Love is the only satisfactory answer to the problem of human existence.

Erich Fromm

 
 
 
 
 
Tác giả: Diêm Liên Khoa
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Vũ Công Hoan
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 36
Cập nhật: 2023-03-26 22:49:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
ỐI CŨ
Nhà văn tôi có lỗi với khu chín trăm mười chín.
Cuối cùng tôi đã dùng một trăm hai mươi lăm bông hoa nhỏ đổi lấy năm ngôi sao to. Tôi dời khỏi bờ sông Hoàng Hà, đi khỏi ao nước và mảnh đất chua phèn rộng không bờ bến của lối cũ Hoàng Hà. Tôi hoàn toàn tự do trở thành con người mới. Tôi sẽ về nhà sống cùng vợ con mãi mãi. Hai ngày trước khi chuẩn bị dời khỏi khu dục tân, tôi không nói không rằng, cứ im thin thít, phải đi chặt cây thì đi chặt, phải đi hút cát thì đi. Nhưng khi người khác đều bận túi bụi, tôi len lén về nhà lều sửa soạn hành lý và quần áo. Để người khác không phát hiện dấu tích tôi được tự do về nhà trước một bước, tôi quyết định để lại nhà ở toàn bộ chăn gối, hòm gỗ dưới gầm giường và bộ Tôn Trung Sơn dạ xám còn rung rúc treo trên cột lều. Tôi chỉ đem theo năm ngôi sao, xách cái túi vải, trong túi vải đựng màn thầu lấy danh nghĩa của Con Trời lĩnh thêm trong nhà ăn làm lương khô và một phần những ghi chép cùng nhật ký tôi viết hàng ngày khi cùng cải tạo với anh chị em phạm nhân ở bên sông Hoàng Hà mà tôi không muốn trao cho Con Trời. Về đến nhà nếu được cho phép, sẽ có ngày tôi bắt đầu viết một cuốn sách về cải tạo đổi mới. Đó là một quyển sách thực tế chân chính, chứ không phải là quyển “Tội nhân lục” cứ nửa tháng một lần giấu giấu giếm giếm nộp cho Con Trời. Tôi phải viết một quyển sách thật sự lương thiện chỉ để cho mình, chứ không viết cho Con Trời, cho nhà nước, cho dân tộc này và cho người đọc. Về quyển sách thật sự lương thiện ấy, có những khía cạnh trong khi rảnh việc tôi đã viết những lời nói và việc làm của các phạm nhân nộp cho Con Trời trong tập giấy nháp Con Trời phát cho tôi cất giấu trong gối. Tôi cần đem theo bản viết tay những khía cạnh của quyển sách thật và lương khô, còn các thứ khác đều để trong nhà lều hoàn hảo như ban đầu.
Tôi cần phải làm sao sau khi đi rồi vẫn như chưa đi. Ngoài Con Trời, để mọi người, kể cả giáo sư tôn giáo đều không ai biết sau khi hoa nhỏ của họ bị đốt cháy sạch, nhưng cuối cùng tôi đã đủ một trăm hai mươi lăm bông hoa nhỏ, cuối cùng tôi có thể đổi được năm ngôi sao to.
Lúc nửa đêm hôm qua Con Trời đã cho tôi năm ngôi sao to.
Tôi quyết định tối nay khi đêm khuya thanh vắng sẽ đi khỏi lò luyện bên sông Hoàng Hà, đi theo hướng lên thị trấn, lên huyện. Đêm nay đến phiên tôi canh lò số bốn, năm, sáu. Canh lò là thời cơ ra đi tốt nhất. Lúc chiều tôi đã len lén về lều trại mang những thứ cần đem đã chỉnh sẵn.Khi hoàng hôn buông xuống, tôi đến nhà ăn lấy mấy cái màn thầu hoa và hai cái bánh nướng mỡ chuyên nướng cho Con Trời. Ăn tối xong, khi ai nấy đều về nhà nghỉ, như mọi ngày tôi ngồi trong nhà một lúc, tán gẫu với người cùng nhà vài câu, hỏi hôm nay bạn này hút được bao nhiêu cát đen, hỏi bạn kia đi chặt cây có xa không, gặp được cây gỗ có tốt có cứng không? Tôi giả vờ trách:
- Mẹ kiếp, đêm nay lại đến lần mình coi lò, lại không được ngủ yên.
