Số lần đọc/download: 0 / 7
Cập nhật: 2020-10-27 20:23:45 +0700
Chương 15
A
rkady tìm thấy Bobby Hoffman đang ngồi cùng chiếc đèn bão ở sân sau hoang vu với đám hoa hồng dại và cây bụi gai góc vươn mình vào bóng tối. Ai đó đã từng nuôi ong trong khu vườn và đàn ong vẫn đang phát triển mạnh; hàng chục con bị thu hút bởi ánh sáng từ chiếc đèn dù lúc này đã muộn. Anh ta để mặc một con ong bò từ mu bàn tay này sang mu bàn tay kia rồi vờn quanh ngón tay như đang nghịch một đồng xu, trong khi vài con khác đang lang thang trên mũ.
“Bố tôi nuôi ong ở Long Island. Đó là sở thích của ông ấy. Ông thường không đeo mặt nạ cho người nuôi ong, chỉ thi thoảng thôi. Vào mùa đông lạnh giá, ông lái xe đưa chúng tới Florida. Tôi thích những chuyến đi đó. Xì gà lạnh ngắt ở khóe miệng ông. Ông không bao giờ hút thuốc lúc ở gần bầy ong. Hàng xóm thường phàn nàn, ‘Anh Hoffman, nếu bị chúng chích thì sao?’. Và bố tôi sẽ nói, ‘Anh yêu hoa, anh thích táo, anh thích đào phải không? Vậy sao anh lại xua đuổi lũ ong chứ?’. Một năm, nhằm làm rõ quan điểm của mình, ông sai tôi đi khắp hàng xóm để thu tiền của mọi người tùy thuộc vào số hoa và cây ăn quả họ có, kiểu như chúng tôi sẽ đi đốn cây cho họ ấy. Tôi cũng thay đổi vài thứ. Khi tôi làm lễ trưởng thành theo đạo Do Thái năm mười ba tuổi, ông đưa tôi tới Copa. Một câu lạc bộ. Mọi người ai cũng biết ông; cao to, giọng nói sang sảng. Ông yêu cầu một cô gái trong đội đồng ca ngồi vào lòng tôi và tặng cho cô ta một cái kẹp áo hình con ong với đôi mắt gắn kim cương. Ông làm đủ mọi thứ. Nếu ông thích anh, anh sẽ được ở lại. Nếu không, anh sẽ bị nhừ đòn. Trong một chuyến đi về phía Nam, một cặp đôi da trắng thấy biển số xe của chúng tôi và hỏi có phải tôi là thằng bé Do Thái New York không. Ông đã đánh họ gần chết. Viên quản lý nhà nghỉ đã phải kéo ông ra. Đó là lòng trung thành. Lần đầu tiên gặp Pasha, tôi đã thốt lên, ‘Jesus ơi, ông giống hệt ông già tôi’.”
“Chúng ta phải đi,” Arkady nói.
“Ông già tôi cực thích người Ireland. Họ tưởng ông ấy là người Ireland vì ông có thể uống rượu, ca hát và đánh nhau. Phụ nữ ư? Họ giống như lũ ong. Bị quyến rũ. Mẹ tôi từng nói, ‘Vậy là anh ở cùng những người phi Do Thái hả?’. Bà rất sùng đạo. Buồn cười là, ông ấy lại cực kỳ nghiêm khắc về chuyện tôi phải đến nơi đào tạo về giáo luật cho tín đồ Do Thái chính thống. Ông nói, ‘Bobby, điều làm cho dân tộc Do Thái đặc biệt là chúng ta không chỉ thờ phụng Chúa mà còn có hợp đồng với Người. Đó là kinh Toran. Hãy tìm ra những thỏa thuận trong đó và con có thể tìm ra thỏa thuận trong bất kỳ điều gì’.”
“Giục anh ta đi.” Yakov quan sát con đường.
Arkady nói, “Ozhogin đang đến. Tôi nhận được cuộc gọi của công tố viên Zurin, lệnh cho tôi phải trở về Matxcova gấp. Ông ta sẽ rất sung sướng nếu tôi bị kẹt ở đây mãi mãi, và lý do duy nhất ông ta đột nhiên vội vã buộc tôi về là: Đại tá Ozhogin đang trên đường tới đây.”
“Còn nhớ viên đại úy chứ?” Yakov nói.
“Đại úy Marchenko ở quán cà phê ấy?” Arkady nhắc Bobby. “Người muốn đưa anh đi tham quan ấy? Tôi nghĩ trí não anh ta đã bắt đầu hoạt động. Tôi đoán anh ta đã gọi cho Ozhogin và từ giọng nói gấp gáp của ông ta, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Ozhogin yêu cầu đi bằng trực thăng riêng của công ty để đến đây gặp anh. Không phải để bắt anh; vì nếu làm thế họ sẽ chẳng điều tôi về. Bobby, anh đã biến Ozhogin thành tên ngốc. Đối với đại tá, làm nhục luôn được hiểu theo nghĩa khác. Ông ta là người có thể bẻ gãy tay hoặc xương người khác đấy. Đó là vấn đề tự trọng.”
