Số lần đọc/download: 2681 / 180
Cập nhật: 2017-08-30 02:58:13 +0700
Hy Vọng Và Phi Lý Trong Tác Phẩm Của Franz Kafka
T
oàn bộ nghệ thuật của Kafka là ở chỗ buộc độc giả phải đọc lại tác phẩm của mình. Những kết cục trong tác phẩm của ông, hay sự vắng mặt của ông trong những kết cục, gợi cho cho độc giả những lời giải thích, nhưng những lời giải thích này không được viết rõ ràng ra, và người ta phải đọc lại câu truyện từ một góc nhìn khác thì mới thấy là nó có vẻ hợp lý. Tác phẩm thi thoảng điểm những đoạn có thể diễn giải theo hai cách, như vậy độc giả phải đọc tới hai lần. Tác giả chính là muốn như vậy. Nhưng sẽ thật sai lầm nếu cố diễn giải chi tiết mọi điều trong tác phẩm của Kafka. Biểu tượng thì lúc nào cũng chung chung, và dù cho có chuyển tải nó chính xác đến đâu chăng nữa, thì người nghệ sĩ cũng chỉ có thể tái dựng sự vận động của nó: không thể diễn dịch sát theo từng chữ một. Vả lại, không gì khó khăn hơn là hiểu một tác phấm mang tính biểu tượng. Biểu tượng luôn luôn vượt khỏi tầm người tạo nó và trên thực tế, nó khiến tác giả bày tỏ được nhiều điều hơn là những gì tác giả thể hiện một cách có ý thức. Về mặt này, cách chắc chắn nhất đế “cầm cương” nó là đừng kích động nó, cứ bắt đầu viết tác phẩm với thái độ không định kiến và đừng cố tìm những dòng chảy ẩn của nó. Trong trường hợp Kafka, quả là nên tuân theo quy tắc của ông, nghĩa là xem xét một vở kịch qua những gì thấy từ màn diễn và xét tác phẩm tiểu thuyết qua hình thức của nó.
Một độc giả bình thường, thoạt đọc sẽ cảm thấy những tác phẩm của Kafka là những cuộc phiêu lưu đọc phát mệt người, đưa theo nó những rung chấn và các nhân vật cứ nhất định theo đuổi những vấn đề mà họ không bao giờ bày tỏ cho rõ ràng ra được. Nhưng trong tiểu thuyết Vụ án, Joseph K. bị buộc tội. Nhưng ông ta không biết bị buộc tội gì. Chắc chắn ông ta rất muốn bào chữa cho mình, nhưng lại không biết vì sao phải làm như vậy. Các luật sư thấy trường hợp này quả khó nhằn. Mà trong thời gian đó, ông vẫn không hề xao lãng chuyện ăn uống, yêu đương, hay thậm chí là thói quen đọc báo. Rồi ông bị kết án. Nhưng phòng xử án rất tối tăm. Ồng không hiểu cho lắm, Ông chỉ láng máng cho rằng mình đã bị kết án, nhưng về tội gì thì ông không chắc. Đôi lúc mối thắc mắc ấy dấy lên, và ông vẫn tiếp tục sống. Rồi một thời gian sau, hai quý ông lịch sự ăn mặc bảnh bao đến gặp và mời ông theo họ. Một cách rất tao nhã, họ đưa ông ra một khu ngoại ô bần cùng, áp đầu ông lên một tảng đá, và rạch đứt cổ họng ông. Trước khi chết, con người bị kết án đó chỉ nói: "Thật như một con chó.”
