Nguyên tác: The Light Between Oceans
Số lần đọc/download: 0 / 17
Cập nhật: 2023-06-18 15:51:29 +0700
Phần Ii.5
N
hiệm kỳ ba năm thứ hai của Tom ở Janus kết thúc ngay trước Giáng Sinh năm 1927. Sau khi người đổi gác ra đảo, cả gia đình về lại xứ Mũi. Đây là lần nghỉ phép thứ hai của Tom và Isabel, cũng là lần đầu tiên Lucy vào đất liền. Isabel vừa chuẩn bị đón thuyền, vừa nghĩ ngợi vẩn vơ, cố tìm cớ để nán lại trên đảo với con gái bé bỏng.
“Mình không sao chứ Izz?” Tom hỏi khi trông thấy cô nhìn trân trân ra cửa sổ, trên giường chiếc rương vẫn chưa đóng lại.
“À, không có gì,” cô vội đáp. “Em chỉ xem có mang đủ đồ chưa thôi.”
Tom dợm bước ra khỏi phòng, rồi quay lại, đặt tay lên vai cô. “Mình lo lắm sao?”
Cô giật lấy một đôi bít tất, cuộn tròn lại. “Không phải, có gì đâu mà lo.” Cô vừa nói vừa nhét nó vào rương. “Em không sao thật mà.”
Sự lúng túng mà Isabel cố tìm cách che mắt Tom hoàn toàn tan biến khi cô nhìn thấy Violet ôm Lucy trong tay. Cha mẹ cô ra đón cả nhà ở cầu tàu. Mẹ cô khóc, mỉm cười, rồi bật cười thành tiếng cùng lúc. “Đây rồi!” Bà lắc đầu như không tin được vào mắt mình, ngắm từng chút một trên người đứa nhỏ, sờ vào gương mặt nó, tóc nó, bàn tay nhỏ xíu của nó. “Cháu ngoại cưng của bà. Phải đợi hai năm mới được gặp đây! Con nhỏ giống hệt bà dì Clem của má hả?”
Isabel dành cả mấy tháng để chuẩn bị cho Lucy gặp người xứ Mũi. “Ở Partageuse, Luce à, có nhiều người lắm. Họ cũng như con vậy. Mới đầu hơi lạ, nhưng mà không có gì phải sợ cả.” Mỗi tối cô lại kể cho con nghe những câu chuyện về xứ Mũi và con người nơi đó.
Đáp lại với dòng người liên tục xuất hiện quanh mình, Lucy tỏ ra hết sức tò mò. Isabel thấy nhoi nhói lòng mỗi khi có người chúc mừng cô có đứa con gái thật xinh. Ngay cả bà Mewett cũng cù nhẹ vào cằm con bé khi gặp hai mẹ con trong tiệm bán kim chỉ. Lúc đó bà đang đi mua lưới búi tóc. “À, con cái,” bà ta mơ màng nói. “Đúng là có phước.” Isabel thấy không tin nổi vào tai mình.
Ngay sau khi cả ba vào bờ, Violet đã nhanh chóng lùa cả nhà đến tiệm chụp ảnh Gutcher. Trước phông nền vải bạt vẽ hoa lá và những cây cột nhà kiểu Hy Lạp, Lucy chụp hình với Tom và Isabel; rồi với Bill và Violet; rồi chụp một mình, ngồi trên chiếc ghế mây điệu đàng. Mỗi tấm hình được in sao thành nhiều bản, phần đem về Janus, phần gởi cho bà con nơi xa, rồi còn lồng khung đặt trên bệ lò sưởi và đàn dương cầm. “Ba thế hệ phụ nữ nhà Graysmark.”, Violet mỉm cười nói khi chụp chung tấm hình với Lucy ngồi trên đùi và Isabel đứng bên cạnh.
Lucy có ông bà yêu chiều. Chúa không thể làm gì sai ở đây, Isabel tự nhủ. Rõ ràng Người đã đưa con bé đến đúng nơi.
