Nếu bạn cứ chằm chằm nhìn vào mặt xấu của một ai đó sẽ làm anh ta càng trở nên tồi tệ hơn. Nhưng nếu khuyến khích anh ta vươn tới những điều hay mà anh ta có thể, chắc chắn anh ta sẽ làm được.

Johann Goethe

 
 
 
 
 
Tác giả: John Dickson Carr
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Đỗ Thư
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 186 / 18
Cập nhật: 2020-07-09 16:11:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
XIV - Chiếc Đồng Hồ Bất Ngờ
hiếu tá Crow và sĩ quan Bostwick đi ngang qua Marjorie ở cửa khi cô đang bước ra ngoài. Nhưng thiếu tá Crow không nói lời nào cho tới khi cánh cửa đã được đóng lại. Ông ấy đã trở lại trạng thái bình thường.
“Chào buổi sáng, thanh tra,” ông lịch sự nói. “Hoặc đúng hơn, là chào buổi chiều. Chúng tôi đã không thể nào tìm được anh sáng nay.”
“Xin lỗi, thưa ngài.”
“Không sao,” người kia nói, vẫn giữ thái độ lịch thiệp. “Tôi chỉ muốn báo anh biết rằng có một vấn đề nhỏ: một cái chết khác, cần được xem xét đến thôi.”
“Tôi đã nói là tôi xin lỗi, thưa ngài.”
“Vì anh đi với Fell bạn tôi, nên tôi cũng không có ý kiến gì. Anh đã may mắn hơn tôi nhiều. Tôi đã cố gắng khiến ông ấy hứng thú với vụ này vào tháng Sáu vừa rồi. Nhưng không được. Dường như vụ việc không làm ông ấy xúc động lắm. Không có những căn phòng bị bịt kín. Không có những yếu tố siêu nhiên. Không có chuyện vui tại khách sạn Royal Scarlet. Chỉ có một vụ giết người tàn bạo bằng strychnine, và vài người suýt bị giết. Nhưng bây giờ thì chúng ta đã có hàng loạt bằng chứng, và thêm hai nạn nhân nữa, những người mà, thanh tra, đáng giá cho anh xem xét.”
Elliot nhấc cuốn sổ ghi chú của mình lên.
“Tôi đã nói tới hai lần là tôi xin lỗi, thưa ngài,” anh chậm rãi đáp. “Tôi thấy không cần thiết phải nói thêm lần nữa. Và hơn nữa, nếu ngài muốn biết sự thật, tôi không cho rằng tôi đã bỏ bê những việc mà tôi nên tham gia vào. Nhân tiện, có cảnh sát nào ở Sodbury Cross không vậy?”
Bostwick, người cũng lấy ra một cái tẩu và đang gói thuốc, tạm ngưng không xoay thân chiếc tẩu nữa.
“Có, chàng trai,” ông nói. “Và tại sao bây giờ anh lại muốn biết điều đó?”
“Chỉ bởi vì tôi chẳng nhìn thấy bất kì ai cả. Ai đó đã đập vỡ một cánh cửa kính dưới lầu bằng một viên đá, và tạo ra tiếng ồn mà ông có thể nghe được từ Bath. Nhưng tôi lại chẳng thấy gã cảnh sát nào xuất hiện hết.”
“Mẹ kiếp,” Bostwick nói, đột nhiên thổi vào thân cái tẩu và nhìn lên lần nữa. Dù chỉ là một ảo ảnh quang học, nhưng khuôn mặt ông dường như phồng lên đến mức giật mình. “Giờ thì ý anh là sao đây?”
“Như tôi đã nói.”
“Nếu anh cho là,” Bostwick nói, “tôi đang nghĩ rằng – chú ý, tôi nói là điều tôi nghĩ – rằng còn quá sớm để bắt giữ quý cô trẻ tuổi nào đó, người mà chẳng cần nêu tên ra… Thì đúng, đúng là tôi có nghĩ như vậy.”
“NÀY!” tiến sĩ Fell gầm lên.
Tiếng gầm đó thổi tung các khung cửa sổ, và khiến tất cả mọi người quay lại.
“Chuyện này phải dừng lại,” tiến sĩ Fell nghiêm túc nói. “Các anh đang tranh luận ngớ ngẩn đấy, và các anh biết rõ điều đó. Nếu phải lôi ai đó ra để trách móc, thì hãy trách móc tôi đây. Lí do thực sự cho tất cả sự huyên náo này (và chính các anh cũng biết rõ) đó là mỗi người trong các anh lại có những quan điểm, giới hạn, định kiến, và ngoan cố khác nhau về việc ai là người có tội. Chúa ơi, làm ơn dịu xuống đi, hoặc chúng ta sẽ chẳng đi được đến đâu cả.”