Có thể thấy rằng rất khó để diễn đạt một biểu tượng trong câu chuyện mà đặc trưng rõ ràng nhất của nó tình cờ lại chính là vẻ tự nhiên. Nhưng rất khó hiểu thế nào là “có vẻ tự nhiên.” Có nhiều tác phẩm mô tả sự kiện mà người đọc cảm thấy tự nhiên. Nhưng cũng có những tác phẩm (tất nhiên là hiếm hơn), trong đó nhân vật cho rằng những chuyện xảy đến với mình là tự nhiên. Bởi theo một nghịch lý kỳ lạ nhưng hiển nhiên, cuộc phiêu lưu của nhân vật chính càng phi thường thì tính tự nhiên của câu chuyện càng nổi rõ: nó tỉ lệ với sự tách biệt người đọc cảm thấy được giữa cuộc đời lạ kỳ của nhân vật và sự chấp nhận đơn giản của anh ta trước nó. Có lẽ sự tự nhiên trong tác phẩm Kafka thuộc kiểu này. Người đọc biết chính xác Vụ Án nói về nội dung gì. Một hình tượng về số phận con người. Chắc chắn như vậy. Nhưng điều đó chỉ khiến tác phẩm vừa đơn giản vừa phức tạp hơn. Ý tôi là, ý nghĩa của tác phẩm có tính cụ thể riêng tư hơn đối với Kafka. Vì nói cách nào đó, lời thú nhận cất lên từ chính ông, dù hướng đến tôi mà nói. Ông sống và ông bị kết án. Ông đã dần biết được điều này ngay từ những trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết, thứ ông chọn theo đuổi trên thế gian, và cho dù phải cố chống chọi với điều này, thì ông vẫn làm như vậy mà không hề ngạc nhiên. Ông sẽ không bao giờ tỏ ra ngạc nhiên một cách đích đáng trước thái độ không ngạc nhiên đó. Nhờ những mâu thuẫn như vậy mà ta nhận ra được những dấu hiệu đầu tiên của một tác phẩm phi lý. Tâm trí phóng chiếu vào bối cảnh cụ thể bi kịch tinh thần của nó. Và nó chỉ có thể làm như vậy thông qua phương cách của một nghịch lý bất diệt, trao cho các màu sắc quyền thể hiện cái hư không và trao cho những hành vi hàng ngày sức mạnh chuyển tải những tham vọng vĩnh cửu.
Tương tự, tiểu thuyết Lâu đài có lẽ là nghiên cứu thần học thể hiện qua hành động, nhưng trước hết, đó là cuộc phiêu lưu của một linh hồn để tìm kiếm hồng ân dành cho nó, cuộc phiêu lưu của một người tìm hỏi điều bí mật vương giả của những khách thế trên thế giới này và hỏi các phụ nữ dấu hiệu của vị thần ngủ yên trong họ. Rồi Hóa thân rõ ràng miêu tả hình tượng kinh khủng của một nguyên tắc xử thế cực kỳ rõ ràng minh mẫn. Nhưng đó cũng là kết quả của nỗi kinh ngạc khôn xiết mà nhân vật chính cảm thấy khi ý thức được về con quái vật mình đang dễ dàng chuyển hóa thành. Trạng thái mơ hồ cốt lõi đó ẩn chứa một bí mật của Kafka. Những dao động liên tục giữa sự tự nhiên và khác thường, giữa cá nhân và toàn vũ trụ, giữa bi kịch và những chuyện thường ngày, giữa phi lý và hợp logic, tất cả đều được tìm thấy trong suốt tác phẩm này, đem lại cho nó ý nghĩa lẫn sức cộng hưởng. Cần phải kê đếm ra những nghịch lý này, cần tô đậm những mâu thuẫn để thấu hiểu được tác phẩm phi lý.
Một biểu tượng thật ra đứng ở hai bình diện, hai thế giới của các ý kiến và thụ cảm, và một pho những hồi đáp qua lại giữa hai bên. Cái đấy mới là phần khó viết nhất. Nhưng ý thức rõ được về hai thế giới được đặt đối diện lẫn nhau cũng đồng nghĩa với việc nắm được dấu tích về những mối quan hệ bí mật giữa chúng. Trong tác phẩm Kafka, một mặt hai thế giới này nằm trong đời sống hàng ngày, một mặt nằm trong nỗi lo lắng siêu nhiên. Dường như ở đây ta đang được chứng kiến quá trình khai triển dài dòng một nhận định của Nietzsche rằng: “Biến cố lớn lao hãy còn trên đường khai diễn.”
Trong thân phận con người (và đây cũng là điểm tương đồng của mọi loại hình văn chương), có điều phi lý cơ bản cũng như sự cao quý không gì lay chuyến được. Hai điều ấy trùng khớp với nhau, như một điều tự nhiên. Xin nhắc lại, cả hai đều được thể hiện trong sự phân ly ngớ ngẩn chia tách sự vượt quá giới hạn về mặt tinh thần và niềm vui phù du của thể xác. Điều phi lý là ở chỗ linh hồn vượt cao hơn quá mức tấm thân chứa đựng nó. Bất kỳ ai muốn mô tả sự phi lý này đều phải làm nó sống lại trong một loạt những tương phản tương đương nhau. Vì vậy Kafka diễn tả bi kịch qua những gì xảy ra hàng ngày và diễn tả sự phi lý qua những điều hợp logic.
