Số lần đọc/download: 2944 / 157
Cập nhật: 2017-08-27 07:34:52 +0700
Chương 10
C
húng tôi sững lại kinh hoàng trên các bậc thềm Nhà thờ Lớn, từ nơi này, có vẻ như cả thành phố đã bắt lửa. Bầu trời là một vầng lửa màu da cam đủ sáng để có thể đọc sách. Quảng trường nơi chúng tôi đã săn đuổi lũ bồ câu biến thành một cái hố sâu bốc khói nghi ngút khoét sâu xuống mặt đá lát. Những tiếng còi ầm ĩ vang lên như một giọng ca nữ cao, làm đối trọng với tông trầm của những quả bom liên tục nổ, âm vực của chúng giống tiếng người một cách quái gở, nghe như thể tất cả các linh hồn tại London đã leo lên nóc nhà của họ cùng gào thét lên nỗi tuyệt vọng chung. Rồi nỗi kinh hoàng nhường chỗ cho sợ hãi và sự khẩn cấp của việc bảo tồn sinh mạng, và chúng tôi vội vã chạy từ các bậc cấp ngổn ngang mảnh đổ vỡ xuống phố - băng qua quảng trường bị phá hủy, vòng qua một chiếc xe buýt hai tầng trông như thể đã bị bóp nát trong nắm tay một người khổng lồ giận dữ - chạy đến đâu tôi không biết, cũng chẳng quan tâm, miễn là xa khỏi cái Cảm Giác đang dần trở nên mạnh hơn, kinh khủng hơn trong tôi sau mỗi khoảnh khắc trôi qua.
Tôi ngoái lại nhìn cô gái có khả năng điều khiển bằng ý nghĩ, lúc ấy đang cầm tay hai anh em mù lôi đi trong khi hai cậu bé vẫn tiếp tục tặc lưỡi. Tôi định bảo cô thả cho hai con bồ câu bay đi để chúng tôi có thể theo sau nó – nhưng tìm được cô Wren vào lúc này liệu có ích gì, trong lúc đám hồn rỗng đang truy đuổi chúng tôi? Chúng tôi sẽ tới chỗ bà chỉ để rồi bị giết trước cửa nhà bà, và đẩy cả tính mạng của bà vào vòng nguy hiểm. Không, trước hết chúng tôi cần đánh lạc hướng đám hồn rỗng đã. Hay tốt hơn là giết chúng.
Một người đàn ông đội mũ sắt thò đầu ra khỏi một khung cửa và la lớn, “Các cháu nên tìm chỗ ẩn nấp đi!” rồi lại rụt vào bên trong.
Hẳn rồi, tôi nghĩ, nhưng nấp đâu bây giờ? Chúng tôi có thể ẩn nấp trong các đống đổ nát và cảnh hỗn loạn xung quanh mình, và với quá nhiều tiếng ồn và biến cố gây phân tâm ở khắp nơi, lũ hồn rỗng sẽ không tìm thấy chúng tôi. Song chúng tôi vẫn ở quá gần chúng, dấu vết của chúng tôi vẫn còn quá mới. Tôi cảnh báo các bạn mình không được dùng đến năng lực đặc biệt trong bất cứ hoàn cảnh nào, rồi Emma và tôi dẫn họ đi vòng vèo qua các con phố, hy vọng làm vậy sẽ khiến việc lần theo chúng tôi khó khăn hơn.
Dẫu vậy, tôi vẫn cảm thấy chúng đang tới. Lúc này chúng đã ra ngoài không gian mở, ra khỏi nhà thờ, lùa theo chúng tôi, vô hình với tất cả ngoại trừ tôi. Tôi tự hỏi đến cả tôi liệu cũng có thể thấy chúng ở đây, trong bóng tối được không: những sinh vật của bóng tối trong một thành phố chìm trong bóng tối.
Chúng tôi chạy cho tới khi phổi tôi bỏng rát. Cho tới khi Olive không thể bắt kịp chúng tôi nữa, và Bronwyn phải bế cô bé. Chúng tôi lao qua những dãy dài các ô cửa sổ tối đen mở trừng trừng như những con mắt không mi. Qua một thư viện trúng bom lả tả tro và giấy cháy đang rơi xuống. Qua một nghĩa địa bị trúng bom, những cư dân London đã bị lãng quên từ lâu, bị đào lên rồi ném lên các thân cây, nhăn nhở cười trong bộ áo liệm đã mục nát. Một cái đu vặn vẹo méo mó nằm giữa một sân chơi biến thành hố bom. Những cảnh tượng kinh hoàng cứ chồng chất lên nhau, không thể nào hiểu nổi, những chiếc máy bay ném bom thỉnh thoảng lại thả pháo để soi sáng tất cả với thứ ánh sáng trắng thuần khiết, chói lòa như cả nghìn chiếc đèn flash máy ảnh cùng lóe lên. Như thể để nói: Nhìn đi. Hãy nhìn những gì chúng ta tạo ra.
Những cơn ác mộng trở thành hiện thực, tất cả chúng. Như chính lũ hồn rỗng.
Đừng nhìn đừng nhìn đừng nhìn…
Tôi thấy ghen tị với hai anh em mù, họ được bước đi trong một khung cảnh mà nhân từ thay không chứa đựng chi tiết nào; một thế giới dưới dạng mạng lưới. Trong một thoáng, tôi tự hỏi liệu những giấc mơ của họ ra sao – nếu như quả thực họ có mơ.
Emma chạy bên cạnh tôi, mái tóc lượn sóng dính đầy bụi bay phần phật sau lưng. “Mọi người đều kiệt sức rồi,” cô nói. “Chúng ta không thể tiếp tục thế này được!”
Cô có lý. Thậm chí cả người khỏe nhất trong chúng tôi giờ cũng đang loạng choạng, và chẳng mấy chốc nữa đám hồn rỗng sẽ bắt kịp chúng tôi, và chúng tôi sẽ phải đối diện với chúng giữa phố. Sẽ là một cuộc tắm máu. Chúng tôi cần tìm nơi ẩn náu.
Tôi dẫn cả bọn về phía một dãy nhà. Vì đám phi công máy bay ném bom nhiều khả năng sẽ nhằm vào một ngôi nhà sáng đèn vui vẻ hơn là một ngôi nhà khác lờ mờ trong bóng tối, tất cả các nhà đều tắt đèn tối om – tất cả đèn thắp sáng trên cửa ra vào đều tối, mọi ô cửa sổ đều đen kịt. Một ngôi nhà không có ai sẽ là nơi an toàn nhất cho chúng tôi, nhưng khi tắt đèn tối om thế này, chẳng thể nào biết được nhà nào có người ở, nhà nào không. Chúng tôi sẽ phải chọn ngẫu nhiên một nhà.
