Nguyên tác: The Golden Compass
Số lần đọc/download: 6791 / 190
Cập nhật: 2014-12-06 13:57:07 +0700
Chương 14 - Ánh Sáng Bolvangar
V
iệc những người Gypsy không nghe thấy bất cứ tin tức gì về bà Coulter khiến Farder Coram và John Faa lo lắng hơn nhiều so với mức họ để lộ ra cho Lyra thấy. Nhưng họ không biết là chính cô cũng rất lo lắng. Lyra sợ bà Coulter và thường xuyên nghĩ đến bà. Trong khi Ngài Asriel giờ đã được coi là “cha” thì bà Coulter chưa bao giờ trở thành “mẹ.” Nguyên nhân cho việc đó là do con nhân tinh của bà, con khỉ vàng, đã khiến Pantalaimon vô cùng ghê sợ vì đã lục lọi những bí mật của cô, đặc biệt là bí mật về chân-kế.
Và họ đang đuổi theo cô; thật ngớ ngẩn nếu nghĩ khác. Sinh vật bay do thám đã minh chứng cho điều này.
Những khi kẻ thù thực sự tấn công, đó lại không phải là bà Coulter. Những người Gypsy đã dự định dừng chân để lũ chó nghỉ ngơi, sửa chữa mấy chiếc xe trượt và chuẩn bị vũ khí sẵn sàng cho một cuộc tiến công vào Bolvangar. John Faa hi vọng Lee Scoresby có thể tìm thấy khí gas trong lòng đất để bơm vào quả khí cầu (vì lúc này ông có hai quả) và bay lên thám thính trước. Nhưng người lái khinh khí cầu quan sát thời tiết tỉ mỉ như một thủy thủ, rồi ông nói trời sắp có sương mù; và quả thật vậy, ngay khi họ vừa dừng lại, sương mù dày đặc đã bao trùm mọi thứ. Lee Scoresby biết ông sẽ chẳng nhìn thấy gì từ trên cao, vì thế ông đành tự hài lòng với việc kiểm tra lại các dụng cụ của mình, dù nó đã được sắp xếp rất cẩn thận.
Thế rồi, không có một dấu hiệu nào báo trước, một loạt tên bay đến từ bóng tối.
Ba người đàn ông Gypsy ngã xuống tức thì, và chết lặng lẽ đến mức không ai nghe thấy. Chỉ đến khi họ ngã vật xuống chiếc xe kéo, những người ở gần nhất mới phát hiện điều đang diễn ra. Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn, vì những mũi tên khác đã bay đến nhằm vào họ. Một số người nga63ngle6n, bối rối trước âm thanh những mũi tên bay vun vút cắm vào gỗ hay vải dầu đông cứng.
Người đầu tiên tỉnh trí lại là John Faa, ông hét to mệnh lệnh từ giữa đoàn người. Những bàn tay lạnh cóng và những đôi chân tê cứng chuyển động làm theo lệnh trong khi loạt tên khác vẫn lao tới như mưa, những hạt mưa mang mầm chết chóc.
Lyra đang ở ngoài, những mũi tên bay vù vù trên đầu cô. Pantalaimon nghe thấy tiếng động trước cô, liền biến thành một con báo và đẩy cô ngã xuống, thu nhỏ mục tiêu nhằm vào cô. Vừa phủi tuyết khỏi mắt, cô vừa lăn qua lăn lại để gắng xem chuyện gì đang xảy ra, vì màn không khí tranh tối tranh sáng dường như bị nhấn chìm trong náo loạn ầm ĩ. Cô nghe thấy một tiếng gầm sấm dội, tiếng lanh canh và loảng xoảng từ bộ áo giáp sắt của Iorek Byrnison khi nó nhảy qua những chiếc xe trượt vào trong màn sương, tiếp theo đó là những tiếng gào thét, gầm gừ, tiếng nhai nuốt và cào xé, những cú đòn ghê gớm, những tiếng thét hoảng hốt và tiếng gầm vang cuồng nộ khi nó đi qua.
Nhưng chúng là ai? Lyra vẫn chưa nhìn thấy bóng một kẻ thù nào. Những người Gypsy đang tụ lại để bảo vệ những chiếc xe, nhưng đến cả Lyra cũng có thể nhận thấy như thế càng khiến họ dễ dàng thành mục tiêu hơn. Những khẩu súng trường quả thật không dễ khai hỏa bằng đôi tay đeo găng hay bao tay. Cô chỉ nghe bốn hay năm phát súng chống chọi lại những cơn mưa tên vẫn đang ào ào trút xuống. Mỗi phút trôi qua lại có thêm người ngã xuống.
Ôi, John Faa! Cô đau đớn nghĩ. Ông đã không lường trước được chuyện này, cháu đã không giúp được ông.
Nhưng cô không có thêm một giây để suy nghĩ, vì Pantalaimon gào lên dữ dội, và cái gì đó, một con nhân tinh khác, lao vào nó, vật nó xuống, làm chính Lyra cũng bị hụt hơi, rồi một bàn tay kéo giật lấy cô, nhấc cô lên, bịt miệng không cho cô hét bằng đôi găng tay hôi hám, lôi cô xềnh xệch vào một cánh tay khác, cánh tay này lại đẩy cô giúi xuống nền tuyết, vì thế cô cảm thấy chóng mặt, nghẹn thở và đau đớn khắp người. Cánh tay cô bị kéo giật về phía sau cho đến khi hai vai kêu răng rắc, ai đó trói hai cổ tay cô lại, rồi một chiếc mũ chụp qua đầu cô để không cho cô gào thét, vì cô đang hét lên, hết sức dữ dội.