Thiếu tá Crow phá vỡ sự căng thẳng trong phòng bằng tiếng cười rộn ràng. Nó là một âm thanh chân thành, mộc mạc, kéo theo cả Elliot và Bostwick đều cười toe toét.
“Thằng cha già khó chịu này khá là đúng đấy!” thiếu tá Crow đồng tình. “Xin lỗi, thanh tra. Sự thật là (anh có thể gộp vào đây luôn) chúng tôi đã quá tập trung vào tình huống gay go mà chúng tôi không thể đối diện thẳng. Và chúng tôi phải nhìn thẳng vào vấn đề. Chúng tôi buộc phải làm điều đó.”
Bostwick đưa túi đựng thuốc lá của mình cho Elliot. “Làm một điếu nhé,” ông mời.
“Cám ơn. Tôi không ngại gì đâu.”
“Và giờ,” tiến sĩ Fell nói một cách đe dọa, “giờ thì mọi chuyện đã ổn và sự ấm áp thường thấy đã bao trùm trên tất cả…
“Tôi không thừa nhận rằng mình có một quan điểm giới hạn và định kiến,” thiếu tá Crow nói với vẻ nghiêm trang. “Tôi không có. Tất cả những gì tôi biết là tôi đã đúng. Khi tôi thấy Emmet khốn khổ nằm ở đó…”
“A ha!” sĩ quan Bostwick lẩm bẩm, với một sự uốn giọng đầy hoài nghi và hung hãn đến mức khiến Elliot giật nảy mình. Anh tự hỏi không biết bây giờ hai bọn họ đang suy luận theo hướng nào.
“…nhưng không có manh mối nào để tiếp tục cả, thanh tra. Không có gì để nắm lấy. Có Emmet, thì đã chết. Có ai đó đã lẻn vào trong đêm và tiêm vào tay cậu ấy. Không ai biết, hoặc sẽ thừa nhận có biết, về bất kì điều đáng ngờ nào đêm qua. Bất kì ai cũng có thể thực hiện điều đó. Thậm chí cả một người ngoài cũng có thể, bởi vì họ không bao giờ khóa cửa ở Bellegarde. Rất ít người quanh đây khóa cửa vào buổi đêm. Tôi nói thậm chí cả một người ngoài cũng có thể thực hiện điều này mặc dù tôi biết mình nghĩ khác. À, nhân tiện, tôi có gặp qua West, để lấy báo cáo y tế rằng Chesney bị giết với khoảng một grain axit xyanhydric tinh khiết. Không có bất kì dấu vết nào của những thành phần khác nên ông ấy không thể bị giết bởi những chất thành phẩm như kali hay thủy ngân xyanua được. Và đó là tất cả những gì chúng tôi có.”
“Không, không phải thế đâu,” tiến sĩ Fell nói với sự thỏa mãn. “Đây là ông Stevenson. Giờ thì, bạn thân mến. Chúng tôi đã sẵn sàng rồi. Mở nó lên thôi.”
Sự yên lặng khó chịu đang dần len lỏi giữa bọn họ.
Stevenson, ý thức được tầm quan trọng của bản thân, bước lên một chút và có vẻ hơi bối rối. Sau khi lau trán, anh kiểm tra ánh sáng. Anh liếc nhìn vào những khung cửa sổ. Anh kiểm tra tấm màn chiếu treo trên khoảng trống giữa những cánh cửa đôi. Sau một lúc xem xét kĩ lưỡng cái bàn, anh kéo nó lùi lại, va mạnh vào tường, cho tới khi nó gần như dựa vào bức tường đối diện tấm màn chiếu. Sau đó anh đẩy nó hướng lên vài inch. Từ kệ sách, anh kéo ra một số tập của bộ sách Bách khoa toàn thư Britannica, và chất đống chúng trên bàn để tạo thành một chiếc bục cao hơn cho cái máy chiếu. Tất cả bốn nhà điều tra bây giờ đều đang hút thuốc, vậy nên một đám mây bằng khói bắt đầu xuất hiện trong căn phòng mờ tối. Chúng có xu hướng lảng vảng ở đó mà không chịu tan đi.
“Thứ này sẽ không hoạt động đâu,” thiếu tá Crow đột nhiên nói. “Sẽ có gì đó sai sót thôi.”