Tôi dừng mọi người lại trên đường.
“Cậu làm gì thế?” Emma nói, thở hổn hển lấy hơi. “Cậu điên à?”
“Có thể lắm,” tôi nói, rồi tôi nắm lấy Horace, đưa tay chỉ về phía dãy nhà, rồi nói, “Chọn đi.”
“Cái gì?” cậu ta hỏi. “Sao lại là tớ?”
“Vì tớ tin tưởng vào lựa chọn ngẫu nhiên của cậu hơn của chính tớ.”
“Nhưng tới chưa bao giờ mơ về chỗ này cả!” cậu ta phản đối.
“Có khi cậu mơ rồi mà không nhớ đấy,” tôi nói. “Chọn đi.”
Hiểu ra không có cách nào chối được, cậu ta khó nhọc nuốt khan, nhắm mắt lại trong một giây, rồi quay người chỉ vào một ngôi nhà phía sau chúng tôi. “Nhà kia.”
“Tại sao?” tôi hỏi.
“Vì cậu bắt tớ chọn!” Horare cáu kỉnh nói.
Đâm lao thì phải theo lao.
***
Cửa trước bị khóa. Không vấn đề gì: Bronwyn bẻ gãy tay nắm cửa và ném nó ra ngoài phố, cánh cửa tự động kèn kẹt mở ra. Chúng tôi đi vào một lối đi tối om, hai bên treo những dãy ảnh gia đình, những khuôn mặt không tài nào nhìn rõ được. Bronwyn đóng cửa lại và chặn bằng một cái bàn cô tìm thấy trên lối đi.
“Ai đó?” một giọng nói từ sâu hơn bên trong ngôi nhà vang lên.
Chết tiệt. Nhà này không chỉ có chúng tôi. “Đáng lẽ cậu phải chọn một ngôi nhà không người ở chứ,” tôi nói với Horace.
“Tớ sẽ nện cậu nhừ tử cho mà xem,” Horace lẩm bẩm.
Không còn thời gian để đổi nhà nữa. Chúng tôi sẽ phải giới thiệu mình với những người đang ở đây và hy vọng họ thân thiện.
“Ai ngoài đó vậy?” giọng nói kia hỏi.
“Chúng cháu không phải kẻ trộm, bọn Đức hay thứ gì như vậy đâu,” Emma nói. “Chúng cháu chỉ tìm chổ trú ẩn ở đây thôi!”
Không có câu trả lời.
“Ở lại đây,” Emma nói với những người khác, rồi cô kéo tôi đi theo xuống lối đi. “Chúng cháu tới để chào thôi!” cô gọi lớn tiếng và thân thiện. “Làm ơn đừng bắn!”
Chúng tôi đi tới cuối lối đi, rẽ vào trong góc, và ở đó có một cô bé đang đứng trên ngưỡng cửa. Một bên tay cô bé cầm một cây đèn bão đã vặn nhỏ, tay kia cầm một con dao mở thư, và đôi mắt đen cứng cỏi của cô bồn chồn nhìn qua nhìn lại giữa Emma và tôi. “Chẳng có gì có giá trị ở đây cả!” cô bé nói. “Ngôi nhà này đã bị cướp rồi.”
“Tôi đã nói rồi, chúng tôi không phải kẻ trộm!” Emma nói, cảm thấy bị xúc phạm.
“Và tôi nói các người đi đi. Nếu các người không đi, tôi sẽ la lên… và bố tôi sẽ tới mang theo… súng và những thứ khác!”
Trông cô gái vừa trẻ con vừa trưởng thành trước tuổi. Mái tóc cô cắt ngắn ngang vai và mặc một chiếc váy bé gái với những chiếc cúc trắng to chạy dọc xuống đằng trước, song có gì đó trong vẻ ngoài lạnh lùng như tạc bằng đá của cô làm cho cô dường như già hơn, từng trải hơn so với tuổi mười hai hay mười ba.
“Làm ơn đừng la lên,” tôi nói, không nghĩ tới ông bố nhiều khả năng chỉ là tưởng tượng của cô mà tới những thứ khác có thể tìm đến.
Thế rồi một giọng nói khẽ vang lên đằng sau cô gái, vọng ra qua ngưỡng cửa cô rõ ràng đang muốn chắn ngang. “Ai ngoài đó vậy, Sam?”
Khuôn mặt cô gái cau lại bực bội. “Chỉ là vài đứa trẻ thôi,” cô nói. “Chị đã bảo em giữ im lặng rồi kia mà, Esme.”
“Họ có dễ mến không? Em muốn gặp họ!”
“Họ sắp sửa rời đi rồi.”
“Chúng tôi thì rất đông mà các cậu chỉ có hai người thôi,” Emma nói, ngả bài. “Chúng tôi sẽ ở lại đây một chút, và sẽ là như thế. Cậu sẽ không la lối, còn chúng tôi sẽ không lấy cắp thứ gì hết.”
Đôi mắt cô gái lóe lên những tia giận dữ, rồi tắt ngấm. Cô gái biết mình sẽ thua cuộc. “Được rồi,” cô ta nói, “nhưng cứ thử làm bất cứ điều gì xem, tôi sẽ la lên rồi đâm thứ này vào bụng các người.” Cô gái yếu ớt giơ con dao mở bì thư lên, rồi hạ xuống để nó bên hông.
“Cũng công bằng thôi,” tôi nói.
“Sam?” giọng nói khe khẽ lại vang lên. “Bây giờ có chuyện gì xảy ra vậy?”
Cô gái – Sam – miễn cưỡng bước tránh sang bên, để lộ ra một buồng tắm chập chờn theo ánh sáng nhảy múa của những ngọn nến. Có một chậu rửa, một bồn cầu và một bồn tắm, và trong bồn tắm có một cô bé chừng năm tuổi. Cô bé nhô đầu lên khỏi mép bồn tò mò nhìn chúng tôi. “Đây là em gái tôi, Esme,” Sam nói.
“Xin chào!” Esme lên tiếng, cầm một con vịt cao su chĩa về phía chúng tôi lắc lư. “Bom không thể trúng được các anh chị khi các anh chị ở trong bồn tắm, các anh chị có biết điều đó không?”
“Chị không biết,” Emma đáp.
“Đó là chỗ an toàn của nó,” Sam thì thầm. “Chúng tôi luôn ở đây trong mọi cuộc công kích.”
“Chẳng phải các cậu sẽ an toàn hơn dưới một hầm trú ẩn sao?” tôi hỏi.