“Iorek! Iorek Byrnison! Cứu tôi!”
Nhưng không biết nó có nghe thấy không? Cô không thể biết chắc. Cô bị lôi đi, lê trên bề mặt cứng ngắt và sau đó bắt đầu tròng trành và xóc nảy như một chiếc xe kéo. Những âm thanh vang đến tai cô thật dữ dội và hỗn loạn. Có lẽ cô đã nghe thấy tiếng gầm của Iorek Byrnison, nhưng đã ở rất xa, rồi sau đó cô bị nảy bật lên vì nền đất gồ ghề, hai cánh tay bị trói quặt, miệng bịt kín, khóc nức nở vì giận dữ và sợ hãi. Những giọng nói lạ lùng vang lên xung quanh cô.
“Pan…”
“Mình ở đây, suỵt, mình sẽ giúp cậu thở. Cứ nằm im nhé…”
Những chiếc móng chân chuột của nó kéo mạnh chiếc mũ chụp cho đến khi miệng cô không bị bịt kín nữa. Cô hít lấy hít để không khí giá lạnh.
“Chúng là ai vậy?” Cô thì thầm.
“Trông chúng giống người Tartar. Mình nghĩ chúng đã hạ John Faa.”
“Không—” “Mình thấy ông ấy ngã xuống. Nhưng ông ấy phải chuẩn bị sẵn sàng cho kiểu tấn công này chứ. Tụi mình biết là vậy mà.”
“Nhưng đáng lý tụi mình phải giúp ông ấy! Tụi mình lẽ ra phải theo dõi chiếc Chân-kế thường xuyên!”
“Im nào. Hãy làm bộ như đang ngất.”
Có tiếng roi vút lên và tiếng hú của lũ chó kéo. Từ mức độ xóc cô đang phải chịu, Lyra có thể biết họ đang đi nhanh đến mức nào, và dù đã căng tai nghe ngóng âm thanh của trận chiến, tất cả những gì cô nghe được là tiếng những loạt đạn bị bóp nghẹt bởi khoảng cách, và rồi tiếng lóc cóc, tiếng giục giã và tiếng bước chân chó chạy trên nền tuyết là toàn bộ những gì có thể nghe được.
“Chúng sẽ giao tụi mình cho bọn Gà trống tây,” cô thều thào.
Cụm từ bị chia cắt hiện lên trong tâm trí cô. Sự hãi hùng ghê gớm xâm chiếm cô, Pantalaimon nép sát vào bên cạnh.
“Mình sẽ chiến đấu,” nó nói.
“Mình cũng thế. Mình sẽ [I]giết[/] chúng.”
“Iorek Byrnison cũng sẽ làm thế khi anh ấy tìm thấy tụi mình. Anh ấy sẽ nghiến nát chúng ra.”
“Mình còn cách Bolvangar bao xa?”
Pan không biết, nhưng họ đoán chắc là còn một ngày đi xe trượt nữa. Sau khi đã đi lâu tới mức cơ thể cô mỏi rã rời, chiếc xe chậm lại một chút, và ai đó kéo giật chiếc mũ trùm đầu của cô ra một cách thô bạo.
Cô nhìn lên khuôn mặt châu Á to bè dưới chiếc mũ trùm bằng lông chồn gu-lô được chiếu sáng bằng một ngọn đèn leo lét. Đôi mắt đen của hắn lóe lên cái nhìn hài lòng, đặc biệt khi Pantalaimon trượt khỏi tấm áo choàng của Lyra và nhe hàm răng chồn ecmin khi rít lên. Con nhân tinh của gã, một con chồn gu-lô to lớn, gầm trở lại, nhưng Pantalaimon chẳng hề lung lay.
Gã ta dựng Lyra lên và cho đứng nghiêng về một bên xe kéo, nhưng cô cứ ngã giúi giụi sang một bên vì hai tay vẫn bị trói quặt phía sau. Vì thế hắn trói chân cô lại và cởi trói tay.
Qua làn tuyết đang rơi và làn sương mù dày đặc, cô nhìn thấy gã, và cả tay đánh xe nữa, khỏe mạnh đến chừng nào. Họ đứng thăng bằng trên xe rất điệu nghệ và quen thuộc với vùng đất này, khác hẳn những người Gypsy.
Gã bắt đầu lên tiếng, nhưng tất nhiên cô chẳng hiểu gì. Hắn thử thứ tiếng khác với kết quả tương tự. Rồi hắn thử sang tiếng Anh.
“Tên mày?”
Pantalaimon xù lông lên cảnh giác, cô lập tức hiểu ngay ý nó. Vậy là những người này không biết cô là ai! Không phải họ bắt cóc cô vì có quan hệ với bà Coulter, vì thế cỏ thể chúng không hề được bọn Gà trống tây trả tiền để làm việc này.
