Nguyên tác: More Than A Mistress
Số lần đọc/download: 1826 / 21
Cập nhật: 2018-05-19 20:08:22 +0700
Chương 14
C
ăn phòng giáp phòng khách được kê một chiếc đi văng, một tấm thảm nhung lông dày, số lượng gương treo quá nhiều, nhân lên hình ảnh phản chiếu ít nhất là mười lần, tùy thuộc chỗ họ đứng, ngồi, hay nằm. Bên cạnh đó còn có đệm cùng những đồ trang trí lặt vặt quen thuộc. Theo đánh giá của Jane thì nó được dùng làm chốn ẩn dật riêng của những nhân tình trước kia, những người thích ở một mình chứ không thích ai bầu bạn, hoặc làm phòng ngủ thứ hai. Cô nghiêng về vế sau hơn.
Đó là căn phòng cô đã bỏ qua trong lúc tân trang lại hai phòng chính. Nhưng giờ, đương lúc nhàn rỗi, cô nảy ý định biến nó thành lãnh địa của mình. Phòng khách màu oải hương hiện rất thanh nhã, nhưng nó không thuộc về cô. Những tấm gương và đi văng bị trục xuất - cô không quan tâm số phận của chúng ra sao. Cô cử ông Jacobs ra ngoài thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt là sắm một bàn viết có ngăn kéo cùng với ghế, giấy viết, bút và mực. Còn bà Jacobs thì đảm nhận việc mua vải lanh, khung thêu, các loại chỉ lụa màu cùng những đồ linh tinh đi kèm.
Cái hang, theo ý nghĩ của Jane về căn phòng, sẽ trở thành phòng viết và khâu may của riêng cô. Cô sẽ tha hồ thỏa mãn đam mê thêu thùa ở đó. Tối ngày giao kèo hoàn thành, cô ngồi khâu trong căn phòng nhỏ của mình, lửa kêu lách tách ấm cúng trong lò sưởi. Cô hình dung Jocelyn giờ này đang ở một bữa tiệc hoành tráng rồi sau đó sẽ đến một vũ hội đông đúc nhộn nhịp, và cố không cảm thấy ghen tị. Cô chưa từng có mùa ra mắt. Sau một năm để tang mẹ, cha cô quá ốm yếu nhưng vẫn hối thúc cô chấp nhận đề nghị được làmbảo trợ của phu nhân Webb, nhưng cô một mực muốnở lại chăm sóc ông. Sau đó ông qua đời và thêm một năm cô để tang cha. Rồi hoàn cảnh đưa đẩy cô phải chịu sự gi
ám hộ của Bá tước mới. Tối nay Jocelyn có khiêu vũ không? Cô tự hỏi. Anh có nhảy điệu van không?
Nhưng cô sẽ không để những ý nghĩ phiền muộn ấy tác động đến mình. Tim Jane chợt nảy lên khi nghe thấy tiếng gõ ngoài cửa có phái anh đả quay lại? Nhưng rồi cô thấy ông quản gia ló đâu vào, vẻ mặt đề phòng.
“Tôi xin lỗi, ma’am,” Jacobs nói, “nhưng người ta vừa đem đến hai thùng to. Cô định xử lý chúng ra sao?” “Thùng ư?” Jane nhướng mày và đặt đồ thêu sang một bên.
“Từ Công tước ạ,” ông quản gia giải thich. “Nặng đến không nhấc lên nổi." “Tôi không hề biết trước chuyện này.” Cô đứng lên. “Tốt hơn để tôi ra xem. Ông chắc là Công tước gửi đến chứ?”
“Ồ vâng, ma'am,” ông ta cam đoan. “Chính gia nhân của đức ngài đem đến và bảo rằng gửi cho cô.” Jane vô cùng tò mò, nhất là khi cô thấy hai cái thùng to đặt giữa sàn bếp.
“Mở chúng ra đi,” cô nói. Bà Jacobs liền đi lấy một con dao để chồng bà cắt những sợi dây chằng quanh hai cái thùng. Jane mở thùng ra, và toàn thể gia nhân - ông bà quản gia, chị bếp, cô hầu phòng, và một anh người hầu - đều cùng cô chồm tới ghé nhìn vào trong.
“Sách!” Giọng cô hầu nghe hết sức thất vọng. “Sách!” Bà Jacobs lộ vẻ ngạc nhiên. “Từ trước đến nay đức ngài có bao giờ cho mang sách đến đây đầu. Không biết sao bay giờ ngài ấy lại làm thế? Cô đọc sách à, ma'am?”
“Tất nhiên rồi,” ông Jacobs xẵng giọng. “Tôi hỏi bà còn lý do nào khác khiến cô ấy muốn có bàn viết và giấy mực hả?”> “Sách!” Jane thì thầm gần như tôn kính, hai tay áp lên ngực.