“Những nơi đó thật kinh khủng,” Sam nói.
Những người còn lại đã chán chờ đợi và bắt đầu bước xuống lối đi. Bronwyn ló vào qua khung cửa và vẫy tay chào.
“Chị vào đi!” Esme hân hoan lên tiếng.
“Em dễ tin người quá,” Sam trách móc. “Rồi có ngày em sẽ gặp một người xấu và lúc đó sẽ phải ân hận.”
“Các anh chị này đâu có xấu,” Esme nói.
“Đừng trông mặt mà bắt hình dong.”
Thế rồi Hugh và Horace ló mặt vào qua khung cửa, tò mò khi thấy chúng tôi đã gặp những ai, rồi Olive chui qua giữa chân họ và ngồi xuống giữa sàn nhà, và chẳng mấy chốc tất cả chúng tôi đều đã chen chúc trong phòng tắm, kể cả Melina và hai anh em mù, lúc này đang đứng co ro đối diện với góc nhà. Thấy nhiều người đến vậy, hai chân Sam run rẩy, và cô gái nặng nề ngồi phịch xuống bồn cầu, hoàn toàn bị áp đảo – song em gái cô thì lại cực kỳ hào hứng, hỏi tên tất cả mọi người khi họ vào.
“Bố mẹ em đâu?” Bronwyn hỏi.
“Bố đang đi bắn kẻ xấu trong chiến tranh,” Esme nói đầy tự hào. Cô bé làm bộ cầm một khẩu súng trường rồi hét, “Bùm!”
Emma nhìn Sam. “Câu bảo bố cậu ở trên gác cơ mà,” cô nói thẳng thừng.
“Các người đột nhập vào nhà chúng tôi,” Sam nói.
“Phải.”
“Còn mẹ cậu?” Bronwyn hỏi. “Bà ấy đâu?”
“Mất lâu rồi,” Sam nói, có vẻ không có chút cảm xúc nào. “Vì thế khi bố ra trận, người ta đã định đưa chúng tôi tới với người thân ở chỗ khác – và vì em gái bố ở Devon là người keo kiệt kinh khủng và chỉ chịu nhận một trong hai chúng tôi, người ta định đưa Esme và tôi tới những nơi khác nhau. Nhưng chúng tôi nhảy xuống tàu và quay trở lại.”
“Chúng em sẽ không để bị chia cắt,” Esme tuyên bố. “Chúng em là chị em”
“Và cậu sợ nếu tới một hầm trú ẩn người ta sẽ tìm ra hai chị em?” Emma nói. “Và sẽ đưa hai người đi?”
Sam gật đầu. “Tôi sẽ không để chuyện đó xảy ra.”
“Ở trong bồn tắm an toàn lắm,” Esme nói. “Có lẽ mọi người cũng nên vào trong này. Như thế tất cả chúng ta sẽ an toàn.”
Bronwyn đưa bàn tay áp lên tim. “Cảm ơn em, nhưng bọn chị sẽ không bao giờ vừa được đâu!”
Trong khi những người khác nói chuyện, tôi dồn sự tập trung vào bên trong, cố cảm nhận đám hồn rỗng. Chúng không còn chạy nữa. Cảm Giác đã ổn định, nghĩa là chúng không lại gần cũng không ra xa hơn, mà nhiều khả năng đang lục tìm gần đây. Tôi coi đây là một dấu hiệu tốt; nếu biết chúng tôi ở đâu, hẳn chúng đã lao thẳng tới rồi. Dấu vết của chúng tôi đã mờ nhạt. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là nấp im một lúc, sau đó chúng tôi có thể đi theo con bồ câu tới chỗ cô Wren.
Chúng tôi xúm lại chen chúc nhau trên sàn phòng tắm, lắng nghe bom rơi xuống những khu vực khác trong thành phố. Emma tìm thấy ít cồn xoa bóp trong tủ thuốc, cô nhất định đòi lau sạch và băng bó vết thương trên đầu tôi. Rồi Sam bắt đầu ngân nga một giai điệu nào đó tôi biết nhưng không nhớ nổi tên, còn Esme chơi với con vịt của cô bé trong bồn tắm, thế rồi Cảm Giác, một cách rất từ từ, bắt đầu dịu xuống. Trong vài phút ngắn ngủi dài lê thê căn phòng tắm chập chờn này trở thành một thế giới riêng biệt; một cái kén cách xa khỏi rắc rối và chiến tranh.
Nhưng cuộc chiến bên ngoài từ chối bị tảng lờ lâu. Súng phòng không nổ ràn rạt. Mảnh đạn cào kèn kẹt như móng vuốt qua mái nhà. Những quả bom rơi xuống gần hơn, cho tới khi tiếng nổ của chúng kéo theo những âm thanh trầm hơn, đáng sợ hơn – tiếng những bức tường rầm rầm đổ xuống. Olive ôm chặt lấy mình. Horace đưa các ngón tay lên bịt tai. Hai cậu bé mù rên rỉ và giậm chân. Cô Peregrine rúc sâu vào trong các nếp áo khoác của Bronwyn, còn con bồ câu run bần bật trong lòng Melina.
“Các cậu dẫn chúng ta vào trò điên loạn gì thế này?” Melina nói.
“Tớ đã cảnh báo cậu rồi,” Emma đáp.
Nước trong bồn tắm của Esme dập dềnh theo mỗi tiếng nổ. Cô bé nắm chặt lấy con vịt cao su và bắt đầu khóc. Tiếng nức nở của cô bé tràn ngập căn phòng. Sam ngân nga to hơn, thỉnh thoảng lại dừng lại thì thầm, “Em an toàn, Esme, em được an toàn ở đây,” giữa các giai điệu, nhưng Esme chỉ càng khóc dữ hơn. Horace bỏ các ngón tay ra khỏi tai và tìm cách phân tán sự chú ý của Esme bằng cách tạo thành bóng các con vật trên tường – một con cá sấu hàm há ra lại ngậm vào, một con chim vỗ cánh bay – nhưng cô bé hầu như không để ý đến. Thế rồi người mà tôi chẳng bao giờ trông đợi sẽ bận tâm tới việc giúp một cô bé cảm thấy vui vẻ hơn lại bước tới bên bồn tắm.