“Lizzie Brooks,” cô trả lời.
“Lizzie Broogs,” hắn nói theo cô nhưng phát âm sai, “chúng tao sẽ đưa mày đến một nơi rất đẹp. Những con người tốt bụng.”
“Các ông là ai?”
“Người Samoyed. Những kẻ đi săn.”
“Một nơi rất đẹp. Những người tốt. Mày có panserbjorne đúng không?”
“Để bảo vệ.”
“Không ăn thua! Ha ha, giấu thì làm được gì! Dù sao chúng tao cũng đã tóm được mày!”
Hắn cười hô hố, Lyra cố ghìm nén, không nói lời nào.
“Những tên đó là ai?” Gã ta hỏi và chỉ về phía họ đã đi qua.
“Lái buôn.”
“Lái buôn… Buôn gì?”
“Lông thú, rượu mạnh,” cô nói. “Lá thuốc.”
“Họ bán lá thuốc, mua lông thú?”
“Phải,”
Hắn nói gì đó với tay đi cùng, tay này trả lời vắn tắt lại. Suốt thời gian chiếc xe lăn bánh, Lyra cố kiễng chân lên cho thoải mái để nhìn xem họ đang đi đâu, nhưng tuyết rơi rất dày, bầu trời tối mịt, còn cô đã quá lạnh để có thể nhìn ra ngoài lâu hơn. Cô ngồi xuống. Cô và Pantalaimon có thể cảm nhận suy nghĩ của nhau và cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng ý nghĩ John Faa đã chết cứ hiện lên trong tâm trí cô… Rồi điều gì đã xảy ra với Farder Coram? Liệu Iorek Byrnison có thể giết được bọn người Samoyed kia? Phải chăng họ đang cố lần theo dấu vết của cô?
Lần đầu tiên, cô bắt đầu cảm thấy lo lắng cho số phận của chính mình.
Sau một khoảng thời gian dài, người đàn ông lay vai cô và đưa cho cô một rẻo thịt tuần lộc khô để nhai. Nó rất khét và dai, nhưng cô đang đói và nó cũng có chất. Nhai xong cô cảm thấy khá hơn một chút. Cô luồn tay vào chiếc áo lông thú để chắc chắn chiếc chân-kế vẫn còn rồi cẩn thận rút chiếc hộp đựng sinh vật bay do thám ra luồn nó vào chiếc ủng lông thú. Pantalaimon biến thành một con chuột và luồn vào ấn chiếc hộp sâu hết mức có thể, giấu nó dưới đôi tất làm bằng da tuần lộc của cô.
Xong xuôi, cô nhắm nghiền mắt lại. Sợ hãi làm cô kiệt sức, và rất mau chóng cô mệt mỏi chìm vào giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy khi chuyển động của chiếc xe thay đổi. Nó đột ngột đi rất êm, và khi cô mở mắt, những tia sát làm cô bị chói, đến nỗi cô phải kéo chiếc mũ chụp sâu xuống trước khi lại nhìn ra. Cô lạnh và tê cứng nhưng vẫn cố gắng nghểnh lên nhìn thấy chiếc xe đang chạy băng băng giữa hai hàng cột cao, mỗi cột có một cây đèn anbaric. Họ đi qua một cánh cổng sắt mở phía cuối con đường, vào một chỗ trống giống như một khu chợ không có người hay một đấu trường thể thao hoặc trò gì đó. Nó bằng phẳng, nhẵn nhụi, màu trắng, bề ngang khoảng trăm mét. Viền xung quanh là hàng rào kim loại cao nhồng.
Chạy đến cuối đầu trước chiếc xe dừng lại. Họ đang ở ngoài một tòa nhà thấp, hay một dãy nhà thấp, tuyết phủ dày. Rất khó nói chính xác, nhưng cô có ấn tượng bên dưới là những đường hầm nối các phần của dãy nhà lại với nhau, những đường hầm ẩn trong nền tuyết. Cạnh đó là một cây cột kim loại to trông rất quen, nhưng cô không thể nhớ được nó gợi cho cô về cái gì.
Trước khi cô kịp nhìn thêm, người đàn ông trong xe kéo đã cắt vòng dây cuốn quanh cổ chân và kéo cô thô bạo trong khi tên đánh xe quát đàn chó đứng yên. Một cánh cửa mở ra từ ngôi nhà cách đó mấy mét, và một chiếc đèn anbaric xuất hiện ở trên đầu, đung đưa qua lại để tìm kiếm bọn họ, như một ngọn đèn pha.
Kẻ bắt cóc Lyra đẩy mạnh cô về phía trước như để khoe một chiến tích, nhưng không thả ra, và nói gì đó. Bóng người mặc áo khoác lụa chần bông trả lời cũng bằng cùng thứ ngôn ngữ, và Lyra nhìn thấy người đó. Ông ta không phải người Samoyed hay Tartar. Trông ông ta về phía trước như để khoe một chiến tích, nhưng không thả ra, và nói gì đó. Bóng người mặc áo khoác lụa chần bông trả lời cũng bằng cùng thứ ngôn ngữ, và Lyra nhìn thấy người đó. Ông ta không phải người Samoyed hay Tartar. Trông ông ta giống một Học giả Jordan vậy.