“Ông ta muốn đánh Bobby à?” Yakov hỏi. “Chúng ta có thể cho ông ta gặp Bobby mười phút. Một chút đau đớn…”
Bobby khẽ cười để không làm kinh động lũ ong trên mũ. “Ông ta sẽ không bay từ Matxcova đến chỉ để NỆN một gã Do Thái mười phút đâu.”
Arkady nói, “Cũng không chỉ để trừng phạt thôi đâu, sẽ là mối đe dọa với NoviRus chừng nào anh còn tự do đi lại được. Ông ta tới để đưa anh về Matxcova và sẽ có một cuộc nói chuyện dài trong một cái lều nhỏ ở đó.”
Bobby nhún vai, Arkady bàng hoàng nhận ra, càng ngày Bobby càng trở nên tin vào định mệnh hơn. Arkady tự hỏi, nếu Ozhogin sắp đến đây cũng không làm anh ta bận tâm thì chuyện gì mới có thể chứ.
“Đấy mới chỉ là phỏng đoán của anh thôi,” Bobby nói. “Anh cũng không có bằng chứng gì cho thấy đại tá đang đến đây.”
“Anh muốn chờ và tự mình kiểm chứng sao? Nếu tôi nhầm, anh chỉ rời Khu vực cấm sớm một ngày thôi. Còn nếu tôi đúng mà anh vẫn ở lại thì ông ta sẽ tìm ra anh.”
“Ông ta sẽ giết tôi.”
“Này, có chuyện gì xảy ra với Bobby Hoffman khó hiểu trước đây thế?”
“Anh ta đã quá mệt mỏi rồi.”
Yakov hỏi, “Chuyện gì xảy ra với bố anh?”
“Nhà tù đã giết chết ông ấy. Chính phủ liên bang ném ông vào đó để bắt ông khai ra bạn bè mình. Ông là một con người độc lập và không khai báo bất kỳ ai, vì thế chúng giam giữ ông suốt nhiều năm liền. Trong sáu năm đó, ông bị mắc tiểu đường và tuần hoàn máu kém. Nhưng có được điều trị tử tế không? Không đời nào. Những căn bệnh bắt đầu ăn mòn ông, một chân rồi sang chân kia. Chúng biến một người to lớn như bố tôi thành lùn tịt, nhỏ xíu và những lời cuối cùng ông nói với tôi là, ‘Đừng bao giờ để chúng tống con vào tù hoặc bố sẽ đội mồ sống dậy để đánh đuổi lũ khốn đó khỏi con’, đại khái là thế. Mỗi khi nghĩ về ông, tôi lại nhớ đến ông trước khi bị bắt giam và bất cứ khi nào nhìn thấy đàn ong, tôi biết bố tôi sẽ nói gì, ‘Anh chàng tí hon này định đi đâu? Hoa táo hả? Cây lê? Hay chỉ vo ve dưới ánh mặt trời?’.”
“Nhưng không phải chỉ ngồi đợi để bị tống vào tù,” Arkady nói.
Bobby chớp mắt. “Chính xác.”
“Tới lúc phải đi rồi, Bobby.”
“Có cách khác chứ?” Một nụ cười uể oải nhưng tỉnh táo.
“Phải, còn cách khác.”
“Anh có chỗ nào giấu chúng tôi không?”
“Phòng tập thể của tôi. Chỉ cần đi bộ một đoạn ngắn và trời thì đang tối.”
“Chúng ta không đi ô tô à?”
“Không. Tôi cho là bây giờ xe của anh sẽ không được phép qua trạm kiểm soát.”
“Ozhogin đã gọi cho phòng chỉ huy à?”
“Ozhogin muốn anh vẫn ở đây lúc ông ta tới.”
“Sao anh lại làm chuyện này? Nó có ích lợi gì cho anh?”
“Một sự giúp đỡ nhỏ.”
“Có qua có lại. Tôi sẽ đền đáp anh.”
“Chính xác. Tôi muốn anh xem thứ này.”
Bobby gật đầu. Anh ta nhẹ nhàng thổi con ong ở tay đi, đứng lên phẩy nhẹ vài con bám ở áo, bỏ mũ xuống và cẩn thận gạt bọn ong ở vành mũ.
Arkady dẫn Bobby và Yakov đến căn phòng sát phòng anh, mơ hồ nghe tiếng reo hò từ sân vận động rồi gõ cửa.
Không ai trả lời, Arkady sử dụng thẻ Starbuck cạy cửa. Giáo sư Campbell đang ngồi trên ghế, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống ngực, cứng đờ như xác ướp, một chai rượu rỗng lăn dưới chân. Những chai rỗng trên bàn phản chiếu ánh sáng hắt ra từ màn hình ti vi chiếu một trận bóng đá đang vào lúc gay cấn, cổ động viên đội nhà lắc lư, hát vang bài hát chiến đấu.
Arkady lắng nghe hơi thở sâu và đầy hơi rượu của Campbell.
“Chết hay say rượu?” Bobby hỏi.
“Có vẻ ổn,” Yakov đáp.
Bobby ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Campbell để xem trận đấu. Đó là cuốn băng ghi lại trận đấu của hai đội Anh chơi theo chiến thuật đào hào, không rườm rà kiểu Mỹ Latin. Arkady cực kỳ nghi ngờ rằng Bobby Hoffman là một người hâm mộ bóng đá; giống như Bobby biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Arkady lấy cuốn băng ra.