“Nhìn này,” Enoch nói, “anh có một người tí hon thích cưỡi con vịt của em, và cậu ta cũng vừa cỡ.” Từ trong túi, cậu ta lấy ra một người tí hon bằng đất cao gần chục phân, người cuối cùng còn lại từ những gì cậu ta đã tạo ra tại Cairnholm. Những tiếng nức nở của Esme dịu xuống khi cô bé quan sát cậu ta uốn cong chân người tí hon bằng đất và đặt nó ngồi lên thành bồn tắm. Sau đó, Enoch ấn ngón cái vào khuôn ngực tí xíu của người đất, anh chàng tí hon liền sống dậy. Khuôn mặt Esme sáng lên thích thú khi người đất đứng dậy và bước đi theo thành bồn.
“Tiếp nào,” Enoch nói. “Cho cô bé thấy mày có thể làm gì.”
Người đất nhảy lên và đập hai gót chân vào nhau, sau đó cúi chào một cái hơi bộ tịch quá. Esme cười vang và vỗ tay, và khi một quả bom rơi gần chỉ giây lát sau đó làm người đất mất thăng bằng và rơi tõm vào trong bồn, cô bé chỉ càng cười dữ hơn.
Một cơn ớn lạnh đột nhiên cuộn lên sau gáy tôi, làm da đầu tôi sởn gai ốc, rồi Cảm Giác bùng lên trong tôi thật nhanh chóng và dữ dội khiến tôi phải rên lên và cúi gập người lại. Những người khác nhìn thấy, lập tức hiểu ra như thế nghĩa là gì.
Chúng đang tới. Chúng đang lao tới rất nhanh.
Tất nhiên là thế rồi: Enoch đã dùng năng lực của cậu ta, và thậm chí tôi còn chẳng nghĩ tới việc ngăn cậu ta lại. Chẳng khác gì chúng tôi vừa bắn lên một quả pháo hiệu.
Tôi loạng choạng đứng dậy, cảm giác đau đớn dồn dập tấn công tôi thành từng cơn làm tôi kiệt sức. Tôi cố hét lên – Đi, chạy mau! Chạy ra sau nhà! – nhưng không thể nói ra lời. Emma đặt hai bàn tay lên hai vai tôi. “Trấn tĩnh lại đi, Jacob yêu quý, chúng tớ cần cậu!”
Rồi thứ gì đó nện thình thình vào cửa trước, mỗi cú nện đều vang vọng lại khắp ngôi nhà. “Chúng ở đây rồi!” cuối cùng tôi cũng nói được thành lời, nhưng tiếng cánh cửa rung bần bật trên các bản lề đã nói rõ hộ tôi.
Tất cả mọi người đứng bật dậy và chen chúc nhau ào ra ngoài lối đi thành một đám hoảng loạn. Chỉ có Sam và Esme vẫn ở yên chổ cũ, không hiểu gì, người co rúm lại. Emma và tôi phải lôi Bronwyn rời khỏi bồn tắm. “Chúng ta không thể cứ bỏ mặc họ như thế!” cô kêu lên khi chúng tôi kéo cô ra phía cửa.
“Có, chúng ta có thể!” Emma nói. “Họ sẽ ổn thôi, họ không phải là người đám hồn rỗng truy đuổi!”
Tôi biết đúng là như thế, song tôi cũng biết đám hồn rỗng sẽ xé tan tành mọi thứ trên đường đi của chúng, kể cả hai cô bé bình thường.
Bronwyn đấm vào trong tường trong cơn phẫn nộ, để lại một vết hõm sâu hình nắm tay.
“Tớ xin lỗi,” cô nói với hai cô gái, rồi để Emma đẩy mình ra lối đi.
Tôi loạng choạng chạy theo họ, bụng quặn thắt. “Khóa cửa lại và đừng mở cho bất cứ ai!” tôi nói lớn, rồi ngoái lại nhìn một lần thoáng qua khuôn mặt Sam qua khung cửa đang đóng lại, đôi mắt cô bé mở to, đầy kinh hoàng.
Tôi nghe thấy một cửa sổ bị đập vỡ ngoài tiền sảnh. Một thôi thúc tò mò gần như tự sát làm tôi liếc nhìn qua góc tường. Một đống xúc tu đang quằn quại trườn qua các rèm cửa được kéo kín.
Rồi Emma cầm lấy tay tôi và lôi tôi đi – theo một lối khác – vào một căn bếp – qua cửa sau – ra một khu vườn phủ đầy tro bụi – lao xuống một con hẻm nơi những người khác đang chạy thành một nhóm rời rạc. Thế rồi ai đó nói “Nhìn kìa, nhìn kìa!” và, vừa chạy tôi vừa ngẩng đầu lên thì thấy một con chim trắng khổng lồ đang lơ lửng thật cao phía trên con phố. Enoch nói, “Mìn, đó là một quả mìn!” và thứ lúc trước trông như một đôi cánh nhẹ mong manh đột nhiên hiện nguyên hình rõ ràng là một chiếc dù, và vật thể tròn trĩnh màu bạc treo bên dưới nó chứa đầy thuốc nổ; một tử thần đang thản nhiên bồng bềnh hạ xuống mặt đất.
Đám hồn rỗng ào ra ngoài. Tôi có thể thấy chúng ngoài xa, đang băng qua khu vườn, những cái lưỡi vung vẩy trong không khí.
Quả mìn hạ xuống cạnh ngôi nhà với một tiếng cạch nhẹ nhàng.
“Nằm xuống!” tôi hét lên.
Chúng tôi có cơ hội chạy đi tìm nơi ẩn nấp. Tôi vừa kịp nằm phục xuống đất thì một quầng sáng chói lòa và một âm thanh nghe như mặt đất vừa bị xẻ toang ra cùng một làn sóng xung kích với luồng gió nóng hừng hực ép hết không khí ra khỏi phổi tôi. Tiếp theo, một trận mưa mảnh vỡ đen kịt quật dữ dội xuống lưng tôi. Tôi thu hai đầu gối co lên ngực, cho mình gọn lại nhất có thể.
Sau đó, chỉ còn lại gió, tiếng còi và một âm vang ong ong trong tai tôi. Tôi há hốc miệng hớp không khí và sặc sụa vì bụi đang bay cuộn lên. Kéo cổ áo len lên che kín mũi và miệng để lọc bụi, tôi từ từ hít thở trở lại.
Tôi đếm lại tứ chi của mình: hai cánh tay, hai chân.
Tốt.
Tôi chầm chậm ngồi dậy và nhìn quanh. Tôi không thể thấy gì nhiều qua đám bụi, nhưng tôi nghe thấy các bạn mình đang gọi nhau. Có tiếng Horace, rồi Bronwyn. Rồi Hugh. Và Millard.
Emma đâu rồi?
Tôi gọi tên cô. Cố đứng dậy và lại ngồi vật xuống. Đôi chân tôi còn nguyên vẹn song đang run bần bật; chúng không mang nổi trọng lượng của tôi.