Người diễn viên càng dồn nhiều tâm lực thể hiện vào nhân vật bi kịch thì càng cẩn thận cố tránh cường điệu nó. Nếu anh ta biết chừng mực, hiệu quả lay động của vai diễn sẽ vô chừng mực. Về mặt này, bi kịch Hy Lạp là bài học lớn. Trong đó số phận luôn tự khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn dưới lớp vỏ logic hay sự tự nhiên. Số phận Odiepus đã được định từ trước. Một cách hết sức siêu nhiên, chàng được định là sẽ giết cha và loạn luân với mẹ. Toàn bộ vở kịch là để thể hiện chuỗi logic mà, từ suy diễn này tới suy diễn khác, sẽ đội vòng hoa cho sự bất hạnh của người anh hùng. Nếu vở kịch chỉ đơn thuần phản ánh trước mắt ta số phận khác thường của chàng thì chẳng có gì là rúng động, bởi lẽ đơn giản là số phận đó không có thực. Nhưng nếu sự tất yếu của bi kịch đó được trình bày trong bối cảnh cuộc sống hàng này của cá nhân, xã hội, quốc gia, và những cảm xúc quen thuộc, thì nỗi kinh sợ được tôn cao. Trong sự phản kháng khiến người ta rúng động mà thốt lên: “Chuyện đó thật không thể nào,”, thì trong lòng người nói câu ấy cũng đã manh nha hình thành một chấm niềm tin chắc chắn mà tuyệt vọng rằng “chuyện đó" quả có khả năng xảy ra thật.
Đây là toàn bộ bí mật của bi kịch Hy Lạp, hoặc ít nhất là bí mật của một trong những khía cạnh của thể loại này. Vì hãy còn một khía cạnh khác cũng giúp ta hiểu tác phẩm của Kafka, tuy theo một cách khác hẳn. Trái tim con người có một xu hướng rất phiền là luôn gán nhãn “số phận” cho những gì nghiền nát nó. Nhưng niềm hạnh phúc cũng bị gán là do số phận, dù không vì lý do gì, bởi không thể khác được. Còn con người hiện đại lại cho rằng bất hạnh hay hạnh phúc là ở mình, tất nhiên là khi nhận ra được những con cớ ấy. Ta cũng thấy được nhiều điều từ những số phận được ưu ái trong bi kịch Hy Lạp hay trong truyền thuyết; ví như Odysseus, họ đã được cứu khỏi chính mình khi đang trầm luân giữa cuộc phiêu lưu tồi tệ nhất. Trở về Ithaca quả chẳng dễ dàng gì.
Điều cần nhớ trong mọi trường hợp là sự thông đồng bí mật, kết nối logic và bối cảnh hàng ngày vào bi kịch. Chính vì vậy mà Samsa, nhân vật chính trong Hóa thân, được thiết kế là người bán hàng rong. Cũng chính vì vậy mà điều duy nhất khiến ông phiền lòng khi đột nhiên thấy mình bị biến thành con bọ lại là: ông lo chủ tức giận vì ông không thế đi làm trong lốt sâu bọ. Những cẳng chân và xúc tu mọc ra từ người ông, xương sống uốn cong lại, những chấm trắng hiện ra trên bụng và — tôi không nên nói rằng chuyện như vậy không khiến ông ngạc nhiên bởi sẽ làm hỏng hiệu ứng tác phẩm — nhưng những chuyện ấy chỉ khiến ông “hơi thấy phiền lòng.” Toàn bộ nghệ thuật của Kafka nằm trong nét độc đáo đó. Trong tác phẩm chính của mình, Lâu Đài, những chi tiết trong cuộc sống hàng ngày nổi bật rành rành, nhưng trong tiểu thuyết lạ lùng không có kết luận và mọi chuyện lại bắt đầu lần nữa, thì điều cốt yếu được thể hiện lại là chuyến tìm kiếm ân huệ của một linh hồn. Ta cũng có thể thấy sự truyền đạt vấn đề qua hành động, sự trùng khớp giữa cái phổ quát và cái cụ thể qua những thủ pháp nhỏ mà mọi nhà sáng tạo vĩ đại đều vận dụng. Trong tác phẩm Vụ án, nhân vật chính cũng có thể tên Schmidt hay Franz Kafka. Nhưng ông ta được đặt là Joseph K. Ông không phải Kafka nhưng ông cũng chính là Kafka. Ông là một người Châu Âu bình thường. Ông giống như bất kỳ ai khác. Nhưng ông cũng đồng thời là một thực thể tồn tại tên K., ẩn số x trong phương trình xác thân cụ thể này.