“Có đĩa bóng chày nào không?” Bobby hỏi.
“Tôi có cái này,” Arkady nhét cuốn băng của Vanko vào đầu đọc và nhấn nút Play.
Chernobyl, ban ngày, ngoài trời: tại ngã tư quán cà phê, siêu thị quân đội* và khu tập thể, được quay bằng máy cầm tay. Bầu trời, đài tưởng niệm lính cứu hỏa, bức tượng Lenin mặc áo vét phanh ngực, cây cối tràn ngập màu xanh non đầu xuân. Cảnh quay từ xa cho thấy một chiếc xe buýt đang quanh co đi tới, gập ghềnh lên xuống và dần dần hiện ra cả một đoàn xe buýt. Đoàn xe dừng lại trước khu tập thể và thoạt nhìn, tưởng như hàng trăm gã đàn ông có râu, mặc đồ đen và đội mũ giống nhau đang xuống xe, đi tới đi lui. Nhìn kỹ lại thì họ thuộc đủ các độ tuổi, bao gồm cả những cậu bé với mái tóc xoăn nhẹ. Và một chiếc xe buýt riêng chở toàn phụ nữ mang khăn trùm đầu. Một cặp dân quân tự vệ với vẻ mặt sưng sỉa của những người bị tước quyền sở hữu. Cảnh quay gần hơn cho thấy đại úy Marchenko đang bắt tay và chào đón một người mà nét mặt ông ta đã bị bộ râu che khuất.
“Cuốn băng này được Vanko quay năm ngoái,” Arkady nói.
Một cuộc diễu hành vô tổ chức với những lời thì thầm bằng tiếng Do Thái và Anh Mỹ chật kín con đường, tràn lên vỉa hè, cố không đi quá xa trước các vị trưởng lão với bộ râu rậm tỏa ra như những sợi vải bị xổ. Họ tới từ Israel và New York, Yakov lên tiếng, đó là nơi hiện tại những người Do Thái từng sống ở Chernobyl chuyển đến. Hình ảnh bị rung nhẹ lúc Vanko chạy lên phía trước. Chuyển tới cảnh quay trong boong-ke nơi đặt quan tài của giáo trưởng. Giáo trưởng Nahum của Chernobyl, Yakov thuyết minh. Giáo trưởng Nahum là kiểu người thấy Chúa ở mọi nơi. Ngôi mộ bị đám khách thăm viếng vây quanh, dõi theo một ông già như bị mắc chứng viêm khớp đang tháo giày và ồ lên thích thú lúc ông ta bước vào. Yakov nói một quan tài là của giáo trưởng Nahum, cái còn lại là của cháu ông ta, cũng là một giáo trưởng. Arkady nhớ lại không gian trong hầm mộ chật chội đến thế nào nhưng nó vẫn đang nuốt từng người, từng người, đi chân đất với biểu hiện như đi trong không khí. Một đám đông ngây ngất và kia rồi, ở ngoài rìa, Bobby trong bộ đồ và mũ đen, nhưng không có râu để che giấu vẻ mặt đau đớn.
Arkady tự hỏi những giáo trưởng khác đâu, còn sống hay đã chết, có thể đáp ứng kỳ vọng hiện lên trên những khuôn mặt đang chờ đợi tới lượt mình được vào không. Rất nhiều người mang theo một mảnh giấy và anh biết họ muốn cầu xin gì: sức khỏe cho người bệnh, sự thanh thản cho người sắp chết, an toàn khỏi những vụ bắn súng. Arkady chuyển chế độ chạy chậm để bắt cảnh Bobby chuẩn bị đến lượt mình đi vào rồi rời khỏi đoàn, đứng lặng bên ngôi mộ như hóa đá. Đối với những người khác, có cách thư giãn lạ lùng, như thể họ đang chơi đùa trong lòng ông nội. Đàn ông hát và nhảy, đặt tay lên vai người phía trước thành một hàng trườn qua trườn lại trên phố. Thắp lửa, Yakov nói. Bất kỳ hành động tốt nào đều là tia lửa Thánh. Bobby đứng ngoài và chỉ di chuyển để tránh máy quay. Mọi người lấy sandwich ra ăn. Bobby chợt biến mất. Vanko chuyển sang quay cảnh nhảy múa, tiếp tục thăm viếng ngôi mộ và cuối cùng là một hàng dài quay mặt ra bờ sông cầu nguyện.
Chất giọng bi ai của Yakov bỗng trở nên âm vang. “Y’hay sh’may raho m’vorah, l’olam ulolmay olmayo.” Và dịch lại. “Được ban phúc và khen ngợi, tôn vinh và tán dương, kính trọng và ca tụng, sùng bái và yêu mến là tên của Đức Thánh, cầu phúc cho Ngài.” Ông ta nói thêm. “Kinh Kaddish cầu nguyện cho người chết.”
Arkady lặp lại lời cầu nguyện. Trong lúc đó, màn hình thoáng hiện ra hình ảnh đơn độc của Bobby với đôi môi mím chặt. Sau đó, mọi người lên xe buýt, tổ chức lại đoàn xe rồi lăn bánh trở về Kiev, Arkady dừng lại ở hình ảnh Bobby ngồi cạnh cửa sổ, đầu gục trong tay. Arkady đã từng nhìn thấy những tòa nhà bị phá sập bằng cách cho nổ mìn, Bobby dường như cũng sụp đổ theo cách tương tự.