***
“Ôi Bill,” Ngay trong buổi tối hôm đó, Violét thốt lên với chồng. “Tạ Ơn trên. Tạ Ơn trên...”
Ba năm trước Violet từng chứng kiến cô con gái của mình đau đớn ra sao sau lần sảy thai thứ hai. Đợt đó là kỳ nghỉ phép vào bờ đầu tiên của Tom và Isabel. Khi ấy Isabel gục đầu vào lòng mẹ, nước mắt tuôn rơi.
“Ý trời mà con,” Violet đã nói vậy. “Con phải hít một hơi thật sâu rồi đứng dậy. Nếu Chúa muốn con có con, con sẽ có con: cứ phải kiên nhẫn. Rồi cầu nguyện. Cầu nguyện là việc quan trọng nhất.”
Violet đã nói tránh với Isabel. Bà không kể lại bao nhiêu lần bà thấy người ta mẹ tròn con vuông, sau khi thay nghén đằng đẵng qua những ngày hè khô hạn hay nhưng ngày đông buốt giá, để rồi mất đứa nhỏ vì ban đỏ, vì bạch hầu. Áo quần của nó đành gấp lại ngay ngắn, để dành cho đứa em sau. Bà cũng không nhắc gì đến sự lúng túng của người mẹ mỗi khi phải trả lời câu hỏi thường tình như nhà có mấy đứa con. Mẹ tròn con vuông chỉ là bước đầu tiên của một hành trình dài và trắc trở. Trong căn nhà vốn từ lâu đã vắng tiếng con trẻ, Violet hiểu quá rõ điều đó.
Violet Graysmark là một người đáng tin cậy, hiếu thuận, người vợ hiền đáng kính của Bill Graysmark đáng kính. Bà biết giữ tủ quần áo không bị nhậy cắn, giữ bồn hoa không bị cỏ dại lấn. Bà biết cách tỉa hoa hồng để đến tháng Tám vẫn còn hoa nở. Món mứt chanh của Violet luôn hết hàng sớm nhất ở các dịp hội chợ của nhà thờ và công thức món bánh trái cây khô của bà từng được chọn để đưa vào sách dạy nấu ăn của Hội phụ nữ thị xã. Hàng đêm Violet vẫn tạ ơn Chúa đã ban cho mình nhiều ân sủng. Nhưng có những buổi chiều, khi ánh nắng yếu ớt biến khu vườn xanh thành một màu nâu xám buồn chán, khi bà đứng gọt khoai trong bếp, khi đó dường như tim bà không thể nào chất chứa hết nỗi buồn đau. Như Isabel đã khóc với bà trong lần gặp nhau đó, Violet cũng từng muốn khóc theo, muốn vật vã đau đớn và muốn nói rằng bà cũng hiểu được nỗi đau mất con: không có gì – không một người nào, không thứ tiền bạc nào, không gì cả trên đời này có thể bù đắp được. Nỗi đau đó không bao giờ, chẳng thể nào tan biến cả. Bà muốn kể cho con gái rằng có lúc bà từng điên dại, muốn nài nỉ với Chúa để đánh đổi bất kỳ thứ gì, chỉ để lấy lại đứa con đã mất.
Khi Isabel đã ngủ say và Bill bắt đầu gà gật bên lò sưởi sắp tàn, Violet mở tủ áo, lấy ra một hộp bánh quy bằng thiếc cũ. Bà lục lọi trong hộp, lần mò quanh mấy đồng xu cũ, cái gương soi nhỏ, đồng hồ đeo tay, ví tiền... cho đến khi chạm vào chiếc bì thư đã sờn mép sau nhiều năm. Bà ngồi trên giường, bên ánh đèn vàng vọt, đọc những dòng chữ vụng về, mặc dù đã thuộc lòng từng con chữ trong thư.