“Nhưng thứ gì có thể bị sai sót được?” Elliot hỏi.
“Tôi không biết. Thứ chết tiệt gì đó. Chuyện này đang quá dễ dàng. Rồi anh sẽ thấy.”
“Tôi đảm bảo với ông là nó chạy tốt, thưa ông,” Stevenson nói, quay khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi lại. “Mọi thứ sẽ sẵn sàng chỉ trong một giây nữa.”
Sự im lặng cứ kéo dài mãi, chỉ có âm thanh lạch cạch bí ẩn thỉnh thoảng vang lên trong khi Stevenson đang thao tác, hoặc những tiếng rít thê lương của các phương tiện giao thông vọng lại từ Đại Lộ. Stevenson nhích chiếc sô pha sang một bên để có tầm nhìn thẳng vào màn hình. Anh xếp lại mấy cái ghế. Có một nếp nhăn nhẹ trên màn chiếu, vậy nên anh lại thay đổi vị trí của một tấm bảng vẽ và khiến nếp nhăn đó biến mất. Cuối cùng, trong sự thở phào nhẹ nhõm của mọi người, anh chầm chậm lùi lại bằng gót chân và hướng về phía những cánh cửa sổ.
“Giờ, thưa quý ông,” anh nói trong khi dò dẫm tìm kiếm chỗ mấy tấm rèm cửa. “Sẵn sàng. Hãy lấy ghế ngồi trước khi tôi đóng màn lại.”
Tiến sĩ Fell ì ạch lê người đến chiếc sô pha. Bostwick nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh ông. Elliot kéo một cái ghế đến gần, ở một bên màn hình. Có tiếng lách cách của những chiếc vòng vang lên khi một bộ rèm được kéo kín lại với nhau.
“Giờ, thưa quý ông…”
“Dừng lại!” thiếu tá Crow nói, lấy điếu thuốc ra khỏi miệng.
“Ôi trời đất ơi,” tiến sĩ Fell la ó, “giờ thì là chuyện gì?”
“Không cần phải nổi nóng như thế,” người kia phản đối. Ông dùng điếu thuốc trên tay chỉ trỏ vu vơ. “Giả như… Chà, giả như không có gì sai sót xảy ra.”
“Đó là điều chúng ta đang chờ xem, anh biết mà.”
“Giả sử như cuộn phim chạy tốt như chúng ta hi vọng. Có những điều chắc chắn chúng ta cần phải biết: chiều cao thực tế của bác sĩ Nemo chẳng hạn. Vậy nên bây giờ chúng ta cần thống nhất trước một số điểm, về việc chúng ta sẽ được biết gì? Bác sĩ Nemo là ai? Ý kiến của anh thế nào, Bostwick?”
Sĩ quan Bostwick quay khuôn mặt tròn vo ở trên mặt sau của chiếc ghế sô pha lại. Ông cầm điếu thuốc của mình theo cách như thể nó đang được treo lơ lửng phía sau đầu mình.
“Chà, thưa ngài, nếu ngài hỏi, tôi ngờ rằng chúng ta sẽ phát hiện được hắn ta chính là Wilbur Emmet thôi.”
“Emmet! Emmet? Nhưng Emmet chết rồi mà!”
“Lúc đó thì vẫn chưa chết,” sĩ quan chỉ ra.
“Nhưng – mà thôi, đừng bận tâm. Còn quan điểm của ông thì sao, Fell?”
“Thưa ông,” tiến sĩ Fell nói với vẻ nhã nhặn tinh tế, “quan điểm của tôi là đây. Quan điểm của tôi chỉ là tôi ước mình được phép có một quan điểm. Một mặt tôi khá chắc chắn những gì chúng ta sẽ nhìn thấy. Mặt khác tôi lại không hề chắc chắn về những điều chúng ta sẽ được xem. Còn bây giờ, tôi sẽ ngừng nguyền rủa những gì chúng ta biết, miễn là chúng ta có thể tiếp tục xem cuộn băng.”
“Bắt đầu đây!” Stevenson nói.