Tôi ra vẻ rất buồn, nhìn anh em cùng nhà nói mấy câu lấy lệ, gói túi xách vào áo bông, tôi cắp nách áo bông ra khỏi nhà, đi về hướng lò luyện.
Tết xuân y như chạy bộ đón thế giới. Nhưng anh em đồng phạm bên sông Hoàng Hà, vẫn đốt lò luyện thép, như không biết thời gian, không biết tết xuân sẽ đến. Xa xa, trên và dưới hạ lưu, các lò luyện gang thép của đơn vị khác vẫn bập bùng ánh lửa, phồn hoa như gấm, trải dài ven đê Hoàng Hà. Ánh sáng bừng chiếu lên bãi sông to rộng và mặt nước rút vào giữa lòng sông. Trong đêm tĩnh mênh mông hoang vắng, không có ánh trăng, nhưng sao trên đầu xanh xanh lấp lánh, chỗ thưa chỗ dầy rải khắp bầu trời hình chảo úp. Tiếng nước chảy mang theo giá lạnh và ẩm ướt, sau khi tràn qua đê, xả lên bãi như giọt mưa. Ở đây lâu, đã không ngửi thấy hơi chua mặn riêng biệt của đất bãi, chỉ có hơi thở của cát ẩm bị đào bới như liễu mới nẩy mầm đầu xuân tanh tanh ngây ngấy, cứ lẩn quẩn và lan tràn trên đất bãi Hoàng Hà.
Men theo đê lớn, tôi đi đến lò luyện số 4, 5, 6 của tổ thứ hai. Lò số 6 to nhất cao nhất đứng ở giữa một dãy lò như cái tháp. Tôi đi từ đê lớn xuống, giấu túi xách gói trong áo bông vào mấy hòn đá sau lò, mặc áo bông vào, đi đến mặt trước lò, Người giao ca cho tôi là kỹ sư thiết kế công trình kiến trúc nhà nước. Trước ngày giải phóng, nhà gác và cầu ông thiết kế đã từng đoạt giải của nước ngoài phương Tây. Người phương Tây trao giải cho ông, đương nhiên ông phải đi cải tạo. Nhà nước phương Tây ca ngợi ông, ông không là tội nhân của nhà nước thì là ai? Nhưng sau khi thành tội phạm, ông lại trở thành chuyên gia của thuật luyện gang cát đen. Thỏi thép thuần năm sao Con Trời mang lên tỉnh chính là ông chủ trì hướng dẫn luyện nên. Tôi đi đến trước mặt ông, nói nhàn nhạt như ngày thường:
- Ông về ngủ đi!
- Nửa đêm về tối đốt một ít gỗ du, cho lửa cháy mạnh.
Ông chỉ đống củi bên cạnh bảo tôi.
- Nửa đêm về sáng có thể đốt gỗ liễu, gỗ dương, gỗ ngô đồng cho lửa yếu hơn.
Ông còn bàn giao một số việc khác rồi đi về hướng nhà lều.
Lò luyện ở đây, ngoài mấy vị giáo sư canh lửa, không còn ai khác. Nhưng mấy vị canh lửa gọi tôi ra xa xa đánh bài. Tôi trả lời họ:
- Các ông cứ đánh đi, tôi đang có một lò nạp nhiều cát đen, phải luôn luôn đốt to lửa.
Họ liền đánh bài. Tôi ngồi một mình ở bên này. Tiếng lửa trong lò cháy lép bép, oà oà, lúc to lúc nhỏ, giống như người chạy bộ ở quảng trường, lúc nhanh lúc chậm tuỳ ý. Đây là mẻ gang đầu tiên sau khi Con Trời về nhóm lò luyện, cát đen chưa nạp cạnh lò như than cám chất ở cửa lò. Tôi lại cho củi gỗ du vào các lò số 4, 5, 6. Bởi lò số 6 cửa to, đốt nhiều củi. Sau khi cho đầy củi, lại còn bê những bó củi ở xa xa đến cạnh lò số 6, mùi thơm của gỗ chẻ, nồng như người ta đi vào buồng chứa dầu.Chất dầu nhỏ ra trên củi đốt, từng giọt từng giọt màu hồng rơi cạnh đường lửa, sau đó vì bị hơ nóng đã cháy lên thành tiếng xèo xèo, Mùi thơm của chất gỗ từ trong lửa ùa ra trong nháy mắt, khiến ta không nhịn nổi, liền hít mũi mấy cái, chỉ muốn nuốt mùi thơm vào bụng.