“Tại sao năm ngoái anh lại đến đây, Bobby?” Arkady hỏi. “Anh không viếng mộ, không hát, không nhảy múa hay cầu nguyện. Anh bảo tôi là tới để xem xét xử lý nhiên liệu lò phản ứng và chắc chắn anh đã không làm thế. Anh đến bằng xe buýt, rời đi bằng xe buýt nhưng chẳng làm gì, vậy tại sao anh lại ở đây?”
Bobby ngước lên, khuôn mặt anh ta đỏ bừng và ướt mèm.
“Pasha yêu cầu tôi.”
“Tới thăm ngôi mộ à?” Arkady hỏi.
“Không. Điều ông ấy muốn tôi làm là cầu nguyện, là đọc kinh Kaddish. Tôi bảo ông ấy tôi không làm những chuyện đó. Pasha bảo ‘đi đi, anh sẽ làm’. Ông ấy nài nỉ quá nhiều khiến tôi không thể từ chối. Nhưng tôi đã đến đây và chẳng vấn đề gì, chỉ là tôi không thể.”
“Tại sao?”
“Tôi đã không cầu nguyện cho bố tôi. Ông ấy chết trong tù nhưng vẫn muốn có người đọc kinh Kaddish, đặc biệt là tôi. Chỉ là lúc đó tôi đang chạy trốn do buôn bán cổ phiếu. Không quan trọng. Có điều tôi đã đánh mất cơ hội. Dù sao thì Chúa đã dành cho cha tôi cái chết khốn kiếp thế nào chứ? Nửa đời ông trong tù, một căn bệnh ăn mòn nửa thân thể, cướp ông khỏi vợ con ông - mẹ tôi và tôi. Vì thế tôi chẳng bao giờ đọc kinh hay làm lễ nữa. Tôi chỉ không thể làm thôi.” Bobby nhìn chằm chằm vào màn hình và phát ra âm thanh từ đáy lòng.
“Anh đã nói gì với Pasha lúc quay lại Matxcova?”
“Nói dối. Lời nhờ vả duy nhất ông ấy cầu xin tôi nhưng tôi đã làm ông ấy thất vọng. Và ông ấy biết.”
“Sao ông ta lại chọn anh?”
“Còn ai khác nữa? Tôi là người của ông ấy. Ngoài ra, có lần tôi đã kể với ông ấy là mình đã từng được đào tạo về giáo luật Do Thái. Chính tôi, Bobby Hoffman. Anh có tin không?”
Trước khi Bobby hoàn toàn rơi xuống đáy cảm xúc, Arkady muốn biết được sự thật. “Đám người hướng mặt ra sông để đọc kinh Kaddish cho những người Do Thái bị giết trong cuộc tàn sát phải không?” Tiếng ‘phải’ mệt mỏi vang lên. “Và chính vì thế mà Pasha Ivanov đã cử anh từ Matxcova tới tham dự à?”
“Phải là Chernobyl.”
“Để cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ thảm sát ở đây.” Ít nhất cũng có thể hiểu được.
“Không.” Từ sâu trong cổ họng, Bobby bật ra tiếng cười. “Anh không hiểu à. Pasha muốn đọc kinh Kaddish là vì Chernobyl, cho nạn nhân của vụ thảm họa.”
“Tại sao?”
“Ông ấy không nói. Tôi đã hỏi,” Bobby nói. “Và sau khi tôi trở về Matxcova, ông ấy không bao giờ nhắc đến nó nữa. Nhiều tháng trôi qua, dường như không có tổn hại gì và rồi Pasha lao mình qua cửa sổ, còn Timofeyev đến đây và bị cắt cổ.”
Chà, lúc đó đã có vài triệu chứng đáng lo ngại, Arkady thầm nghĩ. Cô lập, hoang tưởng, chảy máu mũi.
Bobby nói, “Đôi khi không hiểu sao, tôi tin là nếu mình cầu nguyện lúc Pasha yêu cầu thì ông ấy và Timofeyev sẽ vẫn còn sống.”
“Tại sao? Có ai theo dõi anh à?” Arkady hỏi. “Để xem anh có cầu nguyện không?”
“Ai có thể theo dõi chứ?”
“Máy quay.”
Bobby chìa cổ ra như con bò chờ đợi con dao hơn là nhìn thẳng vào ti vi. Arkady tự hỏi liệu Chúa có theo kịp công nghệ và liệu có máy chiếu dưới Địa ngục nơi những linh hồn khốn khổ có thể xem đi xem lại sự phản bội đáng xấu hổ của mình hay không.
“Anh có cho là nó có thể tạo ra bất kỳ khác biệt nào không?” Bobby hỏi.
“Tôi không biết.”
Không chút thương xót, Arkady đổi băng và bước ra hành lang với Yakov.
“Thông minh,” Yakov nói. Cặp mắt nhăn nheo của ông ta sáng rực dưới ánh trăng.