Tương tự, nếu Kafka muốn thể hiện sự phi lý, ông sẽ vận dụng đến sự nhất quán. Ta đã biết câu chuyện về kẻ điên câu cá ngay trong bồn tắm. Một bác sĩ cho rằng ông bị bệnh tâm thần, bèn hỏi “cá có cắn câu không,” kẻ này bèn gắt: “Tất nhiên là không, đồ ngốc, đây là cái bồn tắm mà.” Câu chuyện này có phần khoa trương kiểu phong cách baroque. Nhưng nó nắm bắt khá rõ ảnh hưởng phi lý được nối kết với sự “vượt rào” logic đến mức độ nào. Thế giới của Kafka trên thực tế cũng là một cõi mơ hồ khôn tả, nơi người ta cho phép tự dằn vặt mình một cách xa xỉ là câu cá ngay trong bồn tắm, dù biết rằng sẽ chẳng được gì.
Bởi vậy, tôi nhận ra đây là một tác phẩm phi lý từ các nguyên tắc xây dựng nó. Cũng như trong tác phẩm Vụ Án, tôi phải nói rằng đó là một thành công hoàn toàn. Cái đời thường đã thắng. Tác phẩm ấy không thiếu gì, cả sự phản kháng không được biểu lộ ra (nhưng chính nó là điều đang được viết về), lẫn sự sáng suốt và nỗi tuyệt vọng câm lặng (nhưng chính nó là điều đang được tạo ra), và sự tự do hành xử đáng kinh ngạc mà các nhân vật trong tác phẩm là minh họa cụ thể cho đến tận khi chết.
***
Nhưng thế giới này đâu có khép kín như vẻ ngoài. Kafka định đưa hy vọng vào cõi vũ trụ thiếu vắng sự tiến triển này dưới một hình thức khác lạ. Xét về mặt này, Vụ Án và Lâu Đài không theo cùng một hướng. Chúng bổ sung cho nhau. Tiến triển khó lòng nhận thấy từ tác phẩm này đến tác phẩm kia tượng trưng cho cuộc chinh phục vĩ đại trong sự lảng tránh thoái thác. Vụ Án nêu lên vấn đề, Lâu Đài giải quyết đó, trong một chừng mực nào đó. Tác phẩm đầu mô tả vấn đề theo phương pháp có vẻ khá khoa học và không đưa ra kết luận. Còn tác phẩm hai lý giải nó, trong chừng mực nhất định. Vụ Án chẩn bệnh, Lâu Đài hình dung cách chữa trị. Nhưng phương thuốc đưa ra không chữa lành. Nó chỉ mang chứng bệnh quay về cuộc sống bình thường. Nó giúp người ta chấp nhận nó. Theo một nghĩa nào đó (làm ta liên tưởng đến Kierkegaard), nó khiến người ta đâm ra mến chuộng nó. Viên đạc điền K. không thể màng đến mối bận tâm nào khác ngoài điều đang khiến ông lo nghĩ. Những con người rất người quanh ông dần quen với sự trống rỗng và nỗi đau không lời đó, như thể trong hoàn cảnh này, chịu đựng là một kiểu đặc quyền. Frieda nói với K: “Em cần anh biết bao. Em thấy trống vắng biết nhường nào từ khi biết anh mà anh không ở cạnh em.” Cái phương thuốc tinh vi khiến ta yêu mến chính điều dằn vặt mình và làm cho hy vọng bung vọt trong thế gian không có vấn đề gì để mà tranh cãi, “cú nhảy” đột ngột qua đó mọi thứ đổi thay, là bí mật của cuộc cách mạng hiện sinh và của tác phẩm Lâu Đài.
