Số lần đọc/download: 1930 / 52
Cập nhật: 2015-09-29 18:22:23 +0700
Chương 15: Ông Pickwick Bị Bắt Gặp Trong Phòng Ngủ Một Quý Bà
L
ữ quán Con Ngựa Trắng tại Ipswich là một trong những quán trọ lâu đời và rộng rãi nhất còn sót lại của nước Anh. Trong quán chằng chịt những lối đi chật hẹp và lộng gió với những cầu thang tối tăm, tại lữ quán này, khách trọ phải tự tìm ra lối đi dẫn tới những căn phòng bé tí, và đèn đóm lúc nào cũng tù mù.
Ông Pickwick rất mệt mỏi sau chuyến đi dài từ Luân Đôn đến đây. Ông hy vọng sẽ gặp lại ba người bạn thân của mình đã đến lữ quán trước, nhưng mãi cho tới lúc này vẫn chưa thấy tăm hơi của họ. Ông rung chuông gọi, ngay sau khi dàng bữa ăn tối xong, và một cô hầu phòng dẫn ông qua nhiều hành lang quanh co rắc rối, bước lên những cầu thang chật chội để đến phòng riêng của ông. Lửa trong lò sưởi đã được đốt sẵn, căn phòng trông có vẻ tiện nghi ấm cúng hơn ông đã mong ước.
- Làm ơn nói giúp với người giúp việc của tôi, Samuel Weller, bảo cậu ta mang đến cho tôi một ít nước nóng vào lúc tám giờ sáng mai - Ông Pickwick nói - Còn đêm nay, tôi không có gì cần đến cậu ta nữa.
Cô gái hầu phòng chúc ông ngủ ngon, rồi ông Pickwick được yên thân một mình. Ông ngồi xuống cái ghế bành đặt trước lò sưởi và cho phép đầu óc mình được tự do chạy rông. Trước tiên, ông tự hỏi không biết chừng nào các bạn ông mới đến đây; rồi ông nghĩ đến bà góa phụ Bardell, về chuyện bỗng dưng bà này lại ngất xỉu thật kỳ cục trong tay ông; sau đó ông lại nhớ đến những trò lưu manh của gã kép Jingle, chính hắn là lý do khiến ông phải đến Ipswich lúc này. Sau cùng ông ra khỏi dòng suy nghĩ của mình, đứng lên và bắt đầu thay đổi y phục.
Vừa mới cởi xong áo khoác, ông chợt nhớ đã bỏ quên cái đồng hồ quả quít trên bàn trong phòng uống cà-phê. Ông rất yêu thích cái đồng hồ này và ông không muốn liều lĩnh để mất nó; nhưng lúc này đã quá trễ để rung chuông gọi Sam. Ông lại mặc áo khoác vào, cầm cây đèn cầy trên tay rồi lặng lẽ xuống cầu thang.
Sau khi xuống mấy cái cầu thang và đi dọc theo nhiều hành lang khác nhau, cuối cùng ông cũng xuống được từng trệt, nhưng không nhận ra phòng uống cà-phê nằm về hướng nào.
Lần lượt, ông nhìn vào từng phòng, và đến lần thứ năm, ông gặp may mắn; cái đồng hồ của ông vẫn còn ở chỗ cũ, trên mặt bàn. Ông cầm nó lên rồi vội vã quay lại phòng mình.
Lúc lên tới tầng trên cùng, ông Pickwick mới cảm thấy bối rối. Sao tất cả mọi cánh của trông đều giống hệt nhau thế này? Phòng ông nằm ở chỗ nào nhỉ? Ông Pickwick lần lượt nhẹ nhàng xoay cái tay nắm trước mỗi cánh cửa, hy vọng có thể tìm ra đứng căn phòng của mình. Nhưng cứ mỗi lần ông làm theo kiểu đó, lại có một giọng nói giận dữ từ bên trong vọng ra: "Ai đó?" hoặc: "Mấy người muốn gì?" và ông đành lẳng lặng bỏ sang phòng khác. Lúc ông Pickwick hầu như đã tuyệt vọng thì ông chợt lưu ý đến một căn phòng còn để cửa mở và có ánh sáng từ bên trong hắt ra; nhưng đúng ngay lúc đó, cây đèn cầy của ông tắt ngấm, và ông hoàn toàn đứng trong bóng tối.