Căn cứ vào những tựa sách trên cùng cô nhận ra chúng đến từ thư viện của anh. Một quyển của Daniel Defoe, một quyển của Walter Scott, một quyển của Henry Relding, và một quyển của Alexander Pope hiện rõ trong tầm mắt trước khi cô chạm tay vào bất cứ quyển nào. “Em thấy quà kiểu này thật lạ,” cô hầu nói, “ma’am, có khi trong cái thùng kia có thử hay hơn đấy ạ.”
Jane đang cắn chặt môi trên. “Nó là món quà vô giá,” cô nói. “Ông Jacobs, hai cái thùng này có quá nặng để ông và Phillip khiêng vào phòng tôi không?” “Một mình tôi cũng khiêng được, thưa maam,” anh hầu trẻ sốt sắng nói. “Tôi mở nốt cái thùng kia nhé?”
“Không cần đâu,” Jane mỉm cười với anh ta. “Tôi sẽ tự mình làm, cảm ơn anh. Tôi muốn nhìn tất cả sổ sách cùng một lúc. Tôi muốn xem ngài ấy đã chọn những quyển gì cho tôi.” May sao trong phòng lại có sẵn một giá sách đang bày đầy những đồ trang trí khiếm nhã trước khi Jane dọn hết đi.
Cô quỳ bên hai cái thùng suốt hai tiếng đồng hồ, lấy ra từng quyển một, hân hoan xếp lên gía, cân nhắc xem nên đọc quyển nào trước. Thỉnh thoảng cô lại chớp chóp mắt và thậm chí lấy khăn tay chấm mắt khỉ nghĩ đến chuyện anh đã về nhà chiều nay và tự tay lựa tất cả những quyển sách này cho cô. Cô biết anh không sai ngài Quincy chọn hộ. Chúng là những quyển sách từng được cô nhắc đến với niềm yêu thích.
Nếu anh có gửi cho cô một món nữ trang đắt giá thì cô cũng không vui nhiều như thế này. Thậm chí anh chẳng tốn đồng nào cho món quà này. Nhưng những quyển sách của anh! Những quyển sách của chính anh, chứ không phải sách anh mua cho cô. Anh đã lấy chúng từ tủ sách của mình, và trong đó cũng có những quyển anh yêu thích. Một phần nỗi cô quạnh đã biến mất. Cùng với nỗi hoang mang suốt chiều nay trước việc anh bỏ đi quá đột ngột, không một lời tạm biệt. Hẳn là anh đã đi thẳng về nhà và ở lì trong thư viện. Chỉ vì cô.
Cđược để mình lún sâu hơn nữa vào chuyện tình cảm với anh, Jane cương quyết tự nhủ. Và cô không được - tuyệt đối không được - để cho mình yêu anh. Anh là người đàn ông đang chiều lòng cô nhân tình mới. Không gì hơn.
Nhưng cô vẫn hạnh phúc đọc sách đến tận nửa đêm. Sáng hôm sau Công tước Tresham cưỡi ngựa trong công viên Hyde Park vào cái giờ anh thường gặp gỡ bạn bè ở khu Rotten Row. Đêm qua mưa đã tạnh và giờ mặt trời đang rực rỡ chiếu xuống thảm cỏ làm những hạt nước ánh lên như kim cương. May cho mong muốn được khuây khỏa đầu óc, anh gặp ngài Conan Brougham và Tử tước Kimble gàn như ngay lập tức.
“Tresh,” Tử tước nói thay câu chào khi anh nhập bọn, “chúng tôi cứ nghĩ cậu sẽ đến White ăn tối?” “Tôi ăn tối ở nhà,” Jocelyn bảo anh ta. Và quả đúng thế. Anh không thể ăn tối cùng Jane với cảm xúc bị chà xát đến rỉ máu và không muốn cô biết được. Nhưng dù đã ăn mặc chỉnh tề để ra ngoài, anh lại không đi. Anh không rõ tại sao.
“Một mình ư?” Brougham hỏi. “Không có cả cô Ingleby thú vị ăn cùng?” “Cô ta chưa bao giờ ăn cùng tôi,” Jocelyn đáp. “Cô ta là người hầu, nếu cậu còn nhớ.”
“Cô ấy có thể làm gia nhân cho tôi bất cứ lúc nào cũng được,” Kimble nói vói tiếng thở dài rất kịch. “Và cậu cũng không đến chỗ phu nhân Hallidays,” Brougham nhận xét.
“Tôi ở nhà,” Jocelyn nói. Anh thấy hai ông bạn đưa mắt cho nhau trước khi phá lên cười sằng sặc.
“Chà, Tresham,” Brougham nói, “cô ấy là ai thế? Bọn tôi có biết không?” “Đàn ông không thể tuyên bố mình ở nhà một mình suốt buổi tối mà không bị ngừ vực sao?” Jocelyn giục ngựa chuyển sước kiệu nhỏ. Nhưng hai bạn anh cũng nhanh chóng điều chỉnh tốc độ ngựa của mình để đi song song hai bên Công tước.