Rất hiếm tác phẩm có kết cấu phát triển khắt khe hơn Lâu Đài. K. là tên của viên đạc điền của Lâu Đài, ông đến làng để làm việc. Nhưng ngôi làng ấy và Lâu Đài không có phương tiện nào để liên lạc (nên không xác nhận được thân phận của ông). Trong suốt mấy trăm trang dài K. vẫn kiên định tìm cách, cố gắng đạt mọi bước tiến có thể, vận dụng mọi mưu mẹo và mánh khóe, không bao giờ nổi cáu, và luôn giữ thiện chí không lay chuyển là cố hoàn thành nhiệm vụ mình được giao phó. Cứ mỗi chương ông lại gặp chuyện buồn bực mới. Và mỗi chương cũng là sự khởi đầu mới. Phương pháp đó không logic, nhưng nhất quán. Chính mức độ khăng khăng đó của nhân vật đã cấu thành tính bi kịch của tác phẩm. Khi K. gọi điện cho Lâu Đài, ông chỉ nghe những giọng người líu nhíu lẫn vào nhau, những tiếng cười và những câu mời chào văng vẳng. Như thế là đã đủ để ông nuôi hy vọng, cũng như đôi ba dấu hiệu xuất hiện trên bầu trời hè hoặc những đêm Vọng là đã đủ lý do để ta trông vào mà sống. Ở đây ta thấy được bí mật của sự lập dị u sầu đối với Kafka. Thật ra ta cũng thấy được điều tương tự trong tác phẩm của Proust hay bối cảnh của Plotinus nỗi hoài vọng về thiên đường đã mất. “Tôi trở nên thật buồn”, Olga nói, “Khi sáng ngày ra Barnabas nói với tôi rằng ông sẽ đến Lâu đài: chuyến đi có thể là vô ích, ngày hôm đó có thể bị lãng phí, hy vọng đó có thể chẳng được gì.”
“Có thể” – Từ này ngụ ý Kafka đem toàn bộ tác phẩm của mình ra đặt cược. Nhưng không được gì, ở đây cuộc kiếm tìm sự bất diệt quá tỉ mỉ chi tiết. Và những nhân vật tự động được truyền cảm hứng đó của Kafka cho ta hình dung chính xác mình sẽ như thế nào nếu bị tước đi mọi trò khiến tâm trí xao nhãng, và gửi gắm bản thân vào những thể thức hạ mình trước đấng thiêng liêng.
Trong Lâu đài, sự hàng phục trước những sự việc hàng ngày đó trở thành một nếp đạo đức. Hy vọng to lớn mà K. ôm ấp là Lâu Đài chấp nhận ông. Vì không thể tự mình đạt được điều ấy, hòng xứng với đặc ân ấy, ông dốc hết tâm sức để trở thành một cư dân trong làng, để xóa đi cái cảm giác "người ngoài” mà ông cảm thấy khi tiếp xúc với người làng. Ông muốn một cái nghề, một ngôi nhà, một cuộc sống của người đàn ông bình thường khỏe mạnh. Ông hết chịu nổi sự điên cuồng của mình. Ông muốn trở nên hợp lý. Ông muốn rũ bỏ lời nguyền chỉ giáng lên mình, ông biến ông thành kẻ lạ giữa ngôi làng. Xét trong mục đích này, nhân vật Frieda có vai trò quan trọng. Ông định cưới người phụ nữ này là do trước đây cô có biết một vị chức việc trong Lâu Đài. Ông có được từ cô thứ gì đó vượt quá con người mình trong khi vẫn ý thức được điều gì đã khiến cô mãi mãi không còn được Lâu Đài cần đến nữa. Tới đây ta liên tưởng đến tình yêu kỳ lạ của Kierkegaard dành cho Regina Olsen. Đối với một số người, ngọn lửa bất diệt thiêu đốt họ cháy mạnh đến nỗi có thể đốt thành tro cả trái tim của người thân cận họ nhất. Sai lầm chết người chính là ở chỗ trao cho Chúa thứ không dành cho Chúa, đó cũng là chủ đề trong phần này của Lâu Đài. Nhưng đối với Kafka, xem ra đó không phải là sai lầm. Đó là một nguyên tắc, một “cú nhảy”. Không có gì là không thuộc về Chúa.