Tôi phải ra đi, lại hơi tiêng tiếc. Đốt xong củi, tôi lại lên đê lớn Hoàng Hà nhìn cảnh lò luyện và lửa cháy trong đêm. Nhìn hàng trăm hàng ngàn lò luyện thép trải dài theo đê như con rồng lửa ở thượng, hạ lưu sông Hoàng Hà cháy rừng rực. Đêm như ban ngày, sông Hoàng Hà từ phía tây ngoằn ngoèo đổ xuống, tất cả lò luyện đều như đèn lồng và mặc áo giáp vàng. Trong không khí có mùi cháy khét nồng nồng ươn ướt. Còn ba hôm nữa sẽ sang xuân. Nếu trưa mai tôi có thể đến thị trấn, sau đó đi bộ một ngày một đêm, sáng sớm hôm sau đến huyện lị đi chuyến xe đường dài thứ nhất, tối ba mươi tết, tôi đã có thể về đến nhà mình ở tỉnh thành. Đêm giao thừa tôi sẽ có thể cùng với vợ con thức đón năm mới. Đột nhiên về nhà, trông thấy tôi chắc chắn vợ sẽ sửng sốt ngạc nhiên kêu lên, con trai sẽ ngẩn người ra, sà vào ôm cổ bố như cháu trai cháu gái. Đầu tiên bọn họ sẽ đun cho tôi một nổi nước để tôi tắm, rồi tìm bộ quần áo tôi mặc trước kia cho tôi thay. Có lẽ ngay tức thì không tìm ra những quần áo cũ của tôi, mà lấy quần áo của con trai tôi cho tôi mặc. Con trai tôi nhất định cao thấp bằng tôi. Từ khi đến khu dục tân đến nay đã năm năm tôi không về nhà. Năm năm ấy con trai con gái tôi nhất định sẽ thay đổi khiến tôi không dám nhận ra. Đứng trên đê lớn, gió đêm như một túi nước lạnh hắt lên người tôi, nhưng trong cái lạnh ấy tôi như nóng bỏng cồn cào nhớ đến con trai con gái, tưởng tượng vợ mình sẽ như thế nào trong năm năm qua, thậm chí hoài nghi năm năm không thật sự động chạm đến vợ và đàn bà, liệu tôi có còn đủ dũng khí cởi hết quần áo nằm với vợ trên giường. Tôi muốn đứng ở chỗ cao nhất trên đê quay lưng với lò luyện, nhìn ra sông Hoàng Hà, cất giọng hát một bài, hoặc hét to mấy tiếng. Nhưng tôi lại biết, tại sao tôi đều không thể làm những việc dư thừa, việc tôi làm chỉ có thể là cứ coi như không có chuyện gì xảy ra, vẫn trông coi lò như trướcđây. Tôi cứ đứng mãi trên đê vui sướng như điên, lại tỏ ra không có chuyện gì, mới vén quần đái lên đê một bãi, rồi từ từ đi xuống đê lớn. Sau khi tôi quay về lò luyện, nhờ có ánh sao, tôi rà mò thấy cái túi xách của mình vẫn ở giữa các hòn đá, tôi khẽ huýt sáo đi đến trước lò. Lúc này có người xuất hiện giữa lò số bốn và lò số năm đang ngó ngó nghiêng nghiêng, như để tìm tôi. Trông thấy tôi người ấy sải lên mấy bước, nhưng đột nhiên đứng lại, nhìn trước ngó sau, khẽ nói một câu búa bổ.
- Anh có năm ngôi sao to thật à?
Giáo sư tôn gíao hỏi, giọng hình như hơi run, cấp thiết, khản đặc, như ông lấy tay móc từ cổ họng ra rất nhanh.
- Sao anh biết?
- Anh kệ tôi – Giáo sư tôn giáo nói một cách nôn nóng bức thiết - Có năm ngôi sao thật rồi, anh khẩn trương dời khỏi nơi này. Tôi sẽ trông coi lò ở đây. Đi muộn một bước tôi e anh sẽ không đi khỏi.
Nhờ ánh lửa cửa lò, tôi nhìn mặt giáo sư tôn giáo. Nét mặt ông ta có vẻ nôn nóng lo âu, giục tôi khi đi tay ôm chặt vạt áo bông.