“Không hẳn. Tôi nghĩ Bobby đã cố nói với chúng ta về chuyện này từ lúc anh ta tới. Có lẽ đó chính là lý do tại sao anh ta đến đây.”
“Cậu thực sự có cách đưa chúng tôi ra khỏi đây chứ?”
“Tôi nghĩ tới một người.”
“Tin cậy được không?”
Arkady đánh giá tính cách của Bela. “Tham lam. Ông có bao nhiêu tiền?”
“Bất cứ thứ gì anh ta muốn nếu chúng tôi tới được Kiev. Còn bây giờ, khoảng hai trăm năm mươi đô.”
“Không nhiều.”
“Đó là tất cả tiền chúng tôi mang theo.”
Không đủ, Arkady nghĩ. “Vậy thì phải làm thôi. Trong trường hợp chúng ta không thể khởi hành trước khi Ozhogin đến và tôi không ở cùng ông, hãy giữ Bobby càng im lặng càng tốt và cởi giày anh ta ra. Điều quan trọng là đặt ông giáo sư người Anh này ngồi lên nhưng không quá cao, để ti vi chạy; chừng nào bà quản gia nghĩ ông ta ở đây thì bà ấy sẽ không vào đâu.”
“Cậu cũng dạy bà cậu cách mút trứng hả?”
“Xin lỗi.”
“Cậu biết Ozhogin không?”
“Một chút. Ông ta sẽ xem xét xe của ông và căn nhà trước. Rồi sẽ sục sạo khắp cánh đồng. Ông ta giống gián điệp hơn là cảnh sát, và thích hành động một mình. Có thể ông ta sẽ mang theo hai hoặc ba người. Điều ông ta muốn từ Marchenko là khóa các trạm kiểm soát lại. Tôi sẽ đi cùng các ông ra bên ngoài.”
“Không, tôi cũng hành động một mình.” Yakov tỏ ra hài lòng. “Ông không biết đại ta Ozhogin đâu.”
“Tôi biết cả trăm gã Ozhogin.”
Arkady trở về phòng, đóng gói đồ đạc, chỉ nhằm mục đích cho thấy anh đã tuân theo mệnh lệnh và rời khỏi phòng. Quyển sổ ghi chép các vụ án và quần áo vừa khít cặp tài liệu, còn túi đồ cá nhân vẫn thừa chỗ. Cả ngày đều có lịch bay tới Matxcova. Anh đã có lựa chọn. Nếu chạy đua anh có thể bắt kịp một chuyến và đến văn phòng công tố viên vào buổi trưa. Zurin sẽ phân công anh làm gì tiếp theo? Liệu có phải một vị trí cho điều tra viên cao cấp ở vùng băng vĩnh cửu không. Người Bắc Cực được cho là tràn đầy sinh lực và luôn sẵn sàng mỉm cười. Anh cũng vậy.
Anh nhận ra ở trên cùng tập tài liệu của anh là đơn xin vào làm cho NoviRus. Arkady kinh ngạc khi mình vẫn còn giữ nó. Anh xem lướt qua các cơ hội việc làm. Ngân hàng? Môi giới? An ninh hay Kỹ thuật chiến đấu? Nó cũng chẳng giúp gì được cho sự tự tin của anh để nhận ra mình không phải một tài năng được săn đón. Chắc chắn không phải là kỹ năng giao tiếp. Anh ước mình có thể bắt đầu lại đêm qua một lần nữa, đầu tiên là với cuộc gọi của Zurin, giải thích rõ với Eva anh sẽ làm gì. Không rời đi, chỉ giúp một tội phạm chạy trốn khỏi Khu vực cấm. Như thế có rõ ràng hơn không?
Arkady và Bela tản bộ trong bãi xe.
“Hai hành khách,” Arkady nói. “Ông đưa họ ra giống như những khách hàng bình thường.”
Bela che mắt như thể ánh bình minh sẽ gây đau mắt.
“Nhưng họ không phải khách hàng thường xuyên. Những điều bất thường khiến tôi lo lắng.”
“Vậy bán phụ tùng ô tô nhiễm phóng xạ thì có bất thường không?”
“Chỉ hơi nhiễm thôi. Tôi có đủ những lời sáo rỗng đó chất đầy mấy xe tải rồi.”
“Tôi chắc chắn thế.”
Mặt trời, trước tiên chiếu sáng những máy móc khổng lồ. Những chiếc máy nâng với kích thước như một con khủng long, máy ủi đất có bánh cao bằng cả một người, rồi đến xe cứu hỏa, xe tải và xe con, biến những mảng tối thành một hệ thống nghĩa địa rộng lớn. Ngoại trừ một điều, nghĩa địa này không chôn người và quá nguy hiểm để chạm vào bất cứ thứ gì.
Bela đã thức dậy và đang uống cà phê sáng trước màn hình kênh tin tức CNN lúc Arkady tới.
“Tôi luôn thích nghe dự báo thời tiết ở Thái Lan. Tôi tưởng tượng tiếng mưa rơi nhẹ nhàng trong lúc cô nàng người Thái giẫm lên lưng mình, dùng ngón chân xoa bóp nó.”
“Không phải cô nàng người Nga đi giày cao gót à?”