Ông ta nhìn cô, đặc biệt nhìn chăm chú vào Pantalaimon.
Gã Samoyed lại lên tiếng, và người đàn ông Bolvangar nói với Lyra. “Cháu có nói tiếng Anh không?”
“Có,” Cô trả lời.
- Con nhân tinh của cháu luôn trong hình dạng đó à?”
Đây quả là một câu hỏi không lường trước được. Lyra chỉ có thể há hốc nhìn. Nhưng Pantalaimon đã trả lời theo phong cách của riêng nó bằng cách biến thành một con chim ưng và lao mình từ vai cô sang con nhân tinh voi ma mút to lớn của ông ta, con voi vung vòi lên đập vào người Pantalaimon khi nó tung cánh bay lên.
“Thấy rồi,” người đàn ông nói với giọng hài lòng khi Pantalaimon bay về đậu trên vai Lyra.
Gã Samoyed đang nhìn với ánh mắt chờ đợi, người đàn ông ở Bolvangar gật đầu và rút bao tay ra để lần vào túi áo. Ông ta lấy ra một chiếc túi có dây rút đếm mười hai đồng tiền lớn đặt vào tay người đi săn.
Hai người đàn ông kiểm tra lại số tiền, xếp chúng lại cẩn thận, mỗi người lấy một nửa. Không thèm nhìn lại, chúng lên xe, tay đánh xe vung roi và hét lên với những con chó qua trường đấu rộng lớn màu trắng và ra đến con đường có những cột đèn, tăng tốc cho đến khi biến mất trong bóng tối.
Người đàn ông mở lại cánh cửa.
“Vào đây nhanh,” ông ta nói. “Trong này ấm áp và thoải mái. Đừng đứng ngoài trời lạnh. Tên cháu là gì?”
Chất giọng cho thấy ông ta là người Anh, ông ta nói mà không nhấn trọng âm. Giọng ông phát ra giống một người nào đó cô đã gặp ở chỗ bà Coulter: lịch sự, học thức và quan trọng.
“Lizzie Brooks,” cô nói.
“Vào đi, Lizzie. Ở đây cháu sẽ được chăm sóc, không cần phải lo.”
Ông ta còn lạnh hơn cả cô, dù cô đã ở ngoài trời lâu hơn khối thời gian. Ông ta sốt ruột muốn được sưởi ấm. Cô quyết định giả bộ chậm chạp, đần độn và khó bảo, kéo lê chân qua ngưỡng cửa cao để bước vào tòa nhà.
Có hai cánh cửa và một không gian rộng rãi giữa chúng nên hơi ấm không bị thoát nhiều ra ngoài. Khi họ đi qua cánh cửa bên trong, Lyra cảm thấy ngột ngạt trong hơi nóng dường như không thể chịu nổi. Cô phải mở khuy chiếc áo khoác lông thú và lật chiếc mũ trùm đầu ra sau.
Họ đang ở một nơi rộng khoảng tám mét vuông, với những hành lang bên trái, bên phải và phía trước có một chiếc bàn theo kiểu tiếp tân trong bệnh viện. Mọi thứ đều được chiếu sáng rực rỡ với những tia sáng ánh lên từ bề mặt trắng bóng và thép không gỉ. Có mùi thức ăn trong không khí, những đồ ăn quen thuộc, thịt nguội và cà phê, ẩn sau đó là mùi thuốc ở bệnh viện khiến người ta cảm thấy chóng mặt. Vang lên từ những bức tường xung quanh là những thanh âm rì rầm, gần như rất nhỏ khó thể nghe thấy, loại âm thanh người ta phải tập cho quen nếu không muốn phát điên.
Pantalaimon đứng sát bên tai cô, nó đã biến thành chim kim tước và thì thầm. “Hãy giả bộ ngớ ngẩn, đần độn. Phải tỏ ra thật chậm chạp, ngây ngô.”
Những người lớn đang nhìn xuống cô: người đàn ông dẫn cô vào, một người khác mặc áo khoác trắng, một người phụ nữ diện đồng phục y sĩ.
“Người Anh,” người đàn ông đầu tiên nói. “Lái buôn, hình như thế.”
“Vẫn bọn đi săn cũ? Vẫn câu chuyện thường lệ?”
“Cùng bộ tộc đó thôi, tôi chỉ có thể nói vậy. Y tá Clara, cô trông nom cô bé được chứ?”
“Tất nhiên, thưa bác sĩ. Đi với ta nào, cô bé.” Người y tá nói, Lyra ngoan ngoãn theo sau.
Họ đi dọc một hành lang ngắn với những cánh cửa bên tay phải và một phòng ăn bên trái, từ đó vọng ra tiếng dao nĩa lanh canh, những giọng nói, và nhiều mùi thức ăn khác nữa. Người y tá cũng tầm tuổi bà Coulter, Lyra phỏng đoán, người bà ta tỏa ra mùi xà phòng, nhanh nhẹn và gọn gàng, bà ta có thể băng bó vết thương hay thay băng nhưng chẳng bao giờ biết kể chuyện cho trẻ con nghe. Nhân tinh của bà ta (trong một lúc thật kỳ lạ Lyra cảm thấy ớn lạnh khi nhìn nó) là một con chó trắng (và một lúc sau cô lại thắc mắc không hiểu sao nó lại lành cô ớn lạnh).