Những tấm màn còn lại cũng đã được đóng kín. Giờ đây trong bóng tối chỉ còn ánh sáng mờ nhạt của ngọn lửa trong lò, và tia sáng lập lè thoắt ẩn thoắt hiện của đầu một điếu thuốc. Ellliot bỗng cảm nhận được sự ẩm ướt thường bám lấy những căn nhà bằng đá cũ, cảm nhận được sự ngột ngạt, và khói. Anh không hề gặp khó khăn trong việc định dạng khuôn mặt những người bạn đang ngồi cạnh mình: thậm chí cả khuôn mặt của Stevenson ở mặt sau của căn phòng nữa. Stevenson di chuyển vòng quanh, bước rón rén để tránh ổ điện gắn vào máy chiếu. Anh ta bật máy lên. Những tia sáng lập lòe phát ra từ chiếc máy, chiếu sáng anh ta như thể một nhà giả kim đang đứng trên lò nấu quặng. Và chùm tia sáng của máy chiếu, được khói bắt lấy và cuộn vòng quanh, xuất hiện trên màn hình trong hình dạng một vết đốm trắng có diện tích khoảng bốn feet.
Một chuỗi âm thanh lách cách nhỏ, và một tiếng click của thứ gì đó vừa được bật lên hay tắt đi vang lên từ phía sau căn phòng. Chiếc máy chiếu bắt đầu ngâm nga, tiếng vo vo ồn ào to dần. Màn hình lóe lên, chập chờn một chút và sau đó lại tối đen như mực.
Không hề xảy ra bất kì sai sót nào, và tiếng ồn vo vo vẫn tiếp tục tràn ngập căn phòng. Màn hình vẫn đang màu đen, có phát ra chút xám, và hơi rung nhẹ. Dường như nó sẽ cứ đen thui không hồi kết như thế hoài. Rồi một vệt ánh sáng lờ mờ xuất hiện và trở nên chói chang. Như thể một vết nứt thẳng đứng đang mở xuống từ trung tâm màn hình, và một vệt đen mơ hồ đẩy vệt sáng đó trải rộng ra. Elliot biết đó là gì. Đó là quang cảnh phía sau Phòng Nhạc, chỗ nối với phòng làm việc, và Marcus Chesney đang đẩy mở những cánh cửa đôi thông giữa hai căn phòng.
Có người ho khan. Hình ảnh nhảy lên một chút, sau đó họ đã nhìn thấy khung cảnh bên trong phòng làm việc ở Bellegarde, như thể khung cảnh đó vừa được cắt ra từ một mảng bóng tối vậy. Có một cái bóng di chuyển dọc theo cạnh của khung hình, rõ ràng đó là một người đàn ông đang đi bộ lại chỗ cái bàn. Harding đã quay hình từ một nơi hơi xa về bên trái quá, vậy nên bạn không thể nhìn thấy những cánh cửa sổ kiểu Pháp. Cuộn phim có ánh sáng mơ hồ khá tệ hại mặc dù những đường nét bóng đổ thì lại rất sắc nét. Nhưng rõ ràng bạn có thể le lói thấy bệ lò sưởi, mặt của chiếc đồng hồ quả lắc lập lòe, mặt sau của chiếc ghế xoay công sở, mặt bàn rộng, hộp sô cô la có hoa văn xám, và hai đồ vật bé xíu giống như bút chì đang nằm trên miếng đệm giấy. Sau đó có một sự chuyển động ở phía rìa ánh sáng, và khuôn mặt của Marcus Chesney nhìn chăm chú ra từ màn hình.
Hình ảnh của Marcus Chesney không phải là một cảnh tượng dễ chịu. Do sự sắp đặt ánh sáng, do không có trang điểm, và do thế giới chập chờn thất thường tạo ra bởi khuôn máy quay không ổn định, trông ông như thể đã chết rồi vậy. Khuôn mặt ông không có chút máu nào, đôi lông mày nổi bật và hốc mắt trống rỗng, còn hai gò má thì cứ xuất hiện sọc tối bất cứ khi nào ông quay đầu lại. Nhưng Marcus đang có một kiểu biểu cảm cực kì bình tĩnh và kiêu ngạo. Ông nhấp nhô trong màn hình và chuyển động một cách nhàn nhã.
“Nhìn cái đồng hồ kìa,” ai đó kinh ngạc nói từ phía sau vai Elliot. Âm thanh đó lấn át cả tiếng vo vo ổn định của chiếc máy chiếu. “Nhìn cái đồng hồ đi! Mấy giờ thế?”
“LạyChúalònglành…” giọng của Bostwick vang lên.
Căn phòng đột nhiên bị khuấy động lên, như thể chính là các đồ vật đang di chuyển chứ không phải người.
“Trên đó là mấy giờ? Anh vừa nói gì thế?”
“Tất cả bọn họ đều sai rồi,” giọng của Bostwick vang lên lần nữa, “tôi nói vậy đó. Một trong số họ nói là nửa đêm, một người nói khoảng nửa đêm, và giáo sư Ingram nói mười hai giờ kém một phút. Tất cả họ đều sai. Là mười hai giờ một phút.”