“Một bức tranh khác hẳn. Không nhất thiết là một bức tranh tồi. Tôi không phán xét ai. Thực ra, tôi luôn thích bức tượng phụ nữ thời Xô Viết với bắp tay lực lưỡng và bộ ngực nhỏ xíu.”
“Bela, ông đã ở đây quá lâu rồi.”
“Tôi đang nghỉ ngơi. Tôi đã đi khám bác sĩ. Tôi ổn.” Quy mô của bãi xe được đánh giá tốt nhất bằng đôi chân. Những hàng phương tiện độc hại kéo dài vô tận gợi nhắc về hàng trăm hàng ngàn chiến sĩ, những người đã chất lên chúng những mảnh vỡ đầy phóng xạ. Xe thì ở đây? Còn họ thì ở đâu? Chẳng ai thèm quan tâm.
“Hãy rời đi lúc ông còn khỏe mạnh.”
“Tôi có thể. Tôi nên gặt hái thành quả lao động của mình, không phải sống trong nghĩa địa của một vùng đất chết. Tình hình với đại úy Marchenko đã trở nên quá sức chịu đựng, gã khốn ấy luôn cố làm cho tôi bị sa thải.”
“Đã bao giờ anh ta bắt xe tải của ông phải dừng chưa?”
“Anh ta không dám đâu. Tôi có nhiều bạn bè ở cấp cao hơn anh ta nhiều, bởi vì tôi rất hào phóng và rải tiền khắp nơi. Trong lúc anh cân nhắc, tôi còn có việc hay ho phải làm. Tôi là người duy nhất trong Khu vực cấm có thứ hay ho để làm. Tôi đang có vị trí khá ngon lành.”
“Ông đang ở giữa một bãi chứa phóng xạ.”
Bela nhún vai, “Đúng, và tại sao tôi phải mạo hiểm vì hai người xa lạ?”
“Vì năm trăm đô la mà ông không cần phải chia chác cho ai.”
“Năm trăm à? Nếu anh gọi một con taxi từ Kiev, anh sẽ bị tính phí cả hai chiều, hai người cùng hành lý. Một trăm đô la. Và anh ta sẽ không thể vượt qua các trạm kiểm soát.”
“Ông định vận chuyển gì hôm nay?”
“Một khối động cơ. Tôi có một con xe tải được trang bị đặc biệt với ghế phụ dành cho hành khách.”
“Vậy họ sẽ trở thành hai hành khách đi cùng, như thường lệ.”
“Nhưng tôi ngửi thấy mùi tuyệt vọng. Tuyệt vọng nghĩa là nguy hiểm và nguy hiểm nghĩa là tiền. Chúng ta là bạn bè, nhưng làm ăn là làm ăn. Một ngàn mỗi người.”
“Năm trăm cho cả hai. Dù sao thì ông cũng đi. Câu hỏi thực sự là tại sao ông lại trở về?”
Bela dang rộng hai tay. Dây đeo cổ và huy chương kêu leng keng. “Nhìn đi. Tôi có hàng ngàn phụ tùng chưa được bán.”
“Bởi vì ông đang hói dần.”
“Không đúng.”
“Nhìn vào gương đi. Có thể nó bình thường và chẳng có gì đáng lo ngại.”
Bela chạm vào chân tóc và bật cười. “Thật hài hước. Anh đã bắt thóp tôi hai lần.”
Arkady nhún vai. “Và phần đàn ông vẫn bình thường?”
“Phải!”
“Năm trăm đô để chở cả hai đến Kiev, cho một chuyện ông vẫn thường làm mà không được đồng nào. Một nửa lúc lên xe và một nửa khi đến nơi, nhưng phải đi ngay.”
“Ngay lập tức à? Chúng tôi đang kéo động cơ, chưa xong. Với hai ngàn, chúng tôi có thể sẽ đẩy nhanh tiến độ.” Bela liếc nhìn gương chiếu hậu một chiếc xe lúc họ đi ngang qua.
“Khô miệng à?”
“Bụi, gió luôn thổi tung chúng lên.”
“À, ông biết rõ hơn tôi. Chỉ là mọi người thay phiên nhau làm ở đây ngoại trừ ông. Tôi không muốn thấy ông ôm một đống tiền trong một tay, còn tay kia là ống truyền đâu.”
“Đừng giảng bài cho tôi. Tôi sống ở đây rất nhiều năm trước khi anh xuất hiện, bạn của tôi.” Bela phủi bụi khỏi tay áo.
“Ý tôi chính xác là thế đấy.”
“Chuyển chủ đề đi!”
Họ rẽ vào góc đường nơi đỗ đầy xe tải hạng nặng. Trong hàng trăm cửa kính xe tải, một vầng mặt trời màu cam đang nhô dần lên, giống như giọt mưa đập vào và bắn tung theo chiều ngược lại. Cách nửa hàng xe, hàng loạt tia lửa đang bắn xung quanh người thợ hàn.
“Một ngàn rưỡi.” Bela lại vuốt tóc lần nữa.
“Tôi ghét mặc cả,” Arkady nói. “Sao chúng ta không làm thế này nhỉ? Rửa sạch cái lược của ông và chải tóc. Chúng ta sẽ bắt đầu từ năm ngàn. Không, từ mười ngàn và với mỗi sợi tóc dính trên lược, chúng ta sẽ trừ đi một ngàn.”