- Sao thế?
- Có người biết anh có năm ngôi sao.
Lại ngẩn người, tôi quay về giữa đống đá sau lò, lấy túi xách nói hai tiếng “cám ơn” quay lưng chạy thật nhanh về phía đường cái. Giữa lúc ấy giáo sư tôn giáo lại vội vàng đuổi theo bảo.
- Anh đi theo đường mòn bãi trũng, tôi nghi ngờ đã có kẻ mai phục chờ anh trên đường cái.
Tôi lại gật đầu với ông ta, trẽ ngay sang phải, vừa đi vừa chạy nhảy vào bãi trũng đất chua mặn, rồi nhanh chóng mất hút trong đêm màu nhờ nhờ đen đen giống như đất chua mặn.
Tôi đi thoăn thoắt, dưới chân nổi gió, cái túi xách trong tay quăng đi quăng lại, cọ sát vào quần. Khi đi được hơn hai dặm, tôi quay lại nhìn về hướng lò luyện, cảm ơn giáo sư tôn giáo, như uống nhiều nước dồn lên cổ họng. Tôi hối hận chạy vội vội vàng vàng, không kịp bắt tay chào giáo sư tôn giáo, rất muốn quay lại xiết chặt tay ông, nói lời từ biệt tình sâu nghĩa nặng. Nhưng tôi biết đấy chỉ là suy nghĩ và nỗi nhớ. Tôi tuyệt nhiên không thể quay trở lại. Nhưng giữa lúc tôi nghĩ vậy, tôi đi đến một ngã ba đường mòn có một lối trẽ trái thông ra đường cái, còn một lối thông đến bãi chặt củi của đội chặt cây. Trong khi tôi do dự trẽ lối nào, thì bỗng dưng có hai ánh đèn pin dọi thẳng vào mặt tôi choí mắt. Tôi sững lại, trông thấy già nửa khuôn mặt bịt khăn, chỉ để lộ trán và bốn con mắt xô tới, tôi bị vây giữa bọn họ. Tôi dơ cánh tay che mắt, nghiêng người tránh ánh đèn. Khi tôi có thể nhận ra họ là ai, có một tên buột khỏi mồm hai tiếng “Nội gian”, sau đó không biết đứa nào đá mạnh vào khuỷu chân tôi một cái, tôi quỵ hai chân xuống đất. Tiếp theo, đứa thì đá lưng tôi, đứa thì đá mặt tôi, bẹo tai tôi. Một trận thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đấm đá tới tấp diễn ra trong im lặng. Có đứa lấy hai tay bịt mắt tôi, bắt đầu lật tìm trên người tôi, trong túi xách, khỏi cần tốn sức, bọn chúng đã lấy ví tiền của tôi ở túi áo trong. Rất nhanh chóng có tiếng nói:
- Tìm thấy rồi!
- Đốt béng đi - Một tiếng nữa.
Tôi nghe thấy tiếng quẹt diêm.Từ kẽ tay bịt mắt tôi, tôi nhìn thấy ánh sáng vàng trước mặt biến thành lửa. Bàn tay bịt mắt tôi buông ra, lại mấy cú chân đạp tay đấm, bắt tôi quỳ bên lửa, bốn tên bọn họ cùng đến trước mặt tôi lấy tập bản thảo trong túi xách của tôi đốt luôn. Từ trong ví tiền của tôi,lấy ra năm ngôi sao đỏ to bằng bàn tay cắt bằng giấy bóng gói trong tờ giấy nháp, ném từng cái vào lửa. Cuối cùng đốt xong, lại xé luôn toàn bộ bản nháp mấy chục trang vứt vào đống lửa. Tiếp theo một chàng trai rít từ kẽ răng ra hai tiếng “Nội gian”, bước đến cởi quần đái lên mặt tôi. Thấy anh ta đái như vậy, ba tên kia cũng xúm lại, cũng cởi quần nhờ ánh lửa đái lên đầu lên mặt tôi.
Nước giải của chúng cứ xoe xoé từ gáy tôi chảy vào cổ, vào lưng tôi như mưa, từ mặt men theo trán, đuôi mắt, cạnh mũi tràn lên hai môi, qua cằm tôi chảy lên ngực áo tôi. Đái xong lại có đứa nói một câu rõ to như đọc trên sân khấu:
- Nói cho mi biết, đây là phán xét của nhân dân đối với mi, chính là hậu quả của bọn mi làm nội gian!