“Suỵt!”
Thế giới trong màn hình không hề bị ảnh hưởng. Với một sự cân nhắc tuyệt vời Marcus Chesney đã kéo chiếc ghế xoay ra và ngồi xuống. Ông với tay đẩy hộp sô cô la về phía bên phải mình một chút, với sự tỉ mỉ tuyệt vời và hoàn toàn đối lập với sự nhấp nháy của cuộn phim. Tiếp theo ông nhấc lên một cây bút chì mỏng, và ông dùng nó để giả vờ viết một cách chăm chỉ và e dè. Tiếp theo, ông dùng móng tay đào sâu vào miếng chặn giấy, và có gặp một chút khó khăn, ông đã lấy vật thể nhỏ xíu kia lên. Họ nhìn thấy nó một cách rõ ràng, ngay dưới ánh sáng.
Miêu tả của giáo sư Ingram về đồ vật này lóe lên trong tâm trí Elliot. Giáo sư đã miêu tả nói là một thứ giống như một cây bút, nhưng nhỏ và hẹp hơn. Ông ấy cũng mô tả nó như một mảnh gỗ mỏng, dài dưới ba inch, hơi đen, có đầu nhọn nhô lên. Và đây là một miêu tả chính xác.
“Tôi biết đó là gì,” thiếu tá Crow nói.
Tiếng ghế di chuyển phát ra những âm thanh kèn kẹt. Thiếu tá Crow bước nhanh ra khỏi nhóm người, lách qua một bên, và ló đầu vào chùm ánh sáng đang chiếu trên màn hình để nhìn kĩ hơn. Bóng của ông che phủ cả nửa màn hình, và một chuỗi các hình ảnh rõ nét của Marcus Chesney trở nên cong vẹo dữ dội, nhảy múa mờ ảo trên lưng của chiếc áo mưa mà thiếu tá đang mặc.
“Dừng hình lại,” thiếu tá Crow nói, hoàn toàn chìm trong chùm tia sáng của máy chiếu. Giọng ông trở nên cao hơn.
“Tôi biết nó là gì rồi,” ông lặp lại. “Nó là chiếc kim phút của chiếc đồng hồ.”
“Cái gì cơ?” Bostwick hỏi lại.
“Cây kim phút của chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi,” thiếu tá Crow la to, đưa ngón tay lên như để minh họa. “Chúng ta đã nhận thấy chiếc đồng hồ có đường kính sáu inch. Các anh có thấy không? Nó là một cây kim phút dài, trái ngược với cây kim giờ ngắn. Tất cả những gì Chesney phải làm trước buổi trình diễn là tháo đầu trục giữ mấy cây kim ra (chúng ta đã thấy chiếc đồng hồ có một cái đầu ốc vít), lấy cây kim phút ra khỏi cái trục, và thay thế cái ốc vít. Chiếc đồng hồ trong đó chỉ có một cây kim, đó là cây kim giờ đứng yên tại số mười hai.
“Chúa ơi, làm ơn! Các anh vẫn chưa nhận ra à? Chỉ có một cây kim giờ trên chiếc đồng hồ. Tất cả những nhân chứng đều nghĩ rằng họ đã thấy hai cây kim. Nhưng những gì họ thực sự thấy là cây kim giờ và một cái bóng đen, sắc nét của nó được tạo ra bởi ánh sáng rực rỡ chiếu lên từ bên dưới, cái bóng đổ xuống bên trên và bên cạnh trên mặt đồng hồ trắng.”
Ông chỉ tay, dường như đang phải vật lộn để không nhảy nhót ăn mừng.
“Điều này cũng lí giải tại sao lại có khác biệt trong các lời khai, các anh không thấy sao? Lời khai của những nhân chứng khác nhau do hướng mà họ thấy cái bóng đổ xuống khác nhau. Giáo sư Ingram, ngồi ngoài cùng bên phải, thấy cái bóng đổ lúc mười hai giờ kém một phút. Cô Wills, ngồi ngay trung tâm, thấy nó chết đứng ở lúc mười hai giờ. Cuộn phim này, được quay từ góc ngoài cùng bên trái, cho thấy lúc đó là mười hai giờ một phút. Sau màn trình diễn, khi Chesney cẩn thận đóng những cánh cửa đôi lại, tất cả những gì ông ấy phải làm là thay cây kim phút vào chiếc đồng hồ. Việc đó chỉ tốn khoảng năm giây. Và chiếc đồng hồ lại chạy đúng lần nữa. Nhưng trong suốt màn trình diễn Chesney đã có một cú lừa ngoạn mục, cầm cây kim phút ngay dưới mắt họ, và chẳng ai trong số họ thấy được nó.” Xung quanh chợt trở nên yên tĩnh.