Kính gửi bà Graysmark,
Tôi mong bà sẽ thứ lỗi cho tôi đã đường đột viết thư này: bà không hề biết tôi. Tôi là Betsy Parmenter, ở Kent, Anh quốc.
Hai tuần trước tôi đi thăm Fred, con trai tôi. Fred được trả về từ mặt trận do bị thương, cháu bị mảnh đạn găm vào người. Fred nằm ở Bệnh viện Đa Khoa miền nam số 1 ở Stourbridge. Tôi có bà chị sống gần đó, vậy nên tôi có thể vào viện thăm cháu mỗi ngày.
Tôi viết thư này để kể lại chuyện một chiều nọ người ta mang vào viện một người lính Australia bị thương mà tôi nghĩ là con bà – cậu Hugh. Cậu ta bị thương rất nặng, chắc bà cũng sẽ biết. Hugh bị mùi mắt và cụt một cánh tay. Lúc đó cậu vẫn còn nói được vài tiếng. Cậu nói rất nhớ gia đình ở Australia. Hugh là một người dũng cảm. Ngày nào tôi cũng gặp cậu, cũng có lúc người ta hy vọng là Hugh sẽ qua khỏi, nhưng rồi cậu bị nhiễm trùng máu và tình hình cứ thế tệ dần đi.
Tôi chỉ muốn kể lại với bà rằng tôi có mang hoa vào cho Hugh (hoa uất kim hương đầu mùa, rất tươi) với ít thuốc lá. Tôi nghĩ Fred nhà tôi và Hugh rất hợp nhau. Có khi Hugh còn dùng ít bánh trái cây khô tôi mang vào, làm tôi rất vui. Hugh ăn cũng có vẻ ngon miệng. Buổi sáng hôm cậu đi tôi có ở đó, cả ba chúng tôi cùng đọc Kinh Lạy Cha và hát thánh ca Xin Chúa Ở Bên Con. Các bác sĩ đã cố hết sức làm giảm đau đớn cho Hugh, tôi nghĩ lúc ra đi cậu cũng không khổ sở quá. Rồi sau đó Cha sở vào làm lễ cho cậu.
Tôi muốn nói rằng chúng tôi vô cùng biết ơn sự hy sinh dũng cảm của con trai bà. Hugh cũng có nhắc đến em trai Alfie, tôi nguyện cầu cho Alfie bình an trở về với bà.
Tôi xin lỗi đã không viết cho bà sớm hơn. Fred nhà tôi cũng đã đi, chỉ một tuần sau Hugh. Sau nhiều việc tôi mới viết được, chắc bà cũng hiểu.
Gởi đến bà những lời chúc tốt lành và cùng cầu nguyện Thiên Chúa.
(Bà) Betsy Parmenter.
Trước đó Hugh chỉ biết đến uất kim hương qua sách vở, Violet nghĩ thầm. Bà thấy ấm lòng khi nghĩ rằng Hugh đã được chạm tay vào cánh hoa thật. Bà tự hỏi không biết uất kim hương có mùi ra sao.
Bà còn nhớ gương mặt buồn bã, gần như tội lỗi của người đưa thư chỉ vài tuần sau đó. Anh ta đưa cho bà một gói bưu phẩm: giấy gói màu nâu, có dây buộc, gởi cho Bill. Bà buồn đến nỗi không đọc cả mấy chữ in trên tờ giấy: bà đâu cần đọc nữa. Nhiều người mẹ từng nhận thứ bưu phẩm khiêm tốn chứa đựng những món di vật gói trọn cuộc đời con trai họ.
Tờ biên lai từ Melbourne ghi:
Kính gởi Ngài,
Bưu kiện gởi riêng theo sau thông báo này chứa di vật của Binh nhì Graysmark số hiệu 4497, Tiểu đoàn 28. Bưu kiện được nhận từ tàu “Themistoces”, có danh mục đính kèm.