Tôi lại gọi lớn. “Emma!”
“Tớ đây!”
Đầu tôi quay ngoắt về phía giọng nói của cô. Cô hiện ra từ trong làn khói.
“Jacob! Ôi Chúa ơi. Tạ ơn Chúa.”
Cả hai chúng tôi đều run rẩy. Tôi đưa hai cánh tay ôm lấy cô, đưa hai bàn tay lần khắp người cô để đảm bảo cô vẫn còn nguyên vẹn.
“Cậu ổn cả chứ?” tôi hỏi.
“Phải. Còn cậu?”
Hai tai tôi đau điếng, hai buồng phổi đau rát và lưng tôi nhức nhối ở những chổ bị mảnh vỡ đập vào, nhưng cơn đau trong bụng đã biến mất. Ngay khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, như thể ai đó đã tắt một cái công tắc trong người tôi, và vậy là Cảm Giác tan biến.
Đám hồn rỗng đã bị bốc thành hơi.
“Tớ ổn cả,” tôi nói. “Tớ ổn cả.”
Ngoại trừ những vết sây sát và rách da thịt, cũng như những người còn lại trong chúng tôi. Cả nhóm chúng tôi tập tễnh xúm lại và so sánh các vết thương. Tất cả đều là những vết thương nhẹ. “Đây quả là một thứ phép mầu,” Emma nói, lắc đầu không tin nổi.
Thậm chí thực tế này còn khó tin hơn khi chúng tôi nhận ra khắp nơi quanh mình là đinh sắt và những mảnh bê tông, cùng các mảnh gỗ sắc như dao, nhiều mảnh bị vụ nổ làm cắm sâu vào đất cả chục phân.
Enoch tập tễnh đi tới chỗ một chiếc ô tô đậu gần đó, các khung cửa kính tan tành, khung xe bị mảnh mìn cắm vào chi chít đến nỗi trông giống như bị một khẩu súng máy xả đạn vào. “Đáng lẽ bọn mình phải chết rồi,” cậu ta ngỡ ngàng, đút ngón tay vào một trong những cái lỗ. “Tại sao bọn mình lại không thủng lỗ chỗ nhỉ?”
Hugh nói, “Là cái áo của cậu, anh bạn,” rồi đi tới chỗ Enoch và nhổ một cái đinh quần xuống từ lưng chiếc áo lên dính đầy đất cát của cậu ta.
“Và áo của cậu nữa,” Enoch nói, nhổ một mảnh kim loại cạnh sắc lởm chởm ra từ áo của Hugh.
Thế rồi tất cả chúng tôi cùng kiểm tra lại áo len của mình. Găm vào mỗi chiếc áo đều có những mảnh kính dài nhọn hoắt, những mảnh kim loại đáng lẽ đã xuyên thấu qua người chúng tôi – nhưng lại không thể. Những chiếc áo len đặc biệt ngứa ngáy, không vừa vặn của chúng tôi không kỵ lửa hay kỵ nước, như cô bán lừa cao cổ đã đoán. Chúng chống đạn. Và chúng đã cứu mạng chúng tôi.
“Tớ chưa bao giờ mơ mình lại nợ mạng sống một món trang phục kinh khủng thế này,” Horace nói, mân mê chất len của chiếc áo giữa các ngón tay. “Tớ không biết mình có thể dùng loại len này may một cái áo vest thay cho thứ này được không.”
Sau đó Melina xuất hiện, con bồ câu đậu trên vai cô, bên cạnh cô là hai anh em mù. Với khả năng cảm nhận như những chiếc máy dò sóng âm của mình, hai cậu bé đã tìm thấy một bức tường thấp bằng bê tông cường lực – nghe có vẻ rất cứng – và kéo Melina nấp vào đằng sau nó đúng lúc quả bom nổ. Như vậy chỉ còn hai cô bé bình thường kia là chưa thấy đâu. Nhưng khi bụi lắng xuống và ngôi nhà của họ - hay những gì còn lại của nó – hiện ra trong tầm mắt, mọi hy vọng tìm thấy họ còn sống dường như đều tiêu tan. Tầng trên ngôi nhà đã sập, dẹp lép đè ụp lên tầng dưới. Những gì còn lại là bộ khung trơ trụi của những thanh xà cây cột nhô ra và một đống đổ nát bốc khói.
Dù vậy Bronwyn vẫn hối hả chạy ngay về phía ngôi nhà, gọi lớn tên hai chị em. Tôi đờ đẫn nhìn cô chạy đi.
“Chúng ta đã có thể giúp họ mà lại không giúp,” Emma cay đắng nói. “Chúng ta bỏ mặc họ chết.”
“Làm gì thì cũng chẳng đem lại chút khác biệt nào,” Millard nói. “Cái chết của họ đã được ghi trong lịch sử rồi. Cho dù chúng ta có cứu sống họ hôm nay, sẽ có chuyện gì đó xảy đến với họ ngày mai. Một quả bom khác. Một vụ đâm xe buýt. Họ thuộc về quá khứ, và quá khứ luôn tự điều chỉnh nó, cho dù chúng ta có can thiệp thế nào đi nữa.”
“Đó là lý do tại sao cậu không thể trở về quá khứ và giết chú nhóc Hitler để ngăn chiến tranh xảy ra,” Enoch nói. “Lịch sử tự điều chỉnh cho nó. Chẳng phải thật thú vị sao?”
“Không,” Emma gắt lên, “và cậu là một gã khốn vô tâm khi nói về việc giết trẻ con vào một lúc thế này. Hay vào bất cứ lúc nào.”
“Cậu nhóc Hitler,” Enoch nói. “Và nói về lý thuyết Vòng Thời Gian sẽ tốt hơn lao vào những cơn cuồng loạn vô tích sự.” Cậu ta nhìn theo Bronwyn, cô đang leo lên đống đổ nát, bới tìm trong những mảnh vỡ, ném hết mảnh này đến mảnh khác ra đủ hướng.
Cô quay lại và vẫy tay về phía chúng tôi. “Lại đây!” cô gọi lớn.
Enoch lắc đầu. “Ai đó làm ơn lôi cậu ấy về đây nào. Chúng ta còn một Chủ Vòng cần phải tìm nữa.”
“Lại đây!” Bronwyn hét lên, lần này còn lớn tiếng hơn. “Tớ có thể nghe thấy một trong hai chị em họ!”
Emma nhìn tôi. “Đợi đã. Cậu ấy nói gì nhỉ?”
Và rồi tất cả chúng tôi cùng chạy tới với cô.