Sau đó không biết đứa nào đứng đằng sau lấy dương vật của hắn gõ đầu tôi, vẩy những giọt nước tiểu cuối cùng trên dương vật hỏi tôi:
- Tội của mi có đáng thế không?
Tôi mở mắt vẫn nhắm nghiền, gật gật đầu.
- Nói đi! - Lại đá lên người tôi.
Tôi lại há mồm vẫn luôn ngậm:
- Tôi đáng lắm, đáng lắm!
- Coi như mi còn thông minh.
Chúng nhận xét tôi một câu cuối cùng như thế, khẽ cười, hắng một tiếng, kéo giải rút quần, bỏ tôi lại đi về phía có ánh lửa lò luyện bên sông Hoàng Hà. Tôi bắt đầu ngồi xổm trên đất cát, ngẩng lên nhìn sáng sao trong đêm tĩnh xa xăm, nhìn bóng bốn tên kia, tôi loáng thoáng đoán ra hai trong bốn tên của khu 919. Nhưng tôi không hề hận bọn chúng, chỉ nghi ngờ giáo sư tôn giáo canh lò cho mình xui tôi đi nhanh nhanh theo lối này thật hay giả. Chờ bốn tên kia đi xa, lửa cháy bên cạnh đang tàn, tôi nhặt ví tiền xem, thấy mười mấy đồng trong ví vẫn còn nguyên, nhặt cái túi xách rỗng không bên cạnh lên lau mặt, lau sạch cả nước trên cổ, lại ngửi thấy mùi nước tiểu vàng khai sực mũi, vứt túi xách lên đống lửa, nhìn túi xách cháy xong, tôi đứng lên, thử lưng, hai chân và cánh tay, ngoài xương chân phải hơi đau, tôi biết chân tay không bị bọn chúng gây tổn thương nặng, đánh vào chố hiểm chết người như tôi tưởng tượng.
Không còn năm ngôi sao đổi từ một trăm hai mươi lăm bông hoa hồng nhỏ, tôi đành phải quay về khu dục tân. Thẫn thờ một lát giữa đêm hoang dã, tôi thở dài thườn thượt, để chứng minh ý tứ thật giả của giáo sư tôn giáo, tôi đi về chỗ nhà lều một lát, lại đi từ nhà lều về hướng con đường cái thông ra thế giới bên ngoài. Khi sắp đến đường cái, tôi nhìn thấy một lối trẽ, bốn tên xúm lại đánh tôi đái lên tôi ở đường mòn, cũng từ trước mặt rẽ lối này.
- Công lớn đã làm nên!
Bọn chúng gọi đến chỗ rẽ trên đường cái.
- Cách mạng đã thắng lợi….
Sau tiếng nói, từ chỗ nào đó của đường cái lại nhanh chóng chui ra năm sáu tên, dưới ba ánh đèn pin dọi sáng, chúng vứt gậy và dây trong tay, quây tụ lại, vừa cười vừa nói, hỏi và đáp những câu hình như khen ai lo việc như thần tôi nghe lơ mơ không rõ, thế là chúng cùng nhau đi về hướng nhà lều bên sông Hoàng Hà.
Tôi không còn hoài nghi và oán trách giáo sư tôn giáo nữa. Đến một bãi đất trũng chua mặn, tôi ngồi xuống, nhìn bầu trời đêm, nghe tiếng bước chân trước mặt mỗi lúc một xa, nước giải ướt trên người bị lạnh như băng đóng trên da, lòng tôi trống trải ngẩn ngơ, như con chó cô đơn mất nhà bị đá, vứt giữa đồng hoang, dựa vào dốc đất cát chỗ trũng, tôi uể oải nằm xuống. Tôi nghĩ mình nên về bên ngọn lửa lò luyện, hơ khô quần áo bị đái ướt, rồi trở về nhà lều. Tôi muốn khóc một trận đau buồn và bất lực, cũng nghi ngờ mình chắc chắn chảy nước mắt. Sau khi đưa tay sờ đuôi mắt, thấy đuôi mắt hai bên ráo hoẳnh, ngay đến nước tiểu vừa chảy qua cũng khô sạch. Tôi thấy lạ quá, năm ngôi sao của mình đã bị đốt, người bị đánh nhừ tử, bốn tên phạm nhân trẻ cùng đái lên đầu lên mặt tôi, lại còn lấy dương vật đánh đầu tôi, vẩy những giọt nước đái còn sót lên tôi. Hai mắt tôi bị nước giải rửa thấu, ngay đến lưỡi tôi cũng liếm thấy mùi khai khai mằn mặn của nước giải. Nhưng tôi không hề buồn đau oán hận, trái lại cảm thấy toàn thân nhẹ nhõm không thể miêu tả nổi.