“Nếu vì một cô nàng mà cậu ta không đến White ăn tối và chơi bài ở nhà phu nhân Hallidays, thì cô ta là người mới Cone ạ,” Kimbie nói. “Và tâm trạng xấu sáng nay là do ai đó bắt cậu ta thức cả đêm, Kimble ạ,” Brougham bình luận.
Bọn họ đàm thoại ngay trước mặt Jocelyn, cả bai đều cười toe toét, làm như không có anh ở đó. “Hai người cút xuống địa ngục cho rồi,” anh bảo họ.
Nhưng cả hai vui vẻ đón nhận lời đề nghị khắc nghiệt của anh. Anh nhẹ cả người khi thấy Angeline ở bên kia hàng rào cùng với phu nhân Stebbins, bạn thân của con bé. Hai người đang đi dạo buổi sáng theo hướng tiến về phía anh.
“Con người quá đáng này!” Angeline thốt lên ngay khi Jocelyn cưỡi ngựa đến gần. “Tại sao anh luôn ra ngoài vào những lúc em đến chơi hả, Tresham? Chiều qua em quyết định đến Dudley House khi Heyward cho em hay anh đã rời câu lạc bộ White trước bữa trưa. Em đã chắc mẩm là anh sẽ về nhà.” Jocelyn mân mê sợi dây đeo của chiếc kính một mắt. “Thế à?” anh hỏi. “Vậy thì cho em biết em đã nhầm cũng bằng thừa. Anh có thể hỏi vì cớ gì anh lại nhận được sự thương mến của em gái mình không? Chào buổi sáng, phu nhân Stebbins.” Anh chạm roi ngựa vào vành mũ và nghiêng đầu thi lễ.
“Mọi người đang xôn xao bàn tán,” Angeline nói trong lúc bạn cô nhún gối chào Công tước. “Em nghe được ba lần cả thảy trong hai ngày vừa rồi, chưa kể anh Ferdie cũng nhắc đến khi em gặp anh ấy hôm qua, nên em dám chắc anh cũng nghe chuyện đó rồi. Nhưng em phải có được lời cam đoan của anh rằng anh sẽ không làm chuyện gì ngốc nghếch, Tresham, bằng không những dây thần kinh của em đến nổ tung mất. Và em phải có được lời hứa của anh rằng anh sẽ bảo vệ danh dự gia đình bằng bất cứ giá nào.” “Anh tin là,” Jocelyn nói, “sớm muộn gì em cũng khai sáng cho anh chủ đề của cuộc đàm thoại thú vị này. Angeline. Anh mạo muội đoán trước rằng con Cavalier vẫn phá?”
“Có tin đồn rằng,” cô giải thích, nh em nhà Forbes đã rời thành phố vì sợ anh trả đũa chuyện bọn họ mưu hại anh Perdie.” “Cũng có thể,” anh nhận xét. “Ba tên đó cũng có tý khôn ngoan đấy, nếu đó đúng là lý do chúng biến mất.”
“Nhưng bây giờ,” cô nói, “chuyện đó được khẳng định chắc chắn – đúng không, Maria?” Cô quay sang phu nhân Stebbins để xác nhận. “Ông Hammond đã đề cấp đến nó ở nhà bà Bury-Haugh hai ngày trước, và ai nấy đều biết ông ấy là em con chú con bác với bà Wesley Foerbos. Nên hẳn nó là sự thật.” “Hiển nhiên là thế,” Jocelyn dửng dưng đồng ý, dùn chiếc kính một mắt liếc qua những người đi dạo phía bên kia hàng rào và những ai cưỡi ngựa bên này.
“Bọn chúng không hài lòng,” Angeline tuyên bố. “Anh tưởng tượng được bọn chúng cay cú đến thế nào không, Tresham.? Khi mà Ferdie không bị giết? Bọn chúng không hài lòng vì anh đã đổi cỗ xe và không hề hấn gì ngoài đôi găn tay da bị hỏng. Bọn chúng vẫn thề phải trả thù anh. Trong khi ai nấy điều biết giờ anh mới là người chịu uất ức. Chúng đi tìm tiếp viện và sẽ quay lại bất cứ lúc nào.” Jocelyn quay người một cách kiểu cách nhìn bãi cỏ trải dài sau lưng. “Chưa hẳn đâu, Angeline. Quân tiếp viện mà em vừa nhắc lẽ nào là mục sư Josiash Forbes và đại úy Samuel forbes?”
