Nguyên tác: The Gun Seller
Số lần đọc/download: 1495 / 11
Cập nhật: 2017-05-20 08:59:59 +0700
Mười Ba
D
àn ông ngoài bốn mươi đều là bọn vô lại.
GEORGE BERNARD SHAW
Tôi được dẫn vào một căn phòng. Một căn phòng màu đỏ. Giấy dán tường đỏ, rèm cửa đỏ, thảm đỏ. Họ nói đấy là phòng ngồi chơi, nhưng tôi không hiểu sao họ lại quyết định giới hạn mục đích cho nó chỉ là để ngồi. Hiển nhiên, ngồi là một trong những việc anh có thể làm trong căn phòng cỡ này; nhưng anh còn có thể làm sân khấu nhạc kịch, tổ chức đua xe đạp và chơi một ván ném đĩa nhựa ra trò, tất cả các trò đó cùng một lúc, mà không phải di chuyển bất cứ thứ đồ nào.
Trời có thể mưa trong căn phòng rộng thế này.
Tôi dừng ở cửa một lúc, ngắm những bức họa, những cái đế gạt tàn thuốc, những thứ kiểu như thế, rồi thấy chán, tôi liền đi về phía chiếc lò sưởi ở đầu đằng kia. Đi được nửa chừng, tôi phải dừng lại ngồi xuống, bởi vì tôi không còn trẻ như ngày xưa nữa, và khi tôi làm thế một cánh cửa đôi nữa mở ra, có tiếng thì thầm giữa một Carl và một người dáng quản gia mặc quần kẻ sọc màu xám, áo khoác đen.
Cả hai thi thoảng liếc về phía tôi, rồi Carl gật đầu và rời khỏi phòng.
Gã quản gia bắt đầu quay về phía tôi, một cách khá là suồng sã, tôi nghĩ thế, rồi gọi to ở khoảng cách hai trăm mét: “Ông muốn uống gì đó không, ông Lang?”
Tôi không cần nghĩ lâu lắm. “Cho tôi Scotch,” tôi hét lại.
Cho mà biết nhé.
Ở khoảng một trăm mét, ông ta dừng lại ở một cái bàn và mở chiếc hộp bạc nhỏ, rút ra một điếu thuốc mà không thèm nhìn xem bên trong còn điếu nào không. Ông ta châm lửa, và tiếp tục đi tới.
Khi ông ta tới gần hơn, tôi thấy ông ta khoảng chừng năm mươi, trông điển trai theo kiểu người hay ở trong nhà, và khuôn mặt có một thứ ánh sáng kỳ lạ. Ánh sáng phản chiếu từ những bóng đèn tường và đèn chùm nhảy múa trên trán ông ta, bởi thế ông ta gần như sáng lấp lánh khi di chuyển. Dù sao tôi biết đó không phải là mồ hôi, hay dầu, đó chỉ là ánh sáng.
Khi gần lại thêm mười mét nữa, ông ta mỉm cười với tôi, rồi chìa một tay ra, và cứ giữ nguyên như thế khi bước tới để rồi, trước khi kịp nhận ra, tôi đã đứng yên và sẵn sàng đón nhận ông ta như một người bạn cũ.
Cái nắm tay của ông ta ấm và khô ráo. Ông ta nắm lấy khuỷu tay tôi dẫn lại ghế Sofa, ngồi xuống sát tôi tới mức đầu gối chúng tôi gần chạm vào nhau. Nếu ông ta luôn ngồi gần khách khứa như thế này thì tôi phải nói rằng tiền ông ta đầu tư cho căn phòng thật là uổng.
“Giết người,” ông ta nói.
Lặng yên một lúc. Tôi chắc rằng anh hiểu tại sao.
“Xin lỗi ông nói gì?” Tôi hỏi.
“Naimh Murdah,” ông ta nói, rồi nhìn một cách kiên nhẫn trong khi tôi sắp xếp lại cách đánh vần của nó trong đầu. “Một vinh hạnh lớn. Vinh hạnh lớn.”
Tiếng nói của ông ta nhẹ nhàng, giọng điệu nghe có giáo dục. Tôi có cảm giác rằng ông ta cũng nói tốt cả tá ngôn ngữ khác. Ông ta gẩy tàn thuốc một cách lơ đãng về phía cái gạt tàn, rồi nghiêng người về phía tôi.
“Russell đã nói với tôi rất nhiều về ông. Và tôi phải nói rằng, tôi rất mừng cho ông.”