***
Chúng tôi tìm thấy cô em gái dưới một mảnh trần vỡ. Nó đã rơi thẳng xuống đập vào bên trên bồn tắm, làm cái bồn bị vỡ nhưng không hoàn toàn bẹp xuống. Co ro bên trong là Esme – ướt, nhem nhuốc, và bị chấn động nặng nề, nhưng còn sống. Cái bồn đã bảo vệ cho cô bé, đúng như chị gái cô đã hứa.
Bronwyn nhấc mảng trần sập lên đủ cao để Emma thò tay vào kéo Esme ra. Cô bé ôm chặt lấy Emma, run rẩy khóc nức nở. “Chị em đâu?” cô bé hỏi. “Sam đâu rồi?”
“Bình tĩnh nào, cô bé, bình tĩnh nào,” Emma nói, không ngừng đu đưa cô bé.
“Các anh chị sẽ đưa em tới bệnh viện. Sam sẽ đến sau.” Đó là một lời nói dối, tất nhiên rồi, và tôi có thể thấy trái tim Emma tan nát khi cô phải nói ra những lời này. Nguyên chuyện chúng tôi còn sống sót và cả cô bé cũng vậy đã là hai phép mầu trong một đêm. Trông đợi phép mầu thứ ba nữa có vẻ quá tham lam.
Nhưng rồi vẫn có phép mầu thứ ba xảy ra, hay điều gì đó tương tự như thế: chị cô bé trả lời.
“Chị đây, Esme!” một giọng nói vọng tới từ phía trên.
“Sam!” cô bé reo lên, và tất cả chúng tôi cùng ngước nhìn lên.
Sam đang treo lủng lẳng trên một xà gỗ trong cấu trúc rui mái nhà. Thanh xà đã bị gãy và nằm chúc xuống bốn mươi lăm độ. Sam ở gần phía đầu thấp nhất, song vẫn quá cao để bất cứ ai trong chúng tôi với tới.
“Buông tay ra!” Emma nói. “Bọn tớ sẽ đỡ cậu!”
“Tớ không thể!”
Thế rồi tôi nhìn kỹ hơn và thấy rõ vì sao cô bé không thể, và thiếu chút nữa tôi ngất xỉu.
Hai cánh tay và hai chân đều đang đu đưa tự do. Không phải cô bé đang bám vào thanh xà, mà đang cố gỡ người ra khỏi nó. Cô gái đã bị thanh xà đâm xuyên qua giữa thân mình. Ấy vậy nhưng đôi mắt cô vẫn mở, và cô đang chớp mắt đầy lanh lợi về phía chúng tôi.
“Có vẻ tớ bị mắc kẹt,” cô bình tĩnh nói.
Tôi tin chắc Sam có thể chết bất cứ lúc nào. Cô đang bị sốc nên không hề cảm thấy đau, song chẳng mấy chốc nữa lượng adrenaline tràn ngập trong người cô sẽ tan biến, và cô sẽ ngất xỉu rồi chết.
“Ai đó gỡ chị em xuống đi!” Esme khóc lóc.
Bronwyn làm theo lời cầu xin của cô bé. Cô leo lên một cầu thang đổ nát để tới chổ trần nhà bị phá hỏng, sau đó vươn tay ra nắm lấy thanh xà. Cô kéo, kéo mãi, và bằng sức mạnh ghê gớm của mình khiến thanh xà bị gập xuống cho tới lúc đầu xà gãy gần chạm tới đống đổ nát phía dưới. Nhờ vậy, Enoch và Hugh có thể cầm lấy đôi chân đang vùng vẫy của Sam rồi thật nhẹ nhàng đẩy cô bé về phía trước cho tới khi cô được giải thoát khỏi cây xà với một tiếng phực! và đứng xuống trên hai chân.
Sam đờ đẫn nhìn lỗ thủng trên ngực. Cái lỗ tròn trịa một cách hoàn hảo với đường kính gần mười lăm xăng ti mét, cũng giống như thanh xà đã đâm xuyên qua người cô, ấy thế nhưng chuyện này không có vẻ làm cô bé bận tâm nhiều.
Esme vùng ra khỏi tay Emma và chạy tới chổ chị gái. “Sam!” cô bé reo lên, dang hai cánh tay ôm vòng quanh eo cô gái bị thương. “Ơn Chúa là chị ổn cả!”
“Chị không nghĩ thế đâu!” Olive nói. “Chị không nghĩ là chị em ổn cả đâu!”
Nhưng Sam chỉ lo lắng cho Esme, chứ không phải cho bản thân. Sau khi đã ôm chặt em gái, Sam quỳ gối xuống, giữ cô bé cách xa một tầm cánh tay, xem xét các vết xây xước, bầm tím. “Hãy nói cho chị biết em đau ở đâu,” cô nói.
“Tai em ong ong. Đầu gối em bị xước. Và bụi bay vào mắt em…”
Rồi Esme bắt đầu run bần bật và khóc, cú sốc trước những gì vừa diễn ra lại ám ảnh cô bé. Sam nựng nịu ôm chặt lấy em gái, dỗ dành, “Thôi mà, thôi mà…”
Thật vô lý khi bất cứ chức năng nào trong cơ thể của Sam vẫn còn vận hành được. Lạ hơn nữa, vết thương của cô thậm chí còn chẳng chảy máu, và không có thứ gì ghê rợn hay những mảnh ruột lòi ra ngoài như trong các bộ phim kinh dị. Ngược lại, Sam trông như một con búp bê giấy vừa bị một cái đục lỗ khổng lồ xuyên qua.
Dù tất cả mọi người đều rất trông đợi một lời giải thích, chúng tôi quyết định để hai chị em họ được riêng tư cùng nhau, và đứng kinh ngạc nhìn chằm chặp từ một khoảng cách vừa phải.
Tuy thế, Enoch lại không dành cho họ sự lịch thiệp tương tự. “Xin lỗi nhé,” cậu ta nói, chen vào không gian riêng tư của họ, “nhưng cậu có thể làm ơn giải thích làm thế nào cậu lại vẫn còn sống không?”
“Chẳng có gì nghiêm trọng cả,” Sam nói. “Dù cái váy của tớ có vẻ không qua nổi chuyện này.”
“Chẳng có gì nghiêm trọng ư?” Enoch thốt lên. “Tớ có thể nhìn xuyên qua người cậu!”
“Cũng hơi phiền phức một chút,” cô gái thừa nhận, “nhưng rồi nó sẽ kín lại sau khoảng một ngày thôi. Những chuyện thế này luôn diễn ra mà.”
Enoch cười như hóa rồ. “Những chuyện thế này?”