Tôi vô cùng biết ơn nếu quý ngài ký xác nhận và gởi lại biên lai kèm theo sau khi bưu kiện đã được chuyển đến tận tay.
Trân trọng
J.M. Johnson, Thiếu tá
Sĩ quan đảm trách, Phòng Lưu trữ.
Một tờ giấy khác, gởi từ “Kho quân trang quân dụng, số 110 phố Greyhound, Fulham, London SW” liệt kê các món di vật. Violet thấy ngờ ngợ khi đọc đến đoạn: “gương cạo râu; thắt lưng; ba đồng xu; đồng hồ đeo tay dây da; kèn harmonica.” Thật kỳ lạ, chiếc kèn của Alfie lại ở đây, trong đám đồ đạc của Hugh. Rồi bà đọc lại lần nữa, đọc hết cả đám đơn từ, lá thư, xem lại bưu kiện, rồi đọc kỹ lại tên trên đó. A.H. Graysmark, không phải là H.A. Di vật của Alfred Henry, chứ không phải Hugh Albert. Bà chạy đi tìm chồng. “Bill! Ôi Bill!” bà khóc nấc lên. “Người ta nhầm rồi, thật khủng khiếp!”
Sau đó là khá nhiều thư từ qua lại, thư của nhà Graysmarks luôn viết trên giấy viền đen báo tang. Cuối cùng họ cũng biết được rằng Alfie hy sinh chỉ sau Hugh một ngày, tức là đúng ba ngày sau khi đặt chân đến nước Pháp. Hai anh em nhà Graysmark nhập ngũ cùng đơn vị, cùng một ngày, đã rất tự hào về số hiệu quân nhân liền kề của mình. Người đánh tín hiệu từng tận mắt thấy Hugh được người ta khiêng ra trên băng cứu thương, vẫn còn sống. Khi được lệnh gởi điện tín báo tin Tử trận của A.H. Graysmark thì ông ta lập tức nghĩ rằng ắt hẳn người ta ghi nhầm, đáng ra phải là H.A. Graysmark. Mà chính mắt ông ta thấy Hugh vẫn còn sống, vậy là ông ta quyết định không đánh bức điện tín ấy. Violet lần đầu tiên biết tin đứa con trai thứ hai hy sinh qua gói bưu phẩm tuềnh toàng trên tay. Thôi thì thời chiến mà, nhầm lẫn như vậy cũng thường. Violet khi đó đã tự nhủ thế.
***
Lần trước về nhà Isabel không khỏi nghĩ đến cái bóng đen bao phủ gia đình mình sau khi hai anh cô qua đời. Nỗi đau mất mát như tràn xuống cuộc đời mẹ cô, tựa một vết mực loang. Năm đó Isabel mới mười bốn tuổi, cô nhớ đã tìm khắp trong từ điển như thế nào. Cô biết rằng người vợ mất chồng được gọi là goá phụ, chồng mất vợ thì thành đàn ông goá vợ. Nhưng nếu cha mẹ mất con cái thì không có từ nào để đánh dấu sự mất mát đó. Họ vẫn chỉ là cha, là mẹ, ngay cả khi mất đi đứa con trai hay con gái ruột. Thật kỳ lạ. Khi đó cô nghĩ thầm không biết mình có còn là một cô em gái nữa không, vì các anh thân yêu đã chết rồi.
Cứ như thể một quả bom từ tiền tuyến ở Pháp vừa nổ tung giữa gia đình cô, để lại lòng hố sâu không cách gì lấp được. Ngày qua ngày Violet cứ dọn dẹp phòng hai đứa con trai, đánh bóng mấy cái khung ảnh bằng bạc. Bill trở nên lặng lẽ. Isabel có khơi chuyện gì ông cũng không đáp lại, có lúc còn bước ra khỏi phòng. Isabel biết rằng phận sự của cô lúc này là không gây thêm phiền hà gì cho cha mẹ nữa. Cô là thứ phần thưởng an ủi của ông bà, thay thế chỗ cho hai người con trai.