Rất thận trọng, ông quay lại nhìn cánh cửa để mở. Hoan hô! Cuối cùng thì đây cũng chính là căn phòng của ông, có thế chứ! Lò sưởi vẫn đang cháy bùng kia mà, và qua ánh sáng chiếu ra từ lò sưởi, ông có thể nhận ra cái giường và những vật dụng khác. Hoàn toàn thoải mái, ông đóng cánh cửa lại và tìm cách thắp sáng ngọn nến đã tắt, nhưng mẩu nến đã cháy sạch, chỉ còn lại cái đế đèn.
- Chẳng có gì phải lo lắng - Ông Pickwick tự nói với mình - Ta có thể thay quần áo nhờ ánh lửa của lò sưởi, cũng tốt chán.
Ông kéo bức rèm cho kín quanh giường, rồi ngồi xuống cái ghế trước lò sưởi, bắt đầu tháo giày và bít tất. Sau khi làm xong việc này, ông cởi áo khoác ngoài rồi áo khoác ngắn bên trong, đặt những thứ đó lên giường thật ngăn nắp. Đúng lúc ông vừa bắt đầu cởi cái quần dài ra, chợt có tiếng động khiến ông ngừng ngay công việc đang làm; cánh cửa phòng chậm chạp mở ra.
Nụ cười cố hữu vẫn còn đọng trên gương mặt ông Pickwick, nhưng ông đã đứng im lặng bất động. Từ một vị trí cách xa mép giường, ông đứng nép mình vào chỗ trống còn lại trong căn phòng, phía sau tấm rèm che giường. Rất lặng lẽ, một người nào đó bước vào phòng khóa cửa lại rồi đặt cái giá nến xuống mặt bàn. Có phải hắn là một tên trộm không nhỉ? Nếu không phải kẻ trộm thì hắn có thể là ai? Với những động tác nhẹ nhàng nhất, ông Pickwick rón rén từng bước đến chỗ mép rèm, đưa mắt nhìn khắp phòng.
Và ông suýt ngất xỉu vì sửng sốt. Thay vì chộp được một tên trộm, ông lại trông thấy một quý bà vào khoảng lứa tuổi trung niên, phong phanh trong bộ đồ ngủ của mình, đang đứng chải tóc trước cái gương lớn. Thật nhanh, ông Pickwick thụt đầu vào lại, trên mặt ông bắt đầu chảy xuống những giọt mồ hôi lạnh. Rõ ràng người phụ nữ nọ có ý định sẽ ngủ lại trong căn phòng này. Chắc hẳn ông đã vào nhầm phòng bà ta. Bằng cách này hoặc cách khác, ông phải báo động cho bà kia biết sự có mặt của ông. Ông ho một tiếng nhỏ.
Người phụ nữ khẽ cử động nhưng không lên tiếng. Ông lại thò đầu ra khỏi tấm rèm. Bà kia lúc này đang ngồi cạnh lò sưởi, trông bà có vẻ đang mơ màng ngắm ngọn lửa đang nhảy múa. Ông Pickwick lại ho, lần này tiếng ho lớn hơn nhiều.
- Lạy Chúa! - Người phụ nữ kêu lên - Cái gì thế?
- Chỉ... chỉ là... chỉ có một ông tử tế đàng hoàng ở đây thôi ạ - Ông Pickwick lên tiếng, ló hẳn cái đầu ra.
- Một người đàn ông lạ mặt trong phòng tôi ư! - Người phụ nữ lại kêu lên, rồi chạy bổ về phía cánh cửa.
- Xin đứng lại - Ông Pickwick gọi - Rõ ràng là tôi, thưa bà thân mến, là tôi đã vào nhầm phòng và đây hoàn toàn do lỗi của tôi ạ.
- Nếu điều ông vừa nói đúng sự thực, thưa ông - Người phụ nữ nói rồi bật khóc nức nở - thì bây giờ mời ông ra ngay cho.