“Sẽ là năm chọi một,” cô đột ngột khẳn định. “Hoặc năm chọi hai nếu tính luôn cả Ferdie khi anh ấy một mực đòi tham gia. Là năm chọi ba nếu Heyward không khăng khăng với cung cách đáng ghét rằng anh ấy sẽ không dính vào mấy trò trẻ ranh dại dột. Em sẽ dỗ ngọt để lấy khấu súng của anh ấy và lại bắt đầu luyện tập tài thiện xạ của mình. Rốt cuộc em cũng là một người họ Dudley mà.” “Em bỏ ngay ý định đó đi,” Jocelyn kiên quyết. “Không ai biết phe nào gặp nguy hiếm hơn nếu em định chứng tỏ hiện giờ em vẫn còn bắn giỏi như thời con gái.” Anh lại giương chiếc kính lên và nhìn em gái từ đầu đến chân. “Cái mũ bonnet em đang đội thật tao nhã một cách đáng ngạc nhiên. Nhưng những đóa anh túc đỏ là một kết hợp thảm hại với chiếc váy đi dạo màu hồng của em.”
“Bọn em vừa gặp ngài Pym mười phút trước,” cô hất đầu nói, “và cái kẻ ngu xuẩn ấy nhận xét rằng nom em như một bãi cỏ đặc biệt ngon lành mà gã chỉ ao ước được đi dạo một mình trên đó. Đúng không, Maria?” “Vậy sao?” thái độ của Jocelyn lập tức trở nên lãnh đạm. “Anh tin là, Angeline, em đã nhắc cho ngài Pym nhớ rằng em là em gái Công tước Tresham rồi chứ?”
“Em đã thở dài rồi cười vào mặt gã,” cô nói. “Đó là lời tán tỉnh vô hại, Tresham. Anh nghĩ em sẽ để cho mọi gã đàn ông buông lời sàm sỡ với mình sao? Em sẽ về kể cho Heyward và anh ấy sẽ liếc lên trần nhà rồi bảo em rằng...ờ ” Cô đỏ mặt và lại cười. Rồi cô gật đầu với Kimblevà Brougham, khoác tay Maria Stebbins, và tiếp tục cuộc đi dạo của mình. “London cần vài vụ tai tiếng mới” Jocelyn nhận xét khi anh thúc ngựa đi tiếp với hai ông bạn. “Xem ra dạo này không ai có chuyện gì khác để bàn tán ngoài mấy tên vô lại hèn nhát có họ hàng với phu nhân Oliver.”
“Chắc chắn bọn chúng đang run như cầy sấy,” Tử tước Kimble nói, “vì Joseph Forbes đã quá hấp tấp khi nhận trách nhiệm về hai lòng bàn tay sây sát của cậu. Nhưng có lẽ chúng cũng đang ngấm ngầm giở thêm nhiều trò nữa - tất nhiên không có gì trực diện bằng lời thách đấu.” “Có thể chúng không còn lựa chọn - ngoài mất mặt và chút danh dự cuối cùng sót lại,” Jocelyn nói. “Nhưng nói chuyện đó đủ rồi. Tôi đã ngán đến tận cổ. Chúng ta hãy tận hưởng không khí trong lành và mặt trời buổi sáng đi.”
“Để thanh tĩnh đầu óc?” Brougham hỏi. “Cậu có chú ý không, Kimble, theo lời phu nhân Heyward thì chiều quaTresham không ở nhà? Cậu ta có ở chỗ cậu không?" “Không có, Cone ạ,” Tử tước đáp, hết sức nghiêm trang. “Hay là cậu ta đi với cậu?”
“Tôi không hề gặp cậu ta từ sáng hôm qua đến giờ Brougham nói. “Cô nàng ấy hẳn phải rất mới và rất ham vui.” “Quỷ thần ơi!” Kimbie đột ngột gò cương và ngửa đầu ra sau khoái trá cười ngặt nghẽo đến mức suýt ngã khỏi yên và phải vận hết tài nghệ mới lại kiểm soát được con ngựa của mình. “Ngay dưới mũi chúng ta Cone,” anh nói ngay khi trấn tĩnh. “Ý tôi là đáp án ấy”
Ngựa của Conan Brougham và Joeetyn đang bồn chồn dậm vó cách đó một quãng ngắn. “Chính là cô Ingleby quyến rũ!” tuyên bố. “Cậu quả là đồ láu cá, Tresh. Cậu đã nói dối. Cậu đã giấu cô ấy đi cho riêng mình. Và chính cô ấy đã khiến cậu bỏ rơi bạn bè, bỏ rơi bổn phận và giường của cậu - giường ở nhà cậu ấy - gần như cả ngày và hết đêm qua. Hẳn là cô ấy đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của mình.”
“Chẳng phải nó đã diễn ra ngay trước mắt chúng ta sao?” Brougham tán thành với nụ cưòi toe toét. “Cậu thực sự đã khiêu vũ - điệu van - với cô ấy, Tresham. Và không thể rời mắt khỏi cô ấy. Nhưng sao phải giữ bí mật ghê thế, bạn già?” “Tôi nghĩ,” Kimbie buông tiếng thở dài ảo não, “mình đến phải để tang mất. Tôi đã cân nhắc ý định thuê một thám tử Bow Street để tìm cô ấy.”
“Hai người các cậu,” Jocelyn nói vói vẻ ngạo mạn thường thấy, “có thể cút xuống địa ngục cùng với lời chúc phúc của tôi rồi đấy. Giờ thì xin phép hai người, bửa sáng đang chờ tôi ở Dudley House.” Ban đầu là sự im lặng rồi đến tiếng cười của họ đuổi theo khi anh thong thả thúc ngựa đi về nhà.
Không phải như thế, anh bảo thủ. Không phải như thế. Nhưng nếu không phải như thế - một người đàn ông vừa có nhân tình mới tận hưởng cơ thế phụ nữ mới lạ để tìm lạc thú - thì là gì?
Anh không thích ý nghĩ ngay cả những người bạn thân cũng cười cợt Jane. Hẳn là cô nghe được anh đang tới. Một lần nữa cô đã đứng sẵn ở ngưỡng cửa phòng khách, trong chiếc váy màu vàng hoa anh thảo - một chiếc váy mới khác theo lối cổ điển giản dị. Hình như cô có gu ăn mặc hoàn hảo, một khi cô buộc phải thoát khỏi chiếc váy xám rẻ tiền kỳ quái.
Anh đưa mũ và găng tay cho quản gia rồi tiến lại gần cô. Cô mỉm cười với anh, nụ cười ấm áp đến choáng ngợp và đưa cả hai tay ra, khiến anh đứng sửng lại. Anh vốn đang cáu tiết với toàn thế giới, kể cả cô và bực bội với chính mình vì chiều nay không thể đến với cô lần nữa. “Cảm ơn ngài,” cô nói, và siết chặt hai tay anh khi anh đưa tay cho cô. “Em biết cảm ơn ngài thế nào cho đủ đây?”>
“Vì những quyến sách à?” Anh cau mày. Anh đã quên khuấy chuyện những quyển sách. Hôm nay anh đã định đưa cô lên giường luôn, nhanh chóng thỏa mãn ham muốn rồi rời đi để tiếp tục lịch trình còn lại trong ngày, không bị luẩn quẩn với những ý nghĩ về cô. Anh đã định để cho mối quan hệ này đi đúng hướng của nó. Cũng lúc đó anh lại khó chịu với những nhận xét thô tục của Kimble hay Brougham mà chắc chắn anh tối nay sẽ phải nghe, và tự biết rõ rằng phần nào chúng đúng. “Chuyện nhỏ,” Jocelyn nói cụt lủn. Anh gỡ tay ra và ra hiệu cho cô đi trước anh vào phòng khách.
“Có lẽ là đối vói ngài thôi,” cô nói. “Nhưng đối với em, nó rất quan trọng. Ngài không biết em muốn đọc sách đến thế nào từ khi đến đây đâu.” “Vậy thì thế quỷ nào,” anh cau có hỏi, đóng cửa lại và nhìn quanh phòng, “em không để ta đưa em đến thư viện?”
Và vì lý do quái nào mà cô sợ bị trông thấy đến thế? Những nhân tình của anh luôn hạnh phúc nhất khi được anh hộ tống đi đến những chốn công khai. Có thể cô là con gái một mục sư đáng nguyền rủa nào đó. Nhưng anh thà chết đi hai lần trước khi bắt đầu cảm thấy tội lỗi vì đã cướp đi sự trong trắng của cô.
Tất nhiên cô sẽ không trả lời câu hỏi của anh. Cô lại nghiêng đầu mỉm cười. “Chiều nay tâm trạng ngài không vui,” cô nhận xét. “Nhưng em không sợ đâu. Ngài có muốn kể chuyện gì đã xảy ra không?”
Anh suýt phì cười. “Anh em nhà Forbes đã chạy khỏi thành phố để tìm quân tiếp viện. Bọn chúng sợ ba chọi một với ta không đủ. Chúng định tăng thêm lực lượng thành năm chọi một. Rồi chúng sẽ biết rằng chênh lệch như thế vẫn đúng với sở thích của ta. Ta thích giải quyết lũ hèn nhát ỷ đông hiếp yếu.”
Cô thở dài. “Đàn ông và tính kiêu hãnh của họ. Em cho rằng đến tám mươi tuổi ngài sẽ vẫn hung hăng, nếu ngài sống lâu tới chừng ấy. Ngài ngồi xuống chứ? Để em gọi trà? Hay ngài muốn đi thẳng lên lầu?” Đột nhiêncách kỳ lạ và đáng lo, anh không muốn cô nữa. Không phải trên giường. Không phải bây giờ. Chỉ là hình như nó quá - quả gì nhỉ? Nhớp nhúa sao? Suýt nữa anh lại phì cười.
“Những quyển sách đâu rồi?” anh hỏi. “Trong phòng ngủ? Hay trên gác mái?” “Trong phòng bên cạnh. Em đã chuyển nó thành phòng riêng khi nào ngài không ở đây. Em nghĩ nó như hang ổ của mình.”