Từ trong bóng tối vang lên âm thanh vỗ đùi tán thưởng của Bostwick, tiếng làu bàu xác nhận của tiến sĩ Fell, và tiếng lầm bầm của Stevenson khi anh ta vật lộn với một đoạn phim bị kẹt. Thiếu tá Crow nói thêm, bình tĩnh hơn, nhưng bùng nổ niềm tự hào trong giọng mình:
“Không phải khi đó tôi đã nói rằng có trò lừa gạt nào đó trong cái đồng hồ sao?”
“Ngài đã đúng,” Bostwick nói.
“Nghe hợp với các luận điểm tâm lí,” tiến sĩ Fell gật đầu một cách mạnh mẽ, thừa nhận. “Mọi người biết đấy, tôi cược là trò đó có thể sẽ lừa được họ ngay cả khi không có bóng đổ trên chiếc đồng hồ. Khi đến nửa đêm chúng ta chỉ thấy một cây kim duy nhất, chúng ta không hề liếc mắt thêm lần nào nữa, thói quen sẽ đánh lừa chúng ta. Nhưng Chesney giỏi giang thậm chí còn đi xa hơn nữa và khiến cho kế hoạch của mình hoàn hảo gấp ba lần. Chúng ta bắt đầu thấy được, rằng đó là lí do tại sao ông ấy cứ khăng khăng đòi tổ chức chương trình vào khoảng nửa đêm. Ảo ảnh về bóng, cứ gọi thế, sẽ hoạt động khi cây kim ở bất kì vị trí nào trên mặt số. Nhưng do cây kim giờ chỉ thẳng đứng lúc nửa đêm, ông ấy sẽ đảm bảo được ba nhân chứng ngồi ở ba vị trí khác nhau sẽ thấy ba thời điểm chênh lệch đáng kể trên chiếc đồng hồ. Và ông ấy có thể bẫy được họ ít nhất là hai câu hỏi trong bảng danh sách mười câu của mình. Nhưng coi đây! Câu hỏi là – hãy bình tĩnh – câu hỏi bây giờ là, lúc đó thật ra là mấy giờ?”
“A,” Bostwick nói.
“Kim giờ lúc đó chỉ thẳng đứng, đúng không?”
“Đúng vậy.” Thiếu tá Crow khẳng định.
“Điều đó có nghĩa là,” tiến sĩ cau mày nói, “nếu cây kim giờ nằm vị trí đúng số mười hai trên chiếc đồng hồ đó, có nghĩa là vị trí của kim phút có thể ở bất kì đâu từ năm phút trước nửa đêm đến năm phút sau nửa đêm. Suốt thời gian đó cây kim giờ có thể coi là có vị trí thẳng đứng, phụ thuộc vào kích cỡ và cơ chế của chiếc đồng hồ. Thời điểm trước nửa đêm không khiến chúng ta bận tâm. Thời điểm sau nửa đêm có khiến chúng ta quan tâm. Bởi vì điều đó nghĩa là…”
Thiếu tá Crow đút điếu thuốc vào trong túi áo mình.
“Điều đó có nghĩa là,” ông nói, “bằng chứng ngoại phạm của Joe Chesney đã bị xuyên thủng. Chứng cứ ngoại phạm của ông ta phụ thuộc vào việc rời nhà Emsworth ngay lúc nửa đêm, cùng thời điểm (chúng ta giả định) mà bác sĩ Nemo tiến vào phòng làm việc tại Bellegarde. Joe Chesney thực sự đã rời nhà Emsworth lúc nửa đêm. Nhưng bác sĩ Nemo không bước vào văn phòng và giết Chesney lúc nửa đêm. Không, thời điểm chính xác là quá nửa đêm. Có lẽ là mười hai giờ năm hay sáu phút. Joe Chesney có thể dễ dàng lái xe từ nhà của Emsworth đến Bellegarde trong ba phút. Điều đó rất dễ chứng minh. Ai đó kéo rèm lên đi. Tôi không có định kiến gì chống lại Joe Chesney, nhưng tôi đang có xu hướng nghĩ rằng ông ta chính là người mà chúng ta muốn.”
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh