giáo dục tôi, Mechthild sinh ra tại Saxony vào đầu thế kỷ mười ba và khi còn nhỏ đã thường xuyên được chính Chúa Thánh Thần viếng thăm hằng ngày. Hai mươi tuổi, cô trở thành một Beguine tại Magdeburg, sống cuộc đời cầu nguyện và hành xác đầy ngoan đạo; thật hấp dẫn, khi cô tăng cường độ hành hạ bản thân, những ảo giác của cô cũng ngày càng đến thường xuyên hơn. Khi cô miêu tả lại cho giáo sĩ nghe xưng tội, ông tin chắc về nguồn gốc thần thánh của chúng và bảo cô viết lại.
Das flieBende Licht der Gottheit, tên tiếng Đức của tuyệt tác đó, đã có ảnh hưởng rất lớn đến lớp nhà văn tiếp theo, gồm cả Meister Eckhart và Christina Ebner. Rõ ràng Dante Alighieri cũng đã đọc bản dịch tiếng Latin, và rất nhiều học giả tin ông đã sử dụng trật tự cuộc sống ở thế giới bên kia trong tác phẩm của Mechthild làm nền móng ý tưởng cho Thần khúc: Thiên đường ở trên cùng, Luyện ngục ở ngay dưới, và Địa ngục ở tận đáy. Trong Địa ngục sâu thẳm của Mechthild, Satan bị xích bởi tội lỗi của chính hắn trong khi đau buồn, bệnh tật và đổ nát chảy thẳng ra khỏi trái tim và cái miệng đang bốc cháy của hắn. Điều này giống một cách đáng ngờ với Satan của Dante, một con quái vật có ba bộ mặt bị nhốt trong một tảng băng ở nơi sâu nhất giữa Địa ngục, miệng nhai bộ ba kẻ tội đồ (Judas, Cassius và Brutus) với dòng mủ cứ mãi chảy khỏi ba cái miệng của nó.
"Có những người," Marianne Engel nói, "tin rằng cô 'Matilda' mà Dante đã gặp trong Luyện ngục thực ra chính là Mechthild."
"Đó có phải những gì cô nghĩ không?" tôi hỏi.
"Tôi tin," cô khẽ cười, "rằng tác phẩm của Dante thường bị ảnh hưởng bởi các nhà văn khác."
Khi cô đọc cho tôi nghe câu chuyện về cuộc hành trình của Dante, tôi thấy thật thân thuộc và tôi rất thích dù (hay có lẽ là vì?) nó được đọc giữa phòng điều trị bỏng. Tôi có cảm giác rất thoải mái khi Marianne Engel đọc cho tôi, trong cách cô luồn tay vào những ngón tay tôi khi đọc thơ. Tôi sửng sốt trước sự kết hợp những ngón tay đẹp đẽ và xấu xí của chúng tôi, và tôi muốn cô cứ đọc cho tôi nghe mãi - có lẽ vì tôi sợ rằng khi kết thúc, cô sẽ không còn tiếp tục dẫn tôi, tay trong tay, ra khỏi Địa ngục của chính tôi nữa.
Khi tôi trình bày với Marianne Engel lý thuyết của tôi là chẳng ai cần đọc Địa ngục để biết hình ảnh tượng trưng về Địa ngục cả, cô đã chỉnh tôi ngay. "Dù điều đó có thể đúng với hầu hết mọi người, nhưng anh thì biết rất rõ vì tôi đã đọc cho anh nghe bản dịch tiếng Đức rồi."
"À há." Tôi đã không ngờ tới việc đó. "Cô dịch lúc nào vậy?"
"Tôi đoán là mười hoặc hai mươi năm sau khi Dante viết xong tác phẩm ấy. Thật tốn thời gian. Tôi khá chắc mình là người đầu tiên dịch phần Địa ngục, nhưng anh không bao giờ xác thực được việc đó đâu."
"Thế cô đã đọc cho tôi nghe lúc nào vậy?" tôi hỏi.
"Khi anh đang hồi phục từ lần bỏng đầu tiên."
Địa ngục được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1314. Nếu Marianne Engel hoàn thành bản dịch của cô hai mươi năm sau, thì có lẽ đó là năm 1334. Cứ chiếu theo lời tuyên bố của cô khi trước là cô sinh vào năm 1330, thì lúc đó cô cũng hơn ba mươi rồi.
Khi tôi nghiên cứu kỹ về những con số này, tôi không quên nhận ra rằng chúng thật lố bịch và hoàn toàn không có khả năng xảy ra. Tôi chỉ đang chỉ ra rằng, ít nhất thì có những điều rất vô lý đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử rất có lý. Đây là điều làm tôi ngạc nhiên về tình trạng thần kinh của cô: những câu chuyện điên rồ của cô vô cùng nhất quán.