Lạ quá, tôi không biết cảm giác toàn thân nhẹ nhõm, tự tại từ đâu ra.
Tôi muốn để bọn họ trố mắt ra nhìn tôi đã tranh được năm ngôi sao to như thế nào, từ trong ánh mắt họ, tôi đã tự do về nhà một cách quang minh chính đại, đàng hoàng tử tế như thế nào.Buổi chiều hôm ấy, tôi bắt đầu dùng mấy lớp báo cũ gói bọc từng bông lúa mạch, để phòng lúc tôi đi khỏi đây bầy chim sẽ rừng bay đến ăn mạch của tôi. Khi báo cũ không đủ dùng, tôi đã lấy quần áo của mình và ga trải giường gói bọc, cho đến khi mười tám bông mạch đều bọc kín mít. Mỗi bông mạch sau khi bao gói đều như cánh tay bị thương băng bó giơ lên, tôi mới yên tâm đi khỏi đây về khu 919. Khi về tôi không quên rứt từ bông mạch hơn chục hạt to bằng hạt đậu hoà lan cầm trong tay, dự định đem đến cho Con Trời một bất ngờ và ngạc nhiên mừng quýnh, dự định để anh chị em phạm nhân đều nhìn thấy hạt mạch này, ngạc nhiên tới mức không nói nên lời, không thể không đi theo tôi từ khu 919 đến doi cát ngoài mười mấy dặm để xem mạch của tôi. Tất cả đều y hệt như tôi nghĩ. Tôi cầm một nắm hạt mạch mẩy như hạt lạc và hạt đậu hoà lan, sau khi ních một bữa no nê, mặt trời ngả về tây không lâu, tôi đã về đến khu doanh trại. Lúc đó mọi người đang ngủ trưa. Dọc đường tôi không gặp ai, chỉ thấy chim bay và cào cào châu chấu va vào người.Trên cánh đồng tiểu mạch đều vừa trổ đòng bởi vì tại lối cũ Hoàng Hà này ruộng trũng ngập nước, chí ít còn phải nửa tháng nữa cây mới chín tới, hạt mới khô. Trên cánh đồng rộng đâu đâu cũng bạt ngàn màu xanh và ẩm ướt, cỏ dại cũng cao ngập đùi gối.Gốc cây còn lại năm ngoái đã mọc nhánh mới, cao rậm như cây mạch. Khi bước vào sân khu, trong yên tĩnh, giáo sư tôn giáo từ nhà vệ sinh đi ra đang thắt daỉ rút quần. Trông thấy ông, tôi có ý đứng chờ ông đi đến. Khi ông đến gần, trông thấy tôi, ông lại đột nhiên dừng chân, nhìn mặt tôi ngạc nhiên đến nỗi nói một câu không sao hiểu nổi.
- Trời ơi, anh bị ốm hay sao, mặt xanh vàng không còn một hạt máu.
Tôi cười đáp lời ông.
- Tôi đã trồng được bông mạch to bằng bông thóc.
Ông vẫn nhìn tôi:
- Tay và cánh tay anh làm sao thế? Sao anh gầy yếu vàng vọt không ra dáng người thế này?
- Anh xem xem mạch tôi trồng – Tôi đi đến với ông, xoè tay ra trước mặt ông. nắm hạt mạch to bằng hạt đậu hoà lan và hạt lạc trong tay tôi bị ướt đẫm mồ hôi, Khi xoè tay ra, nhiều hạt mạch vẫn còn dính vào nhau. Ông nhìn hạt mạch trong tay tôi, tay thắt dây rút quần sững lại ở trước quần, mồm há ra định nói gì không nói ra được cứ nửa há như sợ hãi không ngậm lại được.