“Nhân danh tất cả những gì đặc biệt,” Millard khẽ nói. “Cậu biết điều này nghĩa là gì phải không nào?”
“Cô ấy là một trong số chúng ta,” tôi nói.
***
Chúng tôi có những câu hỏi. Rất nhiều câu hỏi. Và khi nước mắt của Esme bắt đầu khô hẳn, chúng tôi thu hết can đảm để hỏi.
Sam có nhận ra cô là người đặc biệt không?
Cô gái biết mình khác biệt, cô trả lời, song chưa bao giờ nghe đến khái niệm người đặc biệt.
Cô đã bao giờ sống trong một Vòng Thời Gian chưa?
Chưa (“Một cái gì cơ?”), nghĩa là độ tuổi cô bé cũng vừa bằng vẻ bề ngoài của mình. Mười hai tuổi, cô bé đáp.
Chẳng lẽ chưa từng có Chủ Vòng nào tới tìm cô bé?
“Một lần từng có người tới,” cô bé trả lời. “Có những người khác giống tớ, nhưng để gia nhập cùng họ tớ sẽ phải bỏ Esme lại.”
“Esme không thể… làm được bất cứ điều gì sao?” tôi hỏi.
“Em có thể đếm ngược từ một trăm bằng giọng vịt,” Esme tình nguyện lên tiếng giữa những lần thút thít, rồi bắt đầu thể hiện bằng những tiếng quàng quạc, “Một trăm, chín mươi chín, chín mươi tám…”
Chưa kịp đếm tiếp, Esme đã bị tiếng còi ngắt lời, cái còi này có âm thanh cao chói tai và di chuyển rất nhanh về phía chúng tôi. Một chiếc xe cứu thương nghiêng thành rẽ vào con hẻm và hối hả phóng về phía chúng tôi, đèn pha đã bị dán kín phần lớn chỉ để những khe sáng hẹp như châm bằng đinh ghim chiếu ra. Chiếc xe phanh kít dừng sững lại ngay gần chỗ chúng tôi, tắt còi hụ, và một người lái xe chui ra khỏi xe.
“Có ai bị thương không?” người lái xe hỏi trong lúc hối hả chạy tới chỗ chúng tôi. Người này mặc một bộ đồng phục xám nhàu nhĩ, trên đầu đội một cái mũ sắt sứt mẻ, và cho dù anh ta có vẻ rất sung sức, khuôn mặt anh ta lại hốc hác như thể đã nhiều ngày qua chưa ngủ.
Nhìn thấy lỗ thủng trên ngực Sam, người lái xe đang chạy liền đứng chựng lại. “Ôi Chúa ơi!”
Sam đứng dậy. “Không có gì đâu ạ, thật đấy!” cô bé nói. “Cháu không sao cả!” Và để cho thấy mình hoàn toàn ổn ra sao, cô bé đưa nắm tay vào trong cái lỗ vài lần rồi lại rút ra, rồi nhảy lên vung tay xoạc chân một lần.
Người lái xe cứu thương ngất xỉu.
“Hừm,” Hugh thốt lên, đưa bàn chân hất hất người đàn ông vừa ngã lăn ra. “Chắc cô bé nghĩ mấy quý ông này hẳn phải cứng cỏi hơn.”
“Vì rõ ràng ông ta không thể giúp gì được nữa, theo tớ chúng ta nên mượn cái xe cứu thương của ông ta,” Enoch nói. “Không thể biết được con bồ câu đó sẽ dẫn chúng ta tới đâu trong thành phố. Nếu phải đi xa, có thể chúng ta sẽ mất cả đêm đi bộ để tới chỗ cô Wren.”
Horace, đang ngồi trên một mảng tường, đứng bật dậy. “Đó là một ý tưởng rất hay!” cậu ta nói.
“Đó là một ý tưởng đáng trách!” Bronwyn nói. “Các cậu không thể đánh cắp một chiếc xe cứu thương, những người bị thương cần nó!”
“Chúng ta là những người bị thương,” Horace rên rỉ. “Chúng ta cần nó!”
“Khó có thể coi hai chuyện này là một!”
“Thánh Bronwyn!” Enoch mỉa mai. “Chẳng lẽ cậu lo lắng cho sự an nguy của những người bình thường tới mức mạo hiểm tính mạng cô Peregrine để bảo vệ vài người trong số họ sao? Một nghìn người bọn họ không đáng bằng một mình cô ấy! Hay một người trong chúng ta, nếu muốn nói tới chuyện này!”
Bronwyn thảng thốt há hốc miệng. “Lẽ nào có thể nói thế trước mặt…”
Sam hiên ngang bước về phía Enoch, trên khuôn mặt không hề có chút hài hước nào.
“Nhìn đây, cậu kia,” cô bé nói, “nếu cậu dám nói lần nữa tính mạng em gái tôi vô giá trị, tôi sẽ nện cậu nhừ tử.”
“Bình tĩnh nào, tớ không định nói tới em gái cậu. Tớ chỉ có ý là…”
“Tôi biết chính xác ý cậu là gì. Và tôi sẽ nện cậu nhừ tử nếu cậu lại dám nói thế.”
“Tớ xin lỗi nếu tớ đã đụng chạm đến sự nhạy cảm mong manh của cậu,” Enoch nói, cao giọng trong cơn bực bội, “nhưng cậu chưa bao giờ có một Chủ Vòng và chưa bao giờ sống trong một Vòng Thời Gian, và vì vậy cậu không thể hiểu nổi rằng hiện tại – ngay lúc này đây – không phải là thật, nếu nói cho chính xác. Đây là quá khứ. Cuộc sống của tất cả những người bình thường trong thành phố này đều đã được sống qua rồi. Số phận của họ đã được định đoạt từ trước rồi, cho dù chúng ta có đánh cắp bao nhiêu xe cứu thương đi chăng nữa! Vì thế việc này chẳng có chút quan trọng quái nào cả, cậu hiểu chưa.”
Trông có vẻ ít nhiều lúng túng, Sam không nói gì, nhưng tiếp tục nhìn Enoch hằn học.
“Dù vậy đi nữa,” Bronwyn nói, “làm người khác phải chịu khổ sở không cần thiết là không đúng. Chúng ta không được lấy xe cứu thương!”
“Nghe thì đúng đắn và tử tế lắm, nhưng hãy nghĩ tới cô Peregrine nào!” Millard nói. “Cô ấy có lẽ không còn quá một ngày.”