Giờ đây niềm vui của ông bà càng khiến Isabel tin rằng cô đã làm đúng khi quyết định giữ Lucy ở lại đảo. Những bóng đen u buồn dai dẳng đã tan biến. Đứa bé hàn gắp nhiều cuộc đời: không chỉ cô, Tom, mà còn là cuộc đời của hai người tưởng như đã ngã quỵ vì mất mát.
Trong bữa trưa ngày Giáng Sinh, Bill Graysmark nói lời cầu nguyện, gần như nức nở khi cám ơn Chúa đã mang Lucy đến. Sau đó khi đứng trong bếp, Violet thổ lộ với Tom rằng chồng bà cứ như một người khác hẳn từ ngày Lucy ra đời. “Thật nhiệm màu. Cứ như thuốc tiên.”
Bà nhìn đám hoa dâm bụt màu hồng bên ngoài cửa sổ. “Khi nhận được tin dữ từ Hugh, Bill đã rất đau khổ, nhưng tới khi biết tin Alfie thì ngã quỵ hoàn toàn. Ban đầu ông ấy mãi không chịu tin. Nói là không thể nào có chuyện như vậy được. Hàng tháng trời ông ấy viết thư hết chỗ này đến chỗ khác, khắp mọi chốn, cứ cố chứng minh hẳn đã có sự nhầm lẫn. Lúc đó tôi cũng có phần an ủi: tôi rất tự hào vì ông ấy vẫn cố chống lại tin dữ. Nhưng rồi ở đây có nhiều người không chỉ mất một đứa con. Tôi biết vậy.
“Cuối cùng ông ấy cũng kiệt sức. Đau khổ quá.” Bà hít một hơi sâu. “Nhưng giờ đây...” bà ngước nhìn, mỉm cười hạnh phúc, “ông ấy lại như xưa, nhờ có Lucy. Tôi nghĩ ông ấy thương Lucy nhiều như anh vậy. Con nhỏ là cả thế gian với ông ấy.” Rồi bà nhón chân, hôn lên má Tom. “Cảm ơn anh.”
Sau bữa trưa hai người phụ nữ đi dọn dẹp bát đĩa, Tom ngồi trên bãi cỏ phủ bóng râm với Lucy. Con bé lẫm chẫm chạy chơi, thỉnh thoảng lại chạy đến bên anh, hôn anh tới tấp. “Trời, cảm ơn cưng nhiều!” anh cười khúc khích. “Đừng ăn thịt ba mà!” Con bé nhìn anh, đôi mắt tìm kiếm mắt anh, như mặt gương trong phản chiếu, mãi tới khi anh kéo nó vào lòng, cù vào người nó.
“A, người cha kiểu mẫu đây rồi!” một giọng nói vang lên từ sau lưng. Tom quay lại, thấy ông cha vợ đang tới gần.
“Ra coi hai người sao rồi. Vì hay nói là tôi rất mát tay với ba đứa con!” Khi những tiếng cuối cùng bật ra, dường như có một bóng đen vừa lướt qua trên gương mặt Bill. Nhưng rồi nó chóng tan đi, Bill dang đôi cánh tay ra. “Lại đây với ngoại nào. Lại bứt râu ngoại chơi con. Cục vàng của ngoại!”
Lucy chập chững đi về phía Bill. “Lên đây!” ông nói, rồi nhấc bổng con bé lên. Nó liền với tay tìm chiếc đồng hồ có dây xích trong túi áo gi-lê của Bill, giật ra.
“Muốn coi giờ hả con? Lại coi nữa hả?” Bill bật cười, rồi bắt đầu làm đủ lệ bộ mở chiếc nắp vàng, chỉ cho con bé thấy kim đồng hồ. Lucy đóng sập cái nắp, đưa cho Bill để được mở ra một lần nữa. “Violet cũng khổ tâm lắm, anh biết không,” ông nói với Tom.