Một sự kiện còn ý nghĩa hơn là viên đạc điền bỏ Frieda để đến với chị em nhà Barnabas. Vì gia đình Barnabas là gia đình duy nhất trong làng bị cả Lâu Đài lẫn dân làng ngoảnh mặt. Cô chị Amalia đã từ chối những lời gạ gẫm đáng hổ thẹn của một tay chức việc trong Lâu Đài. Lời nguyền phóng đãng do chuyện đó đã vĩnh viễn gạt cô khỏi tình yêu của Chúa. Không thể đánh mất danh dự của mình vì Chúa cũng có nghĩa rằng không còn xứng đáng với hồng ân của ngài. Có thể thấy ở đây chủ đề quen thuộc với triết học hiện sinh: sự thật trái ngược với đạo đức. Tới đoạn này mọi yếu tố đã diễn tiến khá xa. Bởi con đường mà nhân vật chính của Kafka lựa chọn, là rời bỏ Frieda và chọn chị em Barnabas, là con đường thực sự dẫn từ tình yêu đầy tin cậy đến sự tôn sùng phi lý. Ớ đây tư duy của Kafka song hành với Kierkegaard. Không có gì đáng ngạc nhiên khi “câu chuyện nhà Barnabas” được đặt tận cuối cuốn tiểu thuyết. Nỗ lực cuối cùng của viên đạc điền là đoạt lại Chúa thông qua hành động phủ định ngài, để nhận ra ngài, không phải theo những chuẩn mực về sự tử tế và cái đẹp của người đời, mà ngay đằng sau những trống rỗng và ghê tởm của sự dửng dưng, sự bất công lẫn lòng căm ghét của ông ta. Con người xa lạ xin Lâu Đài thâu nhận ông ta, đến đoạn cuối sách trở thành không hơn gì một kẻ bị lưu đày, bởi đến thời điểm đó ông đã không còn trung thành với chính mình, với thứ đạo đức bị ruồng bỏ, logic, và những chân lý lý trí, để cố dân thân vào sa mạc của những ân huệ thiêng liêng, với thứ duy nhất được cấp cho là niềm hy vọng điên rồ của ông ta.
***
Từ “hy vọng” được sử dụng ở đây không có gì đáng cười. Ngược lại, những thân phận dưới ngòi bút Kafka càng bi thảm thì hy vọng càng chắc chắn và mạnh mẽ. Sự phi lý trong Phiên tòa càng chân thật thì “bước nhảy” ngập cảm xúc trong Lâu đài càng cảm động và xa logic. Một lần nữa, ta lại thấy nghịch lý của tư duy hiện sinh được biểu hiện ra rất tinh thuần. Ví dụ, Kierkegaard nói rằng: “Mọi hy vọng trần tục phải bị bóp chết; chỉ khi đó con người mới được cứu rỗi bởi hy vọng đích thực,”, câu này có thế diễn dịch thành: “Nhà văn phải viết xong Vụ Án thì mới cáng đáng nổi Lâu Đài. ”
***
Hầu hết những người từng bàn về Kafka đều định nghĩa tác phẩm của ông như tiếng thét tuyệt vọng của con người không còn nơi dựa cậy. Nhưng ý này cần xét lại. Trong tác phẩm của ông có hy vọng và hy vọng. Đối với tôi, tác phẩm lạc quan của Henry Bordeaux mới đặc biệt gây ngã lòng. Vì nó chẳng có gì để giúp người ta phân biệt cả. Còn tư duy của Malraux lúc nào cũng làm người ta mạnh mẽ lên. Nhưng niềm hy vọng và nỗi tuyệt vọng trong tác phẩm cả hai vị này không giống như trong tác phẩm Kafka. Tôi chỉ thấy rằng bản thân tác phẩm phi lý có thế dẫn đến sự phản bội (với tín niệm của mình) mà tôi muốn tránh. Tác phẩm từng là sự phỏng lặp không hoàn hảo của một thân phận vô ích và vinh quang sáng suốt của sự phù du, giờ trở thành một mớ ảo tưởng. Nó lý giải, nó dựng dáng hình cho hy vọng. Người sáng tạo không còn tách rời bản thân mình khỏi hy vọng. Nó không còn là trò chơi bi kịch như từng là. Nó cho cuộc đời nhà văn một ý nghĩa.