Anh ghét phòng khách. Dù rằng hiện giờ nó đã trang nhã và lịch sự, nó vẫn nhắc nhở anh đó là phòng chờ, một không gian vô cảm mà ở đó phải tuân thủ phép lịch sự trước khi đến nơi không thể tránh khỏi là phòng ngủ. Và không có dấu tích nào ở đây cho thấy nó là phòng khách của Jane. “Đưa ta qua đó,” anh yêu cầu.
Anh có thể đoán được Jane sẽ không đơn giản quay người và ngoan ngoãn dẫn đường. “Nó là phòng của em,” cô nói. “Đây là nơi em tiếp đón ngài - và có lẽ thỉnh thoảng trong phòng ăn nữa. Phòng ngủ là nơi em chấp nhận để ngài thực hiện các quyền lợi theo hợp đồng. Phần còn lại trong ngôi nhà em xem như khu vực riêng của mình.”
Jocelyn mím môi, không biết nên quát cô để được khoan khoái thấy cô nhảy dựng lên hốt hoảng hay nên ngửa đầu ra sau mà cười to. Các quyền theo hợp đồng, quỷ tha ma bắt!
“Cô Ingleby!” Anh nghiêng mình một cách lịch thiệp nhất. “Mong cô vui lòng chấp thuận cho tôi xem hang ổ của cô!” Cô cắn vào môi dưới, do dự, và rồi cúi đầu.
“Thôi được,” cô nói, rồi xoay người rời khỏi phòng. Đúng là căn phòng của Jane. Anh cảm thấy điều đó ngay khi bước qua ngưỡng cửa. Cảm giác như lần đầu tiên anh bước vào thế giới của cô. Một thế giới vừa thanh lịch và quý phái, lại vừa bình dị và ấm cúng.
Thảm trải sàn cùng những bức rèm màu nâu vàng luôn làm cho căn phòng trông ảm đạm, và mọi nỗ lực người tiền nhiệm nhằm làm nó sáng sủa hơn bằng những tấm đệm và khăn choàng cùng đồ trang trí sặc sỡ chỉ càng làm nổi bật sự u ám của nó. Những tấm gương, đo Effie thêm vào, chỉ nhân thêm sự u ám ấy. Anh đã có thói quen không bao giờ- đặt chân vào đây. Hiện giờ những màu nâu vàng, mà Jane không hề cấ gắng che giấu, khiến căn phòng mang vẻ êm đềm. Cái đi văng đã biến mất. Cũng như tất cả những tấm gương, anh không lấy làm ngạc nhiên. Vài chiếc ghế duyên dáng đã được đặt thêm cạnh đó là một bàn viết và ghế đồng bộ. Những tờ giấy hãy còn nằm rải rác chứng tỏ cái bàn không chỉ nhằm mục đích làm cảnh. Giá sách được xếp kín những quyển sách của anh, nhưng có một quyến để mở nằm trên chiếc bàn nhỏ bên chiếc ghế kê gần lò sưởi. Trước mặt chiếc ghế phía bên kia lò sưởi là một khung thêu đã căng sẵn một mảnh vải lanh. Gần đó là những cuộn chỉ lụa với kéo và kim.
“Ta ngồi được chứ?” anh hỏi. Cô chỉ vào chiếc ghế cạnh quyển sách.
“Nếu ngài muốn, ngài có thể trừ tiền chiếc bàn và ghế vào lương của em vì chúng được sắm cho riêng em sử dụng.” “Hình như ta nhớ là ta đã cho em toàn quyền sửa sang ngôi nhà, Jane. Ngừng những lời lố bịch áy lại và ngồi xuống. Ta là một quý ông đến tận chân tóc, em thấy đấy, nên ta không thể ngồi xuống trước em.”
Anh thấy cô có vẻ không thoải mái. Cô ngồi ghé xuống mép một chiếc ghế cách đó khá xa. “Jane,” anh sốt ruột, “ngồi ở chỗ cái khung thêu ấy. Cho ta được thấy em làm việc. Đấy là một kỹ năng nữa em học được ở trại mồ côi hả?”
"Vâng,” cô đáp, chuyển chỗ ngồi và cầm kim thêu lên. Anh im lặng quan sát cô trong một lúc. Cô là bức tranh của vẻ đẹp và sự duyên dáng. Một quý cô dòng dõi bẩm sinh. Rơi vào cảnh ngộ éo le - buộc phải lên London tìm việc làm, buộc phải làm thợ phụ trong một hiệu trang phục phụ nữ, buộc phải trở thành y tá của anh, buộc phải trở thành một cô nhân tình. Không, chuyện đó thì không bắt buộc. Anh sẽ không vơ lấy cái tội đó vào mình. Anh đã cho cô một cơ hội hấp dẫn. Raymore thế cũng sẽ biến cô thành một ngôi sao.