Tom phủi đám cỏ bám vào quần, đứng dậy. “Chuyện gì hả ba?”
“Chuyện ở xa Isabel, rồi giờ đây lại không được gần cháu...” Ông dừng lại. “Ở Partageuse hẳn cũng có việc cho anh làm chứ..? Anh có bằng đại học kia mà...”
Tom khẽ nghiêng người, lúng túng.
“Ờ thì người ta nói đó – đã là người gác đèn thì mãi là người gác đèn.”
“Đúng là người ta nói vậy,” Tom nói.
“Có đúng vậy không?”
“Cũng không sai.”
“Nhưng vẫn bỏ được chứ? Nếu mình thực sự muốn bỏ?”
Tom nghĩ ngợi một lúc rồi mới trả lời. “Ba à, một người đàn ông có thể bỏ vợ mình, nếu muốn vậy. Nhưng không có nghĩa làm như vậy là đúng.”
Bill nhìn anh, lạ lùng.
“Sẽ là không công bằng khi được họ đào tạo, có kinh nghiệm rồi lại bỏ đi khi người ta cần. Với cả làm mãi cũng quen.” Anh ngước nhìn bầu trời, suy tư. “Con thuộc về nơi đó. Isabel cũng thích ở đó nữa.”
Đứa bé với tay về phía Tom. Anh đỡ lấy, bế ngang hông như một thứ phản xạ tự nhiên.
“Ờ thì anh ráng mà coi sóc con cháu của tôi. Tôi chỉ nói vậy thôi.”
“Con sẽ cố hết sức. Con hứa với ba vậy đó.”
***
Truyền thống quan trọng nhất trong ngày lễ Boxing sau Giáng Sinh ở Partageuse là Hội chợ gây quỹ cho nhà thờ. Đó là dịp người dân thị trấn và các vùng quanh đó tụ hội, một truyền thống đã có từ lâu. Người nghĩ ra lệ này hẳn rất khôn ngoan, thấy ngay được lợi ích của việc tổ chức một sự kiện gây quỹ vào cái ngày mà không ai có thể viện cớ bận công chuyện để từ chối tham gia. Với cả cũng còn trong lễ Giáng Sinh, ai nỡ lòng nào mà không hào phóng chi tiền.
Bên cạnh các món bánh ngọt và kẹo bơ, những lọ mứt trái cây thỉnh thoảng lại nổ tanh bành dưới ánh nắng gay gắt, hội chợ còn nổi tiếng với những hoạt động thể thao vui nhộn: nào là chạy đua miệng ngậm muỗng đựng nguyên quả trứng, rồi chạy đua hai người ba chân, nhảy bao bố... toàn những tiết mục chính trong ngày. Trò ném dừa vẫn được bày ra, nhưng sau chiến tranh người ta đã bỏ những gian hàng bắn súng, vì đàn ông xứ Mũi giờ bắn đã có nghề, làm vậy không kiếm lời được.
Dân xứ Mũi ai cũng có thể dự phần hội chợ thành cái lệ gần như bắt buộc. Các gia đình thường đi chơi nguyên một ngày. Người ta nướng thịt viên và xúc xích trên mấy cái thùng phi bốn trăm lít cắt đôi, bán mỗi phần như vậy giá sáu xu. Gia đình Tom ngồi trên tấm chăn trải dưới bóng râm, ăn bánh mì kẹp xúc xích. Lucy bóp nát bánh mì, rắc đầy vụn bánh lên đĩa cạnh đó.
“Hồi đó mấy anh chạy giỏi lắm,” Isabel nói. “Lúc nào cũng thắng trò chạy đua ba chân. Má còn giữ cái cúp năm em thắng trò nhảy bao bố.”
Tom mỉm cười. “Tôi không biết mình còn là quán quân thể thao nữa.”
Cô đập lên tay anh, đùa giỡn. “Em chỉ kể mình nghe chuyện nhà Graysmark thôi.”