Thật kỳ lạ là các tác phẩm bắt nguồn từ những cảm hứng gần gũi nhau, như tác phẩm của Kafka, Kierkegaard hay Chestov — nghĩa là các tiểu thuyết gia và triết gia hiện sinh hoàn toàn hướng về Sự Phi Lý và các hậu quả của nó – xét về lâu về dài lại đưa tới thét vang của niềm hy vọng.
Họ ôm lấy vị Chúa khiến họ héo hon. Hy vọng chỉ đến qua sự hạ mình. Bởi sự phi lý của tồn tại này đảm bảo họ có thêm chút thực tại siêu nhiên. Nếu con đường đời quả dẫn đến nơi Thiên Chúa, thì nói cho cùng, nó cũng có một kết quả. Và sự khăng khăng, nhất quán mà các nhân vật của Kierkegaard, Chestov và Kafka lặp đi lặp lại trong chuyến hành trình của mình là sự đảm bảo đặc biệt cho thấy có một sức mạnh nâng đỡ cho nó.
Kafka khước từ sự đạo đức cao quý, những bằng chứng, đức hạnh, tính chặt chẽ của đức chúa trong ông, nhưng chỉ để ngả vào vòng tay người sâu thêm. Sự phi lý được nhận ra, được thừa nhận, và rồi con người cam chịu nó, nhưng chính từ lúc ấy ta biết rằng đó không còn là sự phi lý nữa. Giữa những giới hạn của thân phận con người, còn có hy vọng nào lớn lao hơn hy vọng được thoát khỏi cái thân phận đó? Khi tôi nhìn lại lần nữa, tư tưởng hiện sinh xét về mặt này (trái với ý kiến đương thời) thấm đẫm niềm hy vọng vô cùng. Chính niềm hy vọng trong buổi bình minh Thiên Chúa khi tin mừng lan truyền làm sáng bừng thế gian thuở xa xưa. Nhưng trong bước nhảy tiêu biểu cho mọi tư duy phi lý, trong sự khẳng định đó, trong sự xem xét một đấng thiêng liêng vô diện đó, làm sao có thể không nhận ra dấu ấn của một tia sáng suốt đã bác bỏ chính nó? Quá trình này chỉ được diễn tả rằng đây là niềm kiêu hãnh từ bỏ chính nó để tự cứu nó. Sự bác bỏ như vậy có thể thành công. Nhưng ở đây thì không. Giá trị đạo đức của sự sáng suốt không hề giảm sút trong mắt tôi ngay cả khi nó tự cho rằng mình vô ích như mọi niềm kiêu hãnh khác. Bởi sự thật, theo định nghĩa tột cùng của nó, thì cũng vô ích mà thôi. Mọi lập luận đều như thế. Trong thế giới mà mọi điều cứ thế được đưa ra mà không gì được lý giải, thì sự phong phú của một giá trị hay một siêu hình chỉ là một khái niệm thiếu vắng ý nghĩa.
Trong trường hợp nào đi nữa, ta cũng thấy được nếp tư duy trong các tác phẩm của Kafka. Rõ ràng tiến trình dẫn từ Vụ Án đến Lâu đài là không thể tránh khỏi. Joseph K. và viên đạc điền K. đơn giản là hai thái cực hút lấy Kafka. Nói như kiểu của tác giả, thì tác phẩm của ông có lẽ không phi lý. Nhưng điều ấy không ngăn ta nhận ra sự cao quý và tính phổ quát của chúng. Vì rõ ràng ông đã thể hiện ra được vô cùng đầy đủ chuyến đi hàng ngày từ hy vọng đến đau khổ, và từ sự thông tuệ tuyệt vọng đến sự mù quáng có chủ tâm. Tác phẩm của ông có tính phổ quát (một tác phẩm phi lý thực sự thì không phổ quát), ở chừng mức là nó thể hiện gương mặt đầy biểu cảm đến rúng động của con người chạy trốn nhân gian; con người rút ra từ những mâu thuẫn của anh ta những lý do để tin tưởng, những lý do để hy vọng từ vô số nỗi thất vọng, và coi cuộc đời là đợt thực tập khủng khiếp cho cái chết. Tác phẩm có tính phổ quát bởi nguồn cảm hứng có màu sắc tôn giáo. Trong mọi tôn giáo, con người được giải thoát khỏi gánh đời. Nhưng cho dù tôi biết thế, thậm chí tôi ca tụng tác phẩm, thì tôi vẫn biết rằng mình không tìm kiếm điều phổ quát, mà tìm kiếm sự thật. Hai điều ấy không phải là một.