Nhóm chúng tôi có vẻ bị chia thành hai nhóm tương đương, lấy cắp xe cứu thương hay tiếp tục đi bộ, vì thế chúng tôi quyết định biểu quyết. Bản thân tôi phản đối việc lấy xe, nhưng chủ yếu vì các con đường đã chi chít hố bom đến mức tôi không biết làm thế nào chúng tôi có thể lái chiếc xe đi được.
Emma là người đếm số biểu quyết. “Ai ủng hộ lấy xe cứu thương?” cô hỏi.
Vài cánh tay giơ lên.
“Còn phản đối?”
Đột nhiên có một tiếng bụp thật to vang lên từ phía xe cứu thương, tất cả chúng tôi đều quay lại nhìn thì thấy cô Peregrine đứng cạnh xe trong khi một trong các lốp sau xe đang xì hơi. Cô Peregrine đã biểu quyết bằng mỏ của bà, bằng cách dùng nó chọc thủng lốp xe cứu thương. Giờ thì không ai còn có thể sử dụng nó – dù là chúng tôi hay những người bị thương – và cũng chẳng còn lý do để tranh cãi hay trì hoãn thêm nữa.
“À, thế là mọi thứ đơn giãn hẳn,” Millard nói. “Chúng ta đi bộ.”
“Cô Peregrine!” Bronwyn kêu lên. “Làm sao cô có thể?”
Tảng lờ sự bất bình của Bronwyn, cô Peregrine tập tễnh nhảy tới chỗ Melina, nhìn lên con bồ câu trên vai cô, và kêu rít lên. Thông điệp đã rõ ràng: Đi thôi!
Chúng tôi có thể làm gì đây? Thời gian đang bị lãng phí.
“Hãy đi cùng chúng tớ,” Emma nói với Sam. “Nếu vẫn còn chút công lý trên thế giới, chúng ta sẽ được ở một nơi an toàn trước khi trời sáng.”
“Tớ nói với mọi người rồi, tớ sẽ không bỏ em gái tớ lại,” Sam trả lời. “Các cậu sắp tới một nơi con bé không vào được, phải không nào?”
“Tớ… tớ không biết,” Emma lúng túng. “Có thể…”
“Tớ không quan tâm là thế nào,” Sam lạnh lùng nói. “Và sau những gì vừa thấy, tớ không còn muốn gặp lại các cậu nữa.”
Emma lùi lại, trở nên hơi tái đi. Cô hạ giọng khẽ hỏi, “Vì sao?”
“Nếu thậm chí cả những người bị ruồng bỏ và chà đạp như các cậu còn không thể có được chút cảm thông cho người khác,” cô bé nói, “thì chẳng còn chút hy vọng nào cho thế giới này nữa.” Và cô bé quay đi, đưa Esme về phía xe cứu thương.
Emma phản ứng như thể cô vừa bị tát, đôi má cô đỏ bừng. Cô nhạy cảm chạy theo Sam. “Không phải tất cả chúng tớ đều nghĩ như Enoch! Còn về cô Chủ Vòng của chúng tớ, tớ tin chắc cô không có ý làm điều cô đã làm!”
Sam quay ngoắt lại để đối diện với cô. “Đó không phải là vô tình! Tớ lấy làm mừng là em gái tớ không hề giống tất cả các cậu. Có Chúa chứng giám, ước gì tớ cũng không.”
Cô bé lại quay đi, và lần này Emma không đi theo. Với đôi mắt thương tâm, cô nhìn Sam bỏ đi, rồi thõng vai đi theo những người khác. Vậy là cành ô liu hòa giải cô chìa ra đã biến thành một con rắn và cắn cô.
Bronwyn cởi áo len của cô ra và để cái áo xuống đống đổ nát. “Lần sau khi bom bắt đầu rơi xuống, hãy mặc cái này cho em gái cậu,” cô nói với Sam. “Cái áo sẽ giúp cô bé được an toàn hơn cái bồn tắm.”
Sam không nói gì; thậm chí cũng chẳng nhìn. Cô bé đang cúi người xuống người lái xe cứu thương, lúc này đang ngồi dậy và lẩm bẩm, “Tôi đã có giấc mơ lạ lùng nhất…”
“Làm thế thật ngu ngốc,” Enoch nói với Bronwyn. “Giờ cậu chẳng còn áo len nữa.”
“Cậu im mồm lại,” Bronwyn đáp. “nếu từng làm điều gì tốt đẹp cho người khác, có lẽ cậu sẽ hiểu.”
“Tớ từng làm một việc tử tế cho một người khác,” Enoch nói, “và việc đó thiếu chút nữa đã khiến chúng ta bị hồn rỗng ăn thịt!”
Chúng tôi lí nhí nói những lời tạm biệt không được đáp lại rồi lặng lẽ lần vào bóng tối. Melina đỡ lấy con bồ câu trên vai rồi tung lên trời. Nó bay đi một quãng ngắn trước khi sợi dây cô gái buộc vào bàn chân nó bị kéo căng ra và con chim bay liệng lơ lửng, chững lại trong không trung như một con chó đang kéo căng dây dắt. “Cô Wren ở phía này,” Melina nói, hất hàm về hướng con chim đang kéo cô đi. Chúng tôi bèn đi theo cô gái cùng con bồ câu của cô vào ngõ hẻm.
Tôi sắp sửa vào vai trò cảnh giới hồn rỗng, vị trí lúc này của tôi đang ở gần phía đầu nhóm, thì có điều gì đó thôi thúc tôi liếc mắt trở lại phía hai chị em. Tôi quay lại vừa kịp lúc để thấy Sam bế Esme vào trong xe cứu thương, rồi cúi người xuống đặt một nụ hôn lên mỗi bên đầu gối trầy xước của cô bé. Tôi tự hỏi điều gì rồi sẽ xảy đến với họ. Sau này, Millard có nói với tôi thực tế là không ai trong số họ từng nghe nói tới Sam – và một người với năng lực đặc biệt độc nhất vô nhị như thế chắc hẳn phải được biết đến rộng rãi – cũng có nghĩa là nhiều khả năng cô bé đã không sống sót nổi qua chiến tranh.
Toàn bộ biến cố này đã thực sự tác động mạnh tới Emma. Tôi không biết vì sao với cô việc chứng tỏ với một người xa lạ rằng chúng tôi tử tế lại quan trọng đến thế, trong khi chúng tôi biết mình là vậy – song dường như cô bị bận tâm trước những lời nói cho rằng chúng tôi là gì đó thấp kém hơn các thiên thần đang sống trên thế gian, rằng bản thân của chúng tôi có nhiều cung bậc phức tạp hơn. “Họ không hiểu,” cô cứ nhắc đi nhắc lại mãi.
Ấy thế nhưng, tôi thầm nghĩ, có thể họ hiểu đấy.