Tom đang dọn lại chỗ vụn bánh của Lucy vừa sắp đổ tràn ra thì một cậu bé có đeo phù hiệu quản trò xuất hiện. Cậu ta cầm một tập giấy và cây viết chì, lên tiếng hỏi. “Xin lỗi. Con của anh đó à?”
Câu hỏi khiến Tom giật mình. “Gì kia?”
“Tôi hỏi em bé đó có phải con anh không.”
Tom ấp úng mãi không thành lời.
Cậu bé quay sang phía Isabel. “Con của chị à?”
Isabel nhướng mày trong giây lát, rồi chậm rãi gật đầu khi hiểu ra. “Em đang ghi danh trò chạy đua của cha hả?”
“Đúng vậy.” Cậu ta đặt bút chì trên trang giấy rồi hỏi Tom. “Tên anh viết kiểu gì?”
Tom nhìn Isabel, nhưng trên gương mặt cô không có chút gì lúng túng. “Nếu mình quên luôn rồi thì để em chỉ cho,” cô trêu anh.
Tom chờ đợi Isabel hiểu ra ý mình, nhưng cô vẫn mỉm cười. Cuối cùng, anh nói, “Tôi chạy dở lắm.”
“Nhưng người cha nào cũng tham gia cả,” cậu bé nói, dường như trước đó chưa gặp ai từ chối.
Tom cẩn thận lựa lời. “Tôi sẽ không qua nổi vòng loại nữa kia.”
Khi cậu bé bỏ đi tìm một vận động viên khác, Isabel nói nhẹ như không. “Không sao cả, Lucy. Để lát má thi chạy cũng được. Ít nhất cũng có một người sẵn sàng làm trò hề cho con.” Nhưng Tom không đáp lại nụ cười của cô.
***
Bác sĩ Sumpton rửa tay khi Isabel mặc áo quần lại sau rèm. Cô đã giữ đúng lời hứa với Tom là sẽ đi bác sĩ khi trở lại Partageuse.
“Thực ra không có trục trặc gì cả,” ông ta nói.
“Vậy thì là cái gì? Cháu có bị bệnh gì không?”
“Không sao cả. Chỉ là thay đổi bình thường thôi,” bác sĩ vừa nói vừa ghi chép. “Cô cũng còn may là đã kịp có con, nên chưa đến nỗi như nhiều người khác, khi mãn kinh sớm như vậy. Còn những triệu chứng khác thì tôi e là cô phải cắn răng mà chịu. Khoảng một năm nữa sẽ hết. Quy luật tự nhiên mà.” Ông ta mỉm cười nhìn cô. “Rồi sau đó cô sẽ thấy nhẹ nhõm: không phải chịu những rắc rối kinh nguyệt nữa. Nhiều người sẽ còn ghen với cô đó.”
Trên đường về nhà, Isabel cố không bật khóc. Cô có Lucy; cô có Tom... vào cái thời mà nhiều phụ nữ khác đã mãi mất đi những người họ yêu thương nhất. Đòi hỏi nhiều hơn thế thì thật tham lam.
***
Mấy ngày sau Tom ký hợp đồng cho nhiệm kỳ ba năm tiếp theo, Cán bộ Cục Hải đăng từ Fremantle xuống tận nơi để chứng kiến, một lần nữa lại hết sức cẩn trọng quan sát chữ viết và chữ ký của Tom, so sánh với mấy giấy tờ ban đầu. Nếu ông ta thấy Tom có dấu hiệu run tay thì sẽ không bao giờ để anh quay lại đảo. Thời đó ngộ độc thuỷ ngân vẫn khá phổ biến: nếu phát hiện sớm, khi chỉ mới bị run tay, người ta vẫn có thể tránh được việc phải gởi đi thêm một người gác đèn có nguy cơ phát bệnh điên loạn, không thể làm trọn nhiệm kỳ tiếp theo.