“Đây luôn là hình dung của ta về cảnh gia đình hạnh phúc,” hồi lâu sau anh cất tiếng, ngạc nhiên với chính mình trước câu nói đó, nó được thốt ra không hề suy nghĩ. Cô ngẩng phắt lên khỏi công việc đang làm.
“Người phụ nữ ngồi khâu bên lò sưởi. Người đàn ông ngồi phía đối điện. Bầu không khí bình an, êm đềm bao quanh họ và thế giới đối với họ tươi đẹp vô cùng.” Cô lại cúi đầu xuống tiếp tục thêu. “Đó là hình ảnh ngài chưa bao giờ thấy trong ngôi nhà thời thơ ấu của ngài phải không?”
Anh cười khan. “Ta dám chắc mẹ ta không biết xâu kim nữa kìa. Và cũng chưa ai từng bảo bà hay cha ta rằng thỉnh thoảng hãy ngồi bên lò sưởi cùng gia đình mình.” Cũng chưa có ai từng bảo anh những điều đó. Vậy thì ý tưởng ấy từ đâu ra?
Anh đột ngột đứng dậy và bước tới giá sách. “Em đã đọc Mansfield Park chưa?” anh hỏi cô sau khoảng một hai phút.
“Chưa.” Cô lại ngẩng lên. “Nhưng em đã đọc Lý trí và tình cảm[1] của tác giả đó và rất thích.” [1] Mansfield Park và Lý trí và tình cảm là hai tác phẩm của nữ nhà văn Anh Jane Austen.
Anh rút quyển sách khỏi giá và quay lại ghế ngồi. “Ta sẽ đọc cho em nghe trong lúc em thêu thùa.”
Anh chắng nhớ nổi mình đã bao giờ đọc to thành tiếng, trừ những bài học ngày còn bé. Anh cũng chẳng nhớ mình đã bao giờ được đọc cho nghe đến khi Jane làm thế lúc anh bị thương. Anh bất ngờ nhận ra việc đó thật dễ chịu dù chẳng bao giờ anh lắng nghe chăm chú. Anh giở quyển sách ra và bắt đầu đọc. “Khoảng ba mươi năm trước, tiểu thư Maria Ward, ở Huntingdon, với hồi môn vẻn vẹn bảy nghìn bảngả gặp may khi được ngài Thomas Bertram, ở Mansfield Park, đem lòng yêu mến..."
Anh đọc hai chương rồi dừng lại và hạ quyển sách xuống. Sau đó họ ngồi trong im lặng một lúc lâu. Sự im lặng ấy dường như hết sức dễ chịu đối với anh. Anh nhận ra mình đã ngã người ra ghế, và có thể ngủ một giấc trong sự thư thái tuyệt vời ấy. Anh cảm thấy... Anh cảm thấy gì nhỉ? Hài lòng? Hạnh phúc? Hạnh phúc là thứ anh có rất ít hoặc không quen và không trông đợi. Anh cảm thấy tách biệt khỏi thế giới. Tách biệt khỏi con người thường ngày của mình. Với Jane. Chắc chắn cô cũng tách biệt khỏi thế giới và bản tính thường ngày, dù chúng là gì. Chuyện này có thể kéo dài mãi mãi không? Anh tự hỏi. Không biết đến bao giờ? Có thể mãi mãi không?
Hoặc ít nhất nó có thể là nơi ẩn náu thi thoảng được không, căn phòng mang đậm cá tính Jane này, nơi anh cảm thấy thoải mái, yên bình, hài lòng - tất cả những thứ trái ngược với lối sống thường ngày của anh? Mình nên chấm dứt những ảo tưởng ngu ngốc, không thực và mơ hồ này ngay, không chần chừ thêm nữa, anh nghĩ. Anh nên rời đi - hoặc đưa cô vào giường.
“Em đang thêu gì vậy?” Thay vào đó anh hỏi. Jane mỉm cười mà không ngẩng lên. “Một chiếc khăn trải bàn,” cô đáp. “Cho chiếc bàn trong phòng ăn. Em phải tìm thứ gì đó để làm. Lúc nào em cũng mê thêu thùa.”
Anh ngắm cô thêm một lúc nữa dưới hàng mi biếng nhác. Khung thêu đặt nghiêng tầm mắt nên anh không thấy được mẫu thêu. Nhưng những sợi chỉ lụa có sắc của mùa thu, tất cả được kết hợp một cách tinh tế. “Em có phiền không,” anh hỏi, “nếu ta đến ngó thử?”
“Không hề.” Cô có vẻ ngạc nhiên. “Nhưng ngài đâu có nghĩa vụ phải tỏ ra lịch sự. Ngài không cần tỏ ra hứng thú với việc thêu thùa.” Jocelyn không buồn trả lời. Anh nhấc mình khỏi chiếc ghế sâu lòng thoải mái, đặt quyển sách đã gấp lại lên quyển sách để mở của cô.