Quan điểm trên hẳn sẽ dễ hiểu hơn nếu tôi nói rằng tư tưởng vô hy vọng thật tình cờ lại được định nghĩa nhờ nhưng tiêu chuẩn đối lập với nó, và tác phẩm bi kịch có thể là tác phẩm mô tả cuộc đời của con người hạnh phúc, sau khi mọi hy vọng vào tương lai đều bị lưu đày. Cuộc đời càng nồng nhiệt, thì ý nghĩ đánh mất nó lại càng phi lý. Có lẽ đây chính là bí mật của vẻ khô cằn kiêu hãnh ta cảm thấy được trong tác phẩm của Nietzsche. Dường như Nietzsche là nghệ sĩ duy nhất rút trích được những hậu quả cực đoan của mỹ học về Sự phi lý từ thông điệp cuối cùng của ông gửi gắm trong sự sáng suốt đã nắm quyền chế ngự và vô ích lẫn sự phủ định khăng khăng trước mọi sự xoa dịu từ mọi thế lực siêu nhiên.
Những phần nêu trên cũng đã đủ nêu bật những ý nghĩa quan trọng cốt lõi trong tác phẩm Kafka, xét trong khuôn khổ bài luận này. Tác phẩm đặt ra vấn đề về những giới hạn của tư duy con người. Phải nói rằng mọi điều trong tác phẩm đó đều thiết yếu, xét theo nghĩa toàn diện nhất của từ này. Trong mọi cảnh ngộ đặt ra, tác phẩm đều gợi lên vấn đề phi lý. Nếu có quý vị nào định so sánh những kết luận ở đây với những nhận định ban đầu của tôi; giữa nội dung và hình thức; giữa ý nghĩa bí mật của Lâu Đài với nghệ thuật rất tự nhiên đã khuôn đúc nên tác phẩm ấy; giữa sự nồng nhiệt và cuộc kiếm tìm đầy kiêu hãnh của K. với bối cảnh đời thường mỗi ngày, thì hẳn có thể nhận ra được đâu là yếu tố vĩ đại nhất trong tác phẩm này. Vì nếu nỗi hoài vọng là dấu vết đóng hằn lên nhân loại, thì có lẽ chưa từng có ai diễn tả được những bóng ma nuối tiếc đó một cách cụ thể và đồ sộ như vậy. Nhưng đồng thời có lẽ ta cũng nhận ra rằng sự cao quý đặc biệt chỉ có ở tác phẩm phi lý vắng mặt ở đây. Nếu bản chất của nghệ thuật là gắn kết cái chung với cái cá biệt, giữa sự bất diệt phù du của một giọt nước với diễn xuất của những ánh sáng muôn màu chiếu vào nó, thì càng phải lẽ khi đánh giá sự vĩ đại của một nhà văn phi lý qua khoảng cách ông chỉ ra được giữa hai thế giới đó. Bí mật của người viết đó nằm ở khả năng tìm đúng giao điểm hai thế giới ấy gặp nhau, khi sự bất cân xứng của chúng đạt đỉnh điểm.
Và phải nói thật rằng, nếu có một trái tim thuần khiết, ta có thể thấy cái quỹ tích hình học của nhân loại và phi nhân ở khắp mọi nơi. Faust và Don Quixote là những sáng tạo kiệt xuất của nghệ thuật, bởi hai nhân vật ấy chỉ cho chúng ta thấy những nét thanh cao vô lượng bằng chính bàn tay trần thế của họ. Nhưng luôn sẽ đến cái khoảnh khắc khi mà tâm trí phủ định những chân lý mà những bàn tay ấy chạm được đến. Khoảnh khắc ấy là khi nhân vật không còn đuợc tiếp cận theo hướng bi kịch, mà được xử lý nghiêm túc. Khi đó con người bắt đầu đặt nặng hy vọng. Nhưng đó đâu phải việc của anh ta. Việc của anh ta là phải tránh xa những thủ đoạn lảng tránh vấn đề. Nhưng tôi lại thấy đúng thủ đoạn này trong kết luận của những vụ kiện của Kafka chống lại toàn thể thế gian. Lời tuyên án không sao tin nổi của ông chính là: trong thế giới ghê tởm và khổ não này, cả đến nốt ruồi cũng cả gan hy vọng.