- Tôi phải về nhà - Tôi co tay lại – Tôi cần cầm năm ngôi sao to dán lên biển đàng hoàng giống như nhân viên thực nghiệm năm ngoài giơ biển năm ngôi sao ra về.
Vừa nói tôi vừa rời khỏi giáo sư tôn giáo đi vào trong nhà Con Trời. Tôi không gõ cửa, cứ mặc nhiên đẩy cửa đi vào. Con Trời đang ngủ trưa, chiếc quạt xương bồ từ trên giường rơi xuống đất, mồ hôi trên mặt và một bãi nước miếng chảy ra hòn đá gối đầu. Nghe tiếng động cửa, Con Trời bỗng ngồi vuột dậy. Không chờ Ngài tỉnh hẳn, tôi giơ nắm hạt mạch rõ to ra trước mặt con Trời, nói bô bô;
- Mạch của tôi đã chín, bông nào cũng to bằng bông thóc, bông ngô, Ngài hãy mau mau nhìn những hạt mạch này!
Con Trời dụi mắt, lấy đầu ngón tay vê hạt mạch trong tay tôi, luôn luôn ngẩng nhìn tôi, lại cúi xuống vê hạt mạch. Nét ngái ngủ vừa giờ trên mặt Ngài biến mất, phát ra thứ ánh sáng đơn thuần chất phác, quay sang đầu giường vơ quần áo mặc, muốn cùng tôi đi đến chỗ doi cát xem cây mạch, thu cắt những cây mạch có bông to hơn bông thóc và có bông to bằng bông ngô. Khi chúng tôi ra khỏi nhà, giống như tôi đoán trước, giáo sư tôn giáo đã gọi to mọi người trong nhà, còn có mấy người bị đánh thức như nữ nghệ sĩ, bác sĩ và vài chị em khác. Mười mấy người theo tôi và Con Trời men theo con đường mòn khi tôi đến đi về phía doi cát. Trong tay mỗi người đều nắm một hai hạt mạch màu đỏ nhạt bằng hạt đậu, thậm chí còn nhỉnh hơn hạt đậu, to bằng hạt lạc tôi đưa cho họ. Dọc đường vừa nói chuyện vừa rảo bước, khi mặt trời đằng tây sắp lặn đã đến thửa ruộng bậc thang bốn cấp tám mảnh của tôi.
Nhưng vừa đến ruộng, tôi bỗng sững lại, rồi lao xuống ruộng như một mũi tên.
Khi đi tôi đã lấy báo cũ và quần áo bao gói tử tế mười tám bông lúa mạch, bây giờ không còn nữa, tất cả đều bị người ta cắt cụt từ cổ bông, chỉ còn báo cũ và quần áo vứt bừa phứa ra ruộng, hoặc mắc lên giá đỡ cây mạch. Những cây mạch không còn bông trái, cây thì sau khi bị cắt bông, vẫn đứng trơ giữa ruộng như cây tiểu mạch cụt đầu, cây thì bị người ta dẫm xéo đứng nằm ngổn ngang như cây que chống làm giàn. Tôi cứ “a, a”chạy đến sờ cổ cây mạch bị xén cụt, nhìn thân từng cây mạch. Cuối cùng đã trông thấy một tờ giấy để lại ai đó treo trên giá cây mạch cao nhất ở mảnh thứ ba. Hai tay run rẩy, tôi cầm tờ giấy xem. Trên giấy viết dòng chữ:
- Xin lỗi, bông máu này năm nay sẽ hiến cấp trên, hiến lên Kinh Thành, sang năm nhân dân cả nước, sẽ phải lấy máu trồng tiểu mạch như luyện gang cát đen.
Không còn viết gì khác, nét chữ ngoáy như rồng bay phượng múa, viết trên một trang giấy trắng xé ra từ một quyển sổ tay, để người ta không nhận ra nét chữ ai viết. Tôi hết nhìn dòng chữ, lại nhìn những cây lúa mạch như cây sậy, cây tre cụt ngọn. Toàn thân tôi bủn rủn ngồi bệt ra đất, nhìn mặt Con Trời và đám người đi theo như mười mấy, hai mươi bức tranh khắc gỗ, hình hài quái gở đứng trong hoàng hôn. Buồn trời buồn đất, lần này tôi đã thật sự hu hu khóc rống lên.
Tứ Thư Tứ Thư - Diêm Liên Khoa Tứ Thư