“Tên cháu là gì, cưng?” Người y tá hỏi, mở một cánh cửa nặng nề ra.
“Lizzie.”
“Chỉ mỗi Lizzie thôi?”
“Lizzie Brooks.”
“Cháu bao nhiêu tuổi?”
“Mười một.”
Lyra thường nghe mọi người nói cô trông nhỏ hơn so với tuổi, bất kể điều đó có nghĩa là gì. Nó chẳng bao giờ khiến cô phải chú trọng đến, nhưng giờ cô nhận ra mình có thể tận dụng để biến Lizzie trở thành một cô bé nhút nhát, lo lắng và mờ nhạt.
Cô đã nửa trông chờ câu hỏi cô từ đâu đến, đi bằng gì, và đã chuẩn bị câu trả lời; mà nếu vị y tá có thiếu trí tưởng tượng, vẫn còn có tính tò mò của con người. Bolvangar có lẽ nằm ở những vùng ngoại ô London, và bọn trẻ có lẽ vẫn đi lại suốt, đó là tất cả những gì mà y tá Clara tỏ ra bận tâm. Con nhân tinh bé nhỏ của bà chạy tung tăng bên chân, cũng nhanh nhẩu và rỗng tuếch giống chủ.
Căn phòng họ đi vào có một chiếc ghế dài, một chiếc bàn, hai chiếc ghế tựa, một chiếc tủ nhiều ngăn, một tủ búp phê đựng thuốc, bông băng và một chiếc chậu rửa mặt. Ngay khi họ đi vào phòng, người y tá cởi chiếc khoác ngoài của Lyra, vứt nó lên sàn nhà sáng bóng.
“Thay đồ và nghỉ ngơi một chút đi cưng,” bà ta nói. “Chúng ta sẽ săn sóc một chút để cháu tươi tắn và khỏe mạnh, không tê cóng lẫn sổ mũi, rồi sẽ tìm một ít quần áo sạch đẹp. Còn có cả tắm vòi sen.” Bà nói thêm, vì Lyra đã không thay trang phục hay tắm táp trong nhiều ngày liền, và trong hơi ấm đang tràn ngập xung quanh này, điều đó càng lúc càng trở nên hiển nhiên hơn.
Pantalaimon đập cánh lia lịa để phản đối, nhưng Lyra dẹp yên nó bằng một cái quắc mắt. Nó đứng trên chiếc ghế dài trong khi từng chiếc mảnh áo quần của Lyra được cởi ra, trước sự ấm ức và ngượng ngùng của cô. Nhưng cô vẫn ý thức được để che đậy nó lại, thể hiện ra là mình ngờ nghệch và biết nghe lời.
“Cả dải rút đựng tiền này nữa, Lizzie.” Bà y tá nói rồi từ mình cởi nó ra với những ngón tay rất khỏe. Bà ta định thả nó xuống sàn nhà cùng đám quần áo, nhưng dừng lại khi chạm trúng với cạnh gờ của Chân-kế.
“Cái gì thế này?” Bà ta hỏi và cởi tấm bọc ra.
“Chỉ là một loại đồ chơi,” Lyra nói. “Của cháu đấy ạ.”
“Được rồi, chúng ta sẽ không lấy của cháu đi đâu, cưng,” y tá Clair nói, nhìn vào chiếc máy. “Nó thật là đẹp, phải không, trông như một cái la bàn. Giờ ta sẽ vào tắm cho cháu.” Bà tiếp tục, đặt chiếc Chân-kế xuống và gạt qua tấm màn nhung xám đen ở góc phòng.
Lyra ngần ngại ngâm mình xuống làn nước ấm và tự xát xà phòng trong khi Pantalaimon đậu trên chiếc trục màn che. Cả hai đều nhận thức rõ nó không được quá hiếu động, vì nhân tinh của những người ngu ngơ cũng ngu ngơ như thế. Khi cô đã tắm và lau khô người xong, bà y tas một đo nhiệt độ cho cô, khám mắt, tai, cổ họng, và đo chiều cao, rồi đặt cô lên cân trước khi ghi chép vào một chiếc bảng kẹp. Sau đó bà đưa cho Lyra quần áo mặc trong nhà và áo khoác. Chúng rất tươm tất, chất lượng tốt, giống chiếc áo khoác của Tony Makarios, nhưng vẫn là có hơi hướng của quần áo đã dùng qua rồi. Lyra cảm thấy rất khó chịu.
“Đây không phải quần áo của cháu,” cô nói.
“Đúng vậy, cưng à. Quần áo của cháu cần được mang đi giặt thật sạch.”
“Thế cháu sẽ được nhận lại quần áo của mình chứ?”
“Cô cho là thế. Tất nhiên là có rồi.”
“Nơi này là đâu?”
“Nó được được gọi là Trạm thử nghiệm.”
Đó không phải là một câu trả lời. và nếu mà cô là Lyra thì cô sẽ chỉ ra điều đó, và hỏi thêm thông tin, nhưng cô không nghĩ Lizzie sẽ làm thế. Cho nên cô cứ lẳng lặng nghe theo và không hỏi thêm nữa.
“Cháu muốn lấy lại đồ chơi của cháu,” cô nói với vẻ ngang ngạnh trong lúc bà y tá đang thay quần áo cho mình.
“Cầm đi, cưng,” bà nói. “Cháu tốt hơn là nên có một con gấu bông xinh xắn chăng? Hay một con búp bê đẹp đẽ cũng được?”
Bà ta mở một ngăn kéo trong đó những đồ chơi bằng vải nằm im lìm. Lyra cố đứng và giả bộ chọn lựa một lúc trước khi nhặt một con búp bê nhồi vải bị thiếu mất một mắt. Cô chưa từng có con búp bê nào, nhưng cô biết phải làm gì với nó, cô áp chặt nó vào ngực.
“Thế còn cái túi dải rút để tiền của cháu thì sao?” cô hỏi. “Cháu muốn cất đồ chơi vô đó.”
“Vậy cháu lấy lại đi, cưng,” y tá Clara nói, điền thông tin vào một tờ giấy màu hồng.
Lyra kéo bộ quần áo mặc trong nhà lạ lẫm lên và thắt chiếc túi may bằng vải dầu quanh bụng.
“Thế còn áo khoác và ủng của cháu?” cô hỏi, “bao tay và những thứ khác nữa?”
“Chúng ta sẽ giặt sạch nó cho cháu,” bà y tá trả lời như một cái máy.
Có tiếng chuông điện thoại reo lên, và trong khi bà trả lời, Lyra cúi rạp xuống mò tìm chiếc hộp thiếc khác, chiếc hộp chứa sinh vật do thám bay, rồi để nó vào chiếc túi cùng chỗ với Chân-kế.
“Đi thôi, Lizzie,” bà nói, đặt ống nghe xuống. “Chúng ta sẽ đi tìm thứ gì đó cho cháu ta đoán cháu đã đói rồi.”
Cô đi theo y tá Clara đến phòng ăn, trong đó có mười hai chiếc bàn tròn màu trắng. Đĩa và dao bẩn được xếp vào một chiếc xe đẩy. Không có cửa sổ, vì thế để tạo cảm giác có ánh sáng và không gian, trên tường treo một bức ảnh chụp rất lớn cảnh bãi biển nhiệt đới, với bầu trời xanh rạng rỡ, cát trắng vã những cây cọ dừa.
Người đàn ông dẫn cô vào đang lấy một chiếc khay từ chỗ quầy phục vụ.
“Ăn đi,” ông ta nói.
Không việc gì phải để mình chết đói, vì thế cô ăn món thịt hầm và khoai tây nghiền cùng gia vị. Có một bát đào đóng hộp và kem để ăn sau đó. Trong khi cô ăn, người đàn ông và bà y tá trao đổi nhanh với nhau ở một chiếc bàn khác. Đợi cho cô ăn nhanh xong, bà y tá mang đến cho cô một cốc sữa nóng rồi mang chiếc khay đi.
Người đàn ông đến ngồi đối diện với cô. Con nhân tinh của ông ta, con mác-mốt [I] (marmot) [/]. không bắng nhắng và rỗng tuếch như con chó của bà y tá ngồi từ tốn trên vai chủ, quan sát và lắng nghe.
“Sao rồi, Lizzie,” ông nói. “Cháu đã ăn no chưa?”
“Rồi ạ, cảm ơn ông.”
“Ta muốn cháu nói cho ta biết cháu đến từ đâu. Cháu chịu không?”
“London,” cô nói.
“Cháu làm gì ở tít trên phía bắc xa xôi này?”
“Cháu đi với cha cháu,” cô lúng búng.
Cô cụp mắt xuống, tránh cái nhìn của con mác-mốt và cố giả vờ là mình sắp khóc đến nơi.
“Với cha cháu à? Ta hiểu rồi. Vậy ông ấy làm gì ở tận đây?”
“Buôn bán ạ. Nhà cháu đi với một lô hàng lá thuốc từ Tân Đan Mạch và sẽ thu mua lại lông thú.”
“Cha cháu đi một mình thôi à?”
“Không. Còn có các chú của cháu và những người khác nữa,” cô nói lơ đãng, không biết rằng người thợ săn Samoyed đã kể cho ông ta nghe.
“Tại sao ông ấy đưa cháu đi cùng trong một chuyến đi như thế này, Lizzie?”
“Vì hai năm trước cha đã cho anh cháu đi cùng và nói lần sau sẽ đến lượt cháu, nhưng cứ lẫn lữa mãi. Tại cháu cứ liên tục nhắc lại cho nên lần này cha đã chịu cho cháu theo.”
“Thế cháu nhiêu tuổi rồi?”
“Mười một.”
“Tốt lắm, tốt lắm, Lyra, cháu là một cô bé may mắn đấy. Những người đi săn tìm được cháu đã đưa cháu đến nơi tốt nhất cháu có thể đến rồi đấy.”
“Không phải họ tìm được cháu. Có một trận đánh nhau. Họ có rất nhiều người và mang cả cung tên…”
“Ồ, ta không nghĩ thế đâu. Ta nghĩ chắc cháu đã đi xa khỏi cả đoàn của cha cháu rồi bị lạc đường. Những người thợ săn đó tìm thấy cháu đang chỉ có một mình và mang cháu thẳng tới đây. Chuyện là thế đấy, Lizzie ạ.”
“Cháu nhìn thấy có một trận chiến,” cô nói. “Họ bắn tên và thế là… Cháu muốn gặp cha cháu,” cô nói to hơn và bắt đầu khóc.
“Được rồi, cháu sẽ an toàn ở đây đến khi cha cháu đến,” ông bác sĩ nói.
“Nhưng cháu đã nhìn thấy họ bắn tên!”
“À, cháu nghĩ vậy thôi. Chuyện này thường xảy ra trong thời tiết quá lạnh giá, Lizzie ạ. Cháu ngủ thiếp đi và gặp ác mộng nên không nhớ rõ đâu thật đâu mơ. Cháu đừng lo, đó không phải là một trận chiến,. Cha cháu vẫn an toàn khỏe mạnh và đang tìm cháu. Ông ấy sẽ đến đây sớm thôi, vì đây là tòa nhà duy nhất trong vùng này, cháu thấy đấy, ông ấy sẽ ngạc nhiên đến thế nào khi tìm thấy cháu an toàn và lành lặn tại đây! Giờ y tá Clara sẽ đưa cháu về ký túc xá, ở đó cháu sẽ gặp những cô bé và cậu bé khác bị lạc nơi hoang vắng giống như cháu. Cháu đi đi nhé. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau thêm vào sáng mai.”
Lyra đứng lên, ôm chặt con búp bê, và Pantalaimon đứng trên vai cô khi người y tá mở cửa dẫn họ ra ngoài.
Lại thêm những dãy hành lang khác, giờ thì Lyra đã thấm mệt và muốn ngủ nên cô cứ ngáp dài, khó lòng nhấc nổi chân trên đôi dép đi trong nhà người ta đưa cho cô. Pantalaimon đang gục xuống, nó phải biến thành một con chuột và nằm trong túi áo khoác của cô. Lyra có ấn tượng về những dãy giường, những khuôn mặt trẻ con, một chiếc gối, và sau đó cô chìm vào giấc ngủ.
o O o
Có ai đó đang lay lay cô. Điều đầu tiên cô làm là lần lên hông. Cả hai thứ vẫn còn nguyên, vẫn an toàn, vì thế cô cố gắng nâng mắt, nhưng thật khó làm sao. Cô chưa bao giờ thấy buồn ngủ đến thế.
“Dậy đi! Dậy đi!”
Đó là một tiếng thì thầm hơn là tiếng gọi. Với một nỗ lực ghê gớm, như thể vác một tảng đá leo lên dốc, Lyra bắt mình phải tỉnh dậy.
Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn vặn rất nhỏ treo ở cửa sổ nhìn thấy ba cô bé nữa đang vây quanh mình. Vẫn còn đang lờ mờ nhìn chúng vì mắt cô tập trung rất chậm, nhưng có vẻ chúng cùng độ tuổi với cô, và nói tiếng Anh.
“Bạn ấy tỉnh lại rồi.”
“Bọn họ đã cho nó uống thuốc ngủ. Chắc là…”
“Tên cậu là gì?”
“Lizzie,” Lyra ậm ừ.
“Có cả một đoàn trẻ con nữa vừa đến phải không?” một trong số các cô bé hỏi.
“Không biết. Chỉ mỗi mình thôi.”
“Vậy họ đưa cậu đến từ đâu?”
Lyra cố gắng ngồi dậy. Cô không nhớ là mình đã uống thuốc ngủ, nhưng có thể có gì đó trong cốc sữa cô đã uống. Đầu cô quay cuồng và phía dưới mắt đau giần giật.
“Đây là đâu?”
“Chẳng đâu cả. Họ không chịu nói cho tụi mình biết.”
“Thường thì mỗi lần họ không chỉ đưa đến một đứa bé…”
“Họ làm gì ở đây?” Lyra gắng hỏi, gom góp lại suy nghĩ trong khi Pantalaimon cũng đang cố tỉnh táo lại.
“Chúng mình cũng không biết,” cô bé nãy giờ hỏi nhiều nhất lên tiếng. Cô bé có dáng người cao, tóc đỏ, điệu bộ láu táu và giọng London rất nặng. “Họ đo đạc trên người tụi mình và làm các bài kiểm tra và…”
“Họ đo Bụi,” một cô bé khác trông thân thiện, tròn trĩnh và có mái tóc màu tối nói.
“Cậu không biết đâu,” cô bé đầu tiên nói.
“Họ làm chuyện đó đấy,” cô bé thứ ba lên tiếng, một cô bé vẻ mặt nhường nhịn đang vuốt ve con nhân tinh thỏ. “Mình nghe họ nói chuyện với nhau như vậy.”
“Rồi họ đưa chúng mình đi từng người từng người một và đó là tất cả những gì mình biết. Chẳng có ai quay trở lại cả,” cô bé tóc đỏ nói.
“Đúng rồi, có một cậu bé ở đây,” cô bé mũm mĩm tiếp. “Cậu ấy đoán—”
“Khoan hẵng kể cho bạn ấy nghe!” cô bé tóc đỏ ngắt lời. “Chưa tới lúc.”
“Còn có các bạn nam ở đây nữa à?” Lyra hỏi.
“Có. Chúng mình ở đây có rất nhiều người. Khoảng ba mươi, đoán thế.”
“Nhiều hơn đấy,” cô bé mũm mĩm nói, “khoảng bốn mươi.”
“Họ liên tục đưa bọn mình đi,” cô tóc đỏ nói. “Họ thường bắt đầu bằng cách đưa tất cả đến đây, có rất nhiều bạn như bọn mình, và rồi từng người từng người biến mất.”
“Họ là bọn Gà trống tây đấy,” cô bé mũm mĩm nói. “Cậu biết bọn Gà trống tây không? Tất cả bọn mình đều sợ chúng cho đến khi bị chúng bắt…”
Lyra dần minh mẫn lại. Những nhân tinh của các cô bé, ngoại trừ con thỏ đang tụm lại với nhau ở gần cửa nghe ngóng, không ai nói to hơn mức thì thầm. Lyra hỏi tên mọi người. Cô bé tóc đỏ tên là Annie, cô bé mũm mĩm tóc màu tói tên Bella, còn cô bé gầy gò tên Martha. Họ không biết tên các cậu bé, vì hầu hết thời gian các bé trai và bé gái bị tách ra. Bọn trẻ không bị đối xử tệ cho lắm.
“Ở đây cũng tốt,” Bella nói, “không có nhiều chuyện phải làm, ngoại trừ họ đưa cho tụi mình những bài kiểm tra và bắt tụi mình làm bài tập, rồi họ đo đạc trên người tụi mình, đo nhiệt độ cơ thể rồi cho uống thuốc. Thật là nhàm chán.”
“Ngoại trừ khi bà Coulter đến,” Annie nói.
Lyra phải cố ghìm để không kêu to lên, còn Pantalaimon thì đập cánh rối rít đến nỗi các cô bé thấy ngạc nhiên.
“Nó đang lo lắng ấy mà,” Lyra nói và vuốt ve nó.
“Chắc họ đã cho bọn mình uống thuốc ngủ, như các bạn đã nói, bởi vậy cả hai bọn mình đều cảm thấy buồn ngủ vô cùng. Mà bà Coulter là ai vậy?”
“Bà ấy là người đã bẫy chúng tớ, gần như là tất cả,” Martha nói. “Những bạn khác đều nói về bà. Khi bà ấy đến, mọi người biết sẽ có vài bạn sắp sửa biến mất.”
“Bà ấy thích quan sát những đứa trẻ, khi người ta đưa tụi mình đi, bà ấy thích nhìn việc người ta làm với tụi mình. Cậu bạn Simon ở đây, cậu ấy đoán họ giết những đứa trẻ, còn bà Coulter thì đứng xem.”
“Họ giết bọn mình á?” Lyra kêu lên, rùng mình.
“Chắc là thế. Vì chẳng có ai quay về cả.”
“Họ còn làm gì đó với những con nhân tinh nữa,” Bella nói. “Cân, đo chúng và mọi việc…”
“Họ chạm vào các con nhân tinh?”
“Không! Lạy Chúa! Họ đặt những chiếc cân ở đó và nhân tinh của cậu phải trèo lên rồi thay đổi hình dạng. Họ ghi chép và chụp ảnh. Họ cho bạn vào một căn phòng và đo Bụi, suốt ngày như vậy, chẳng bao giờ họ thôi không đo đạc Bụi cả.”
“Bụi nào?” Lyra hỏi.
“Tụi mình không biết,” Annie nói. “Chỉ là thứ gì đó trong không gian. Không phải bụi thực. Nếu bạn không có tí Bụi nào, như thế sẽ ổn. Nhưng rốt cuộc thì ai cũng vẫn sẽ có mang Bụi thôi.”
“Cậu có biết mình nghe Simon nói gì không?” Bella hỏi. “Cậu ấy nói người Tartar đục những cái lỗ trên đầu để cho Bụi vào.”
“Ừa, cậu ta có lẽ biết đấy,” Annie nói với giọng khinh bỉ. “Mình nghĩ mình sẽ hỏi bà Coulter khi bà ấy đến đây.”
“Cậu sẽ không dám đâu,” Martha nói, vẻ thán phục.
“Dám chứ.”
“Bao giờ bà ấy đến?” Lyra hỏi.
“Ngày kia,” Annie trả lời.
Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng Lyra, Pantalaimon nép sát vào người cô. Cô chỉ có một ngày để tìm Roger và khám phá tất cả những gì có thể về nơi này, và tính xem nên trốn thoát hay đợi người đến cứu. Nếu tất cả nhóm người Gypsy đã bị giết, ai sẽ giúp bọn trẻ sống sót được trong vùng hoang dã lạnh lẽo này?
Những cô bé khác tiếp tục nói chuyện, nhưng Lyra và Pantalaimon nằm rúc sâu trong chăn, cố gắng làm cho mình ấm lên, nhận thức được rằng hàng trăm dặm toàn bộ xung quanh chiếc giường bé nhỏ của cô không còn gì ngoài nỗi sợ hãi.