- Rất đúng ạ, thưa bà kính mến, đúng là phải như thế ạ. Tôi vô cùng hối tiếc vì đã làm bà bối rối. - Ông Pickwick lịch sự trả lời.
Rồi, một tay tóm gọn giày và bít tất, tay kia chộp lấy hai cái áo khoác, ông Pickwick bước ra từ phía sau tấm rèm. Người phụ nữ mở cửa, đẩy ông ta lọt ra ngoài hành lang và lập tức đóng cánh cửa lại.
Ông Pickwick tạ ơn trời đất đã giúp ông thoát hiểm thật dễ dàng, nhưng tâm trạng bối rối của ông vẫn chưa tiêu tan. Ông đứng đó một mình, chỉ có một nửa quần áo trên người, trong một ngôi nhà xa lạ, và trong bóng tối hoàn toàn, ông không sao tưởng tượng nổi ông sẽ tìm ra phòng mình ở chỗ nào. Ngay khi ông vừa dợm bước xuống hành lang, ông chợt nghe rõ ràng có tiếng bước chân của một người mang giày bốt. Vào bất cứ trường hợp nào như thế này, đầu óc của bất cứ một ông khách đang hoang mang nào cũng đều có thể nghĩ ông là một tên trộm, và có thể bắn vào ông trước khi ông kịp giải thích. Trong cơn tuyệt vọng, ông Pickwick ngồi bệt xuống chỗ góc hành lang. Đành phải chờ đến lúc trời sáng trở lại chứ còn biết làm gì hơn!...
Bây giờ mới hơn nửa đêm, nhưng Sam Weller vẫn còn thứúc ở tầng dưới, đang trao đổi những câu chuyện trời trăng mây nước với anh bồi trực khách sạn; anh này phải thức đợi chuyến xe ngụa đêm lo việc chuyển thư từ. Rồi cuối cùng cũng tới giờ Sam phải đi ngủ; và anh chàng vô cùng ngạc nhiên khi bắt gặp ông chủ đáng kính của mình với một nửa mớ quần áo trên người, chân thì không giày không vớ, đang ngồi bó gối một đống tại góc hành lang.
- Sam - Ông Pickwick nói - Phòng của tôi nằm ở đâu?
Sam ngẩn người đến độ không trả lời được, rồi anh chàng im lặng dẫn đường.
- Tôi vừa phạm một lỗi lầm nghiêm trọng, Sam à. - Ông Pickwick phàn nàn.
- Chuyện ấy thường thấy lắm ạ, thưa ông chủ - Sam trả lời, mắt nhìn ông chủ đầy vẻ ngờ vực - Lần sau, khi ông chủ muốn thăm viếng một ai đó ban đêm trong một ngôi nhà xa lạ, tốt hơn ông chủ nên sai cháu đưa đi.
Nói xong, anh chàng chúc ông chủ ngủ ngon rồi rời khỏi phòng.
Vào giờ điểm tâm sáng hôm sau, ông Pickwick rất vui sướng khi biết các bạn bè mình đã đến nơi trong đêm. Lúc họ ăn sáng, có một quý ông cùng tham dự; ông này đã đi chung một xe với ông Pickwick ngày hôm trước. Tên ông ta là Magnus; và trong chuyến đi, ông Magnus đã thổ lộ với ông Pickwick rằng ông ta đang hy vọng sẽ thành hôn với một quý bà đang trọ tại lữ quán Thiên Thần. Trong lúc ăn uống, ông Pickwich - theo ý kiến riêng của mình - đã giảng thuyết với ông kia bằng một thái độ trang trọng cách thức hay nhất để tỏ tình với một phụ nữ như thế nào.
Một giờ sau, ông Magnus bước vào phòng uống cà-phê với dáng khích động đến mức làm ông ta thở hào hển.
- Hãy ngợi khen tôi đi, thưa ông Pickwick - Ông ta nói như reo - Tôi thực hành không sai một li lời khuyên của ông, và vị phụ nữ khả kính ấy đã bằng lòng chịu làm vợ tôi. Ông phải đến đó gặp cô ấy ngay lập tức mới được.
- Thưa cô Witherfield - Ông Magnus nói khi hai người đàn ông bước vào phòng người phụ nữ - cho phép tôi được giới thiệu ông bạn đặc biệt của tôi, ông Pickwick.
Ông Pickwick gắn cặp kính lên mắt rồi nhìn qua căn phòng. Thế rồi, cả ông ta và người phụ nữ cùng lúc đồng kêu lên một tiếng nhỏ đầy sửng sốt. Người phụ nữ giấu mặt vào hai bàn tay, còn gương mặt ông Pickwick trở nên một quả táo chín đỏ.
- Ông Pickwick! - Ông Magnus nói - Hai người làm sao thế?
- Tôi từ chối trả lời câu hỏi này - Ông Pickwick đáp với đáng điệu hết sức chán nản trước giọng nói giận dữ của ông Magnus.
Người phụ nữ cũng từ chối giải thích; bà này thừa nhận đã từng gặp ông Pickwick một lần trước đây, nhưng bà quá hổ thẹn không chịu nói ra bà đã gặp ông Pickwick lúc nào và ở đâu. Cứ mỗi giây trôi qua, cơn giận của ông Magnus cứ ùn ùn tăng thêm. Ông ta quát vào mặt ông Pickwick, hai tay quơ lia lịa như một người lên cơn điên, ông Pickwick gọi ông Tupman để giúp mình làm dịu lại người đàn ông si tình kia; nhưng ông bạn si tình lại không bằng lòng dịu đi cho; trái lại, ngôn ngữ ông ta càng lúc càng trở nên hung hăng thêm.
Rồi ông Pickwick cũng trở nên quá chán vì bị rủa sả nặng lời và bắt đầu quát trả lại ông Magnus cho đến lúc người phụ nữ trở nên khiếp sợ cực độ. Thình lình bà kia bỏ chạy ra khỏi phòng, trong đầu đầy những ý nghĩ khủng khiếp hoang dại. Bà nghĩ thế nào ông Pickwick cũng đi tới chỗ quyết định sẽ thách đấu súng với ông Magnus vì bị ông nọ sỉ vả quá đáng, và người yêu của bà có thể bị giết chết, bao nhiêu hy vọng kết hôn của bà thế là sẽ tiêu tan thành mây khói. Bổn phận của bà lúc này thật rõ ràng. Bà phải báo ngay tức khắc câu chuyện nguy hiểm này do ông Chánh án Tòa Hòa giải và van nài ông ta tìm cách ngăn chặn hai ông Pickwick và Magnus lại.
Ông George Nupkins, Thẩm phán Tòa Hoa giải thành phố Ipswich, đang trong tình trạng cáu kỉnh sáng hôm đó. Một đám nam học sinh của một trường trung học ngoại trú lớn nhất thành phố đã rủ nhau đập nát những tủ hàng của một người bán táo chẳng mấy ai biết đến tên tuổi ông ta, và đám học sinh còn ném hàng đống những quả táo thối lên người một cảnh sát viên khi ông này tìm cách ngăn chặn chương trình quậy phá của chúng. Ông Thẩm phán Nupkins xem đây như là một hành vi phỉ báng cá nhân, và ông ta vẫn còn đang giận sôi lên, khi bà Witherfield bước vào văn phòng ông.
- Tôi rất lấy làm tiếc phải báo cho ông biết một tin tức, thưa ông Chánh án - Người phụ nữ nói - sắp xảy ra một cuộc thách đấu súng tay đôi ngay trong thành phố của ông. Tôi vừa chứng kiến trận cãi nhau dữ dội của họ, và không còn nghi ngờ gì về vụ đấu súng cả.
Ông Nupkins nhướng cặp lông mày nhìn bà công dân với vẻ ngạc nhiên, rồi ra lệnh cho viên thư ký của mình ghi chép lại những gì bà ta kể.
- Được để tôi xem nào - Ông Nupkins vĩ đại nói khi người thư ký viết xong - Một trong hai kẻ thách đấu là Pickwick, với sự giúp đỡ của bạn hắn là Tupman. Kẻ bị thách đấu kia đã bỏ chạy rồi phải không?
- Vâng ạ. - Cô Witherfield trả lời dối.
- Tốt lắm - Ông Nupkins nói - Tôi sẽ giam hai tên này ngay bây giờ. Grummer - Ông đã quay sang gọi người cảnh sát trưởng của mình - thành phố lúc này yên tĩnh chứ?
- Vâng thưa ngài - Ông cảnh sát trưởng Grummer trả lời - bọn trẻ đã bỏ đi đá bóng rồi ạ.
- Vậy, hãy mang theo mấy người để giúp anh, và bắt ngay những tên nguy hiểm ấy cho tôi.
Khi Grummer và người của ông ta đến lữ quán Thiên Thần, ông Pickwick và các bạn ông vừa ngồi vào bàn để ăn trưa trong căn phòng dành riêng cho họ. Đúng ra, khi ông Pickwick đang thuật lại dở dang câu chuyện phiêu lưu bất đắc dĩ đêm qua của mình cho mấy ông kia nghe, thì một người lạ mặt bước vào mà chẳng thèm gõ cửa và bắt đầu hành động một cách kỳ cục. Trước hết ông ta khóa trái cửa lại, rồi ông ta lấy cái nón trên đầu xuống đặt lên một cái ghế dựa, rồi lau cái đầu hói của mình với một chiếc khăn tay đã có vết mồ hôi lốm đốm; và sau tất cả những hành động đó, ông ta rút từ túi áo ra một cây gậy ngắn một đầu có gắn chiếc vương miện bằng vàng, quơ qua quơ lại cây gậy trước mặt ông Pickwick.
- Nhân danh pháp luật - Grummer tuyên bố với giọng thật nghiêm khắc - tôi bắt giữ một người tên Pickwick và một người tên Tupman về tội phá rối nền trị an của Hoàng thượng Đúc Vua chúng ta.
- Này ông thô bỉ kia - Ông Tupman quát lớn và đứng bật dậy từ cái ghế - Cút khỏi phòng này ngay!
Grummer mở khóa cửa và nửa tá cảnh sát còn lại ùa vào phòng. Ông Pickwick và các bạn ông rất tức giận vì bị phá bĩnh bữa ăn trưa, và họ quyết chống lại vụ bắt giữ nhưng khi cả đám cảnh sát cùng đưa cao những cây dùi cui có gắn vương miện bằng vàng của họ lên, nhóm ông Pickwick lại quyết định sẽ êm thắm đi theo họ.
Tại lối ra vào trước lữ quán, họ đụng đầu Sam Weller. Anh chàng vừa khám phá ra chỗ ở của gã kép hát Jingle, nên vội vàng chạy về để báo cái tin sốt dẻo ấy cho ông chủ Pickwick biết. Khi trông thấy ông chủ kính yêu của mình bị dẫn đi bởi những tay cảnh sát trông có vẻ tầm thường và thô lỗ, Sam quyết định can thiệp ngay.
- Tất cả những chuyện này là cái gì vậy, anh bạn mập của tôi? - Sam hỏi khi Grummer tìm cách xô anh chàng sang một bên để lấy lối đi.
- Đứng lùi lại! - Grummer quát, một tay nắm cổ áo Sam, tay vung vẩy cây dùi cui có gắn vương miện bằng vàng.
Không nói không rằng, Sam nện cho hắn một quả nằm bẹp gí trên mặt đất, rồi anh chàng nện một quả nữa và một cảnh sát viên khác cũng nằm thẳng cẳng, làm bạn với xếp của anh ta. Ông Winkle, và cả ông Snodgrass có dáng vẻ như một nhà thi sĩ, cũng bắt đầu cởi áo khoác ra, như thể họ cũng sẵn sàng tham gia chiến đấu, nhưng trước khi họ có thể làm thêm một hành động nào khác, cả hai ông này và Sam đã bị đám cảnh sát còn lại tóm gọn và giữ chặt, hết cục cựa.