“Nếu thế, tôi chẳng còn xu nào.”
“Đấy là chúng ta chưa nói đến việc ông đang bán trái phép tài sản của nhà nước.”
“Chúng bị nhiễm phóng xạ.”
“Đó không phải là tình tiết giảm nhẹ.”
“Anh quan tâm làm gì? Chúng là của nhà nước Ukraine. Và anh là người Nga.”
“Tôi sẽ tố cáo ông.”
“Tôi đã tin tưởng anh.”
“Phụ thuộc vào ông.”
“Năm trăm.”
“Đồng ý.”
Để tránh cho động cơ nhiễm phóng xạ bị dịch chuyển, những chiếc xe tải Kamaz loại lớn đều được hàn kín mui. Thợ hàn của Bela, với mặt nạ và bộ bảo hộ lao động liền quần, đang cắt mui của một chiếc xe bằng đèn xì acetylene. Một xe nâng móc và cần cẩu đứng cạnh để nhấc động cơ V8 lớn ra ngoài, rồi anh ta sẽ hàn mui lại, khóa kín tội ác của mình. Anh ta có thể dùng xà phòng và vòi máy tẩy sạch bụi carbon nhưng làm sao rửa được phóng xạ chứ? Chính xác nó ở đâu? Một hạt bụi ẩn trong ống dẫn? Lẻn vào que thăm nhớt? Trượt vào một đường ống nào chăng? Arkady kiểm tra máy đo, cao gấp hai lần bình thường. Nhưng, như thế nào mới là bình thường?
Dù không chợp mắt chút nào, nhưng Arkady vẫn rất phấn khích. Chiếc xe máy lao vun vút. Mọi thứ đều đã nằm trong tầm kiểm soát. Thay vì đi thẳng về khu tập thể, Arkady lại vòng về căn nhà nhỏ của Eva để giải thích với cô rằng sau khi báo cáo với Matxcova, anh sẽ trở lại trong vòng một hoặc hai ngày tới. Cho dù anh không được phép quay lại Khu vực cấm, họ vẫn có thể gặp nhau ở Kiev. Cô cố chấp. Anh cũng cố chấp. Cả hai người cùng cố chấp. Họ có thể cố gắng “giả vờ vẽ lên một tương lai tươi sáng,” như các biểu ngữ vẫn viết. Hoặc đấu tranh hoặc giải tán, như mọi người khác. Anh hình dung trước toàn bộ cuộc đối thoại.
Lúc Arkady rẽ vào căn nhà, anh thấy con xe tải Toyota của Alex trong gara và khi bước tới cánh cửa lưới, anh nghe thấy tiếng ẩu đả bên trong. Âm thanh có vẻ khác lạ, ngăn cản anh lập tức phá cửa chạy vào. Không có người ở phòng ngoài, không ai chơi đàn piano hay sắp xếp giấy tờ trên bàn. Anh không nghe thấy tiếng nói chuyện, chỉ có tiếng rên rỉ và âm thanh như đồ nội thất bị kéo lê trên sàn.
Arkady bước tới cửa sổ phòng ngủ và trông thấy Alex cùng Eva qua khung cửa sổ. Họ đứng cạnh nhau. Áo choàng tắm của cô đã bị mở ra, anh ta ấn cô dựa vào bàn trang điểm. Cô như con búp bê mềm oặt bám lấy, vòng tay ôm chặt cổ anh ta trong lúc anh ta liên tục vào ra trong cô, một điệu nhảy kỳ lạ ở đúng nơi Arkady và Eva vừa nhảy điệu valse đêm qua. Lạ lùng ở chỗ là mọi thứ vừa giống nhau mà lại khác nhau đến thế. Alex túm tóc kéo Eva lại gần để hôn cô, và khi đầu hướng về trước, cô đã nhìn thấy Arkady ngoài cửa sổ. Cô mím môi, bỏ tay ra để ra hiệu anh đi đi. Bàn trang điểm, tiếng xô đẩy, bút lông đổ, khung ảnh, chai nước hoa. Alex nhìn thấy Arkady qua chiếc gương bàn trang điểm và càng thúc vào Eva mạnh mẽ hơn. Trong lúc cô bị rung lắc, Eva phờ phạc nhìn Arkady. Arkady chờ đợi vài tín hiệu từ cô, bất cứ lý do gì để anh có thể can thiệp, nhưng cô nhắm nghiền mắt, gục đầu lên vai Alex.
Arkady quay lại xe, cảm thấy ngu ngốc một cách nhục nhã. Một ngày là quá sớm để đối mặt với nó. Rõ ràng, Eva đã không hy vọng anh quay lại. Dù sao anh cũng cảm thấy có chút bất ngờ. Và dường như thốt ra lời từ biệt. Anh cảm nhận cơn giận dữ tràn ngập trong mình, dù anh không chắc mình tức giận với ai. Anh đã hiểu tại sao các cuộc tranh cãi trong gia đình lại kết thúc tồi tệ như thế.