Cô đang thêu cảnh cánh rừng mùa thu chéo một góc vải. Em lấy mẫu thêu ấy từ đâu vậy?” anh hỏi cô. Anh muốn nhìn thấy cả bức tranh.
“Từ trong đầu em,” cô bảo anh. “À.” Anh đã hiểu vì sao nó là say mê đối với cô, không chỉ bởi cô sử dụng thành thạo kim thêu. “Với em đó là nghệ thuật, Jane. Em có con mắt tinh tường với màu sắc và bố cục.”
“Lạ một điều, em chưa bao giờ thể hiện được những hình ảnh trong đầu ra giấy. Nhưng qua mũi kim và mặt vải thì lại dễ dàng hơn.” “Ta không giỏi vẽ tranh phong cảnh. Ta luôn cảm thấy mình không nắm bắt được hết thiên nhiên. Những chân dung lại là chuyện khác. Có rất nhiều cuộc đời và tính cách để ta nắm lấy.”
Anh suýt cắn vào lưỡi mình ngay khi những từ ấy buột ra. Anh đứng thẳng lên, có phần ngượng nghịu. “Ngài vẽ tranh chân dung ư?” Cô ngước nhìn anh mắt long lanh thích thú. “Em vẫn cho đấy là thể loại khổ nhất.”
“Ta vẽ chơi thôi,” anh nói cứng nhắc, thả bước tới cửa sổ và nhìn ra khu vườn nhỏ, nom nó được chăm sóc rất tốt. Phải chăng những bông hồng vẫn luôn ở đó? “Từ lâu lắm rồi.” “Em đoán rằngcô lặng lẽ nói, “nó không phải việc dành cho đàn ông.”
Lời lẽ của cha anh còn thô bạo hơn nhiều. “Ta muốn được vẽ em,” anh nghe thấy mình đang nói. “Có rất nhiều nét trên gương mặt em ngoài vẻ đẹp tính tế. Đó sẽ là một thử thách.”
Sau lưng anh là sự câm lặng. “Trên lầu chúng ta thỏa mãn dục vọng của nhau, còn ở đây ta có thể tha hồ theo đuổi những sở thích khác, nếu em muốn. Cách xa những con mắt tọc mạch và miệng lưỡi nhạo báng của thế gian. Chẳng phải đó là điều em đã tạo ra trong căn phòng này sao? Một chốn riêng tư, như em gọi, một thiên đường, nơi em có thể là chính mình, nơi mọi khía cạnh khác trong cuộc sống của em, bao gồm cả việc làm tình nhân của ta, có thể đặt qua một bên và em có thể là - chỉ là Jane thôi.”
Jocelyn quay đầu lại. nhìn anh chăm chăm, chiếc kim dừng lưng chừng trên khung thêu. “Vâng,” cô đáp.
“Nhưng chắc em không muốn chia sẻ căn phòng với một người như ta.” Anh mỉm cười rầu rĩ với cô. “Ta sẽ không cố chấp đâu. Sau này em cứ tiếp ta trong phòng khách mỗi khi chúng ta không ở phòng ngủ.” “Không.” Vài giây trôi qua cô mới nói thêm. “Không, em không còn nghĩ căn phòng này là của em nửa, mà là của chúng ta. Nơi không có bóng dáng của bản hợp đông và địa vị. Nơi ngài có thế vẽ và đọc sách, em có thể thêu thùa và viết lách, một nơi mà người phụ nữ ngồi bên này lò sưởi và người đàn ông ngồi phía bên kia. Một chốn tĩnh lặng và thanh bình, nơi ta thấy cuộc đời tươi đẹp vô cùng. Ngài cứ tự nhiên coi đây như nhà mình mỗi khi ngài muốn, Jocelyn.”
Anh nhìn cô chằm chằm qua vai trong một lúc lâu mà không nói năng gì. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế? Chỉ có một lý do, chính ham muốn đã đưa anh đến ngôi nhà này. Anh không muốn bất cứ lý do nào khác. Anh sẽ đâm ra dựa dẫm vào nó - vào cô. Thế nhưng tim anh vẫn nhói lên và khắc khoải hy vọng. Hy vọng điều gì?
“Ngài dùng trà không?” Cô cầm kim vào mặt vài lanh và đứng dậy. “Để em rung chuông gọi?” “Được.” Anh chắp hai tay sau lưng. “Cảm phiền em.”
Anh nhìn theo cô. “Trong này còn nhiều chỗ trống. Ta sẽ cho mang một chiếc dương cầm đến đây, được không?” Anh khó mà tin được mình đang xin phép.
“Tất nhiên là được.” Cô nghiêm trang nhìn anh. “Nó là phòng của chúng ta, Jocelyn. Của ngài cũng như của em.” Trong một thoáng anh ngỡ rằng niềm vui sướng vừa ập đến nhận chìm mình. Nhưng anh sớm nhận ra có một cảm xúc xa lạ không kém.
Sự hoảng hốt..