Ngồi gần thế này, tôi nhận ra hai điều về ông Murdah: ông ta không phải là quản gia; và cái ánh sáng trên mặt ông ta chính là tiền.
Không phải nó được tạo nên bởi tiền, hoặc được mua bằng tiền. Đơn giản nó là tiền. Tiền mà ông ta đã ăn, đã mặc, đã lái, đã thở, với khối lượng như thế và trong một khoảng thời gian dài như vậy đã bắt đầu tiết ra từ các lỗ chân lông trên da ông ta. Anh có thể nghĩ rằng không thể, nhưng thực sự là tiền đã làm ông ta đẹp đẽ.
Ông ta đang cười.
“Thực sự là rất mừng, đúng vậy. Ông biết không, Russell là một người tốt bụng. Thực sự rất tốt bụng. Nhưng đôi khi tôi nghĩ điều đó làm ông ta dễ bị nản chí. Có thể nói là ông ta có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Và ông, ông Lang, tôi có cảm giác ông bổ sung tốt cho một người như thế.”
Đôi mắt sẫm màu. Cực kỳ sẫm màu. Với những đường viền sậm ở mí mắt, hẳn phải do trang điểm, nhưng không phải thế.
“Ông, tôi nghĩ,” Murdah nói, vẫn tươi cười rạng rỡ, “ông làm nản lòng nhiều người. Tôi nghĩ có lẽ đó là lý do tại sao Thượng đế đưa ông đến với chúng tôi, ông Lang. Phải thế không?”
Tôi bèn phá lên cười. Chả biết bởi cái chết tiệt gì, vì ông ta chưa nói gì buồn cười cả. Nhưng tôi đã thế đấy, cười như một thằng say ngớ ngẩn.
Một cánh cửa mở ra đâu đó, rồi đột nhiên một khay đựng whisky đã ở giữa chúng tôi, một người hầu gái mặc đồ đen mang nó ra. Chúng tôi mỗi người lấy một cốc, và người hầu gái đợi trong khi Murdah rót ngập soda còn tôi chỉ cho một chút thôi. Cô ta bước ra mà chẳng mỉm cười hay gật đầu. Chẳng hề thốt ra bất cứ âm thanh nào.
Làm một ngụm lớn Scotch, tôi thấy chếnh choáng gần như ngay trước khi nuốt hết.
“Ông là lái buôn vũ khí,” tôi nói.
Không biết chắc mình chờ đợi phản ứng như thế nào, nhưng tôi đã chờ một điều gì đó. Tôi nghĩ ông ta sẽ ngần ngại, hoặc đỏ mặt, hoặc nổi giận, hoặc cho người bắn chết tôi, bất cứ điều gì trong số những điều kể trên, nhưng chẳng có gì cả. Thậm chí cũng chẳng có một chút ngập ngừng. Ông ta cứ tiếp tục như thể đã biết trước những điều tôi sắp nói cả vài năm rồi.
“Đúng thế đấy, ông Lang ạ. Đó là tội lỗi của tôi.”
Chà, tôi nghĩ. Thế mới đáng yêu làm sao. Tôi là đầu nậu vũ khí và đó là tội lỗi của tôi. Nó giàu có, như chính ông ta vậy.
Ông ta cụp mắt xuống với một vẻ khiêm nhường.
“Đúng thế, tôi mua bán vũ khí,” ông ta nói. “Phải nói rằng khá thành công, tôi nghĩ vậy. Tất nhiên, ông cũng như nhiều đồng bào của ông, không đồng tình với tôi, và đó là một trong những hình phạt đối với nghề nghiệp của tôi. Điều mà tôi phải chịu đựng, nếu tôi có thể.”
Tôi tưởng ông ta đang lấy tôi ra làm trò cười, nhưng có vẻ không phải thế. Có vẻ như sự không đồng tình của tôi làm ông ta cảm thấy buồn phiền.
“Tôi đã xem xét lại cuộc đời và cách ứng xử của mình, với sự giúp đỡ của rất nhiều người bạn là những người có tín ngưỡng. Và tôi tin tôi có thể trả lời với Thượng đế. Trên thực tế - nếu tôi có thể đoán trước được những câu hỏi của ông - tôi tin rằng tôi chỉ có thể trả lời với Thượng đế. Nên ông có phiền không nếu chúng ta dời gót một chút?” Ông ta lại cười. Ấm áp, hối lỗi một cách duyên dáng. Ông ta ứng phó với tôi như thể vẫn thường xuyên phải ứng phó với những người như tôi - như thể ông ta là một tài tử điện ảnh