Sao anh vẫn còn ở đây? Anh tới Khu vực cấm để điều tra cái chết của một doanh nhân người Nga, cứ cho là cuộc điều tra không mang lại kết quả, nhưng là trên mặt lý thuyết. Tồi tệ hơn là anh lại giúp đỡ Hoffman chạy trốn lần nữa. Nhưng chẳng có lý do gì thỏa đáng cho sự dính líu của anh với Eva. Hoặc sự mù quáng của anh.
Alex bước ra từ cửa lưới, đóng lại sơ vin và cài thắt lưng, tỏ ra mình là người đàn ông của ngôi nhà đang phải đối phó với vị khách không mời.
“Than ôi, Renko tội nghiệp, tôi hiểu rõ anh ta. Xin lỗi vì đã để anh thấy chúng tôi như vậy. Tôi biết nó rất đau đớn.”
“Tôi không biết anh sẽ ở đây.”
“Tôi nghĩ anh đã đi rồi. Với lại, sao không chứ? Cô ấy vẫn là vợ tôi.”
“Anh cưỡng hiếp cô ấy à?”
“Không.”
“Cô ấy có phản đối không?”
“Không. Anh tự hỏi đi.” Alex quay lại nhìn căn nhà. “Thật tuyệt. Giống như ở nhà vậy.”
Arkady tới cánh cửa. Lúc anh định bước vào, Eva liền chốt cửa và lùi vào giữa phòng khách nhỏ.
“Cô ấy sẽ vượt qua được thôi,” Alex nói. “Eva cứng cỏi hơn vẻ bề ngoài. Khi anh đi rồi, mọi chuyện sẽ trở lại bình thường.”
“Cái gì có thể trôi qua bình thường ở Khu vực cấm chứ?”
“Chính xác.”
Arkady đập cửa rầm rầm và gọi tên cô. Anh định phá cửa nhưng cô lắc đầu nói, “Không liên quan đến anh.”
“Anh đang làm phiền cô ấy đấy,” Alex nói.
“Em có bị thương không?” Arkady hỏi.
Eva đáp, “Không.”
“Anh cần nói chuyện với em.”
“Đi đi, xin anh đấy!” Eva đáp vọng ra.
“Anh cần…”
Đây chính xác là tình huống mà cảnh sát ghét nhất trên đời. Hai gã đàn ông bắt đầu vật lộn trên mặt đất, một chiếc xe máy đã khởi động và một phụ nữ thổn thức trong nhà. Khẩu súng trong tay Alex là bước leo thang tiếp theo. Anh ta gí súng vào thái dương Arkady rồi nói, “Chúng ta đã hiểu nhau, anh và tôi. Anh đến đây vì một vụ điều tra. Tốt, cứ điều tra. Mọi câu hỏi anh muốn. Nhưng để Eva yên. Tôi sẽ chăm sóc Eva. Cô ấy cần người đáng tin cậy, người ở cạnh cô ấy ngày mai và những ngày tiếp theo. Giờ thì về Matxcova đi và không ai bị tổn hại cả.”
“Em thấy cô đơn,” Eva nói. Cô bước tới sau lớp cửa lưới mờ ảo. “Em gọi cho Alex và bảo anh ấy đến. Đó là ý của em.”
“Thế thôi à?”
Alex nói, “Cô ấy đã bằng lòng.”
“Em… nhượng bộ.” Khi nói những lời cuối, cô rút lui khỏi tầm nhìn.
“Thế đã đủ chưa?” Alex hỏi. “Vậy kết thúc ở đây nhỉ?
Chúng ta vẫn có thể là bạn bè. Chúng ta sẽ gặp nhau trên đường phố Matxcova, nhớ tới buổi tiệc samogon say mèm và giả vờ chúc nhau khỏe mạnh. Được chứ?”
Alex đứng lên trước, nhét khẩu súng loại 9mm vào sau lưng. Arkady từ từ đứng lên theo.
“Một câu hỏi.”
“Điều tra viên đã trở lại, tuyệt vời.”
“Họ đã gọi điện cho ai?”
“Ai gọi cho ai?”
“Trong bữa tiệc samogon, anh đã dựng một vở hài kịch về các kỹ thuật viên trong phòng điều khiển, cách họ đã thổi tung lò phản ứng và phải báo cáo với Matxcova. Họ đã điện cho ai ở Matxcova?”
“Anh tò mò à? Có quan trọng gì?”
“Ai?”
“Nếu nó quan trọng thì đó là cả một dây chuyền. Bộ trưởng Bộ năng lượng, Giám đốc xây dựng nhà máy điện hạt nhân, Bộ trưởng Bộ y tế, Gorbachev*, Bộ chính trị.”
“Và họ đã gọi ai? Người được tôn trọng với kinh nghiệm trực tiếp về thảm họa hạt nhân. Tôi đoán là họ đã gọi cho Felix Gerasimov. Họ đã gọi cho bố anh.”
“Chỉ là suy đoán.”
“Có thể kiểm chứng nó.”
Alex có vẻ đang cân nhắc một loạt phản ứng. Với vẻ tự chủ, anh ta dựng xe của Arkady lên, phủi bụi dính ở yên xe. “Chúc về nhà an toàn, Renko. Hãy cẩn thận.”
Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu Arkady. “Anh nói anh hiểu rõ tôi. Anh có hiểu Eva không?”
Alex mỉm cười. “Tôi nói tôi sẽ không làm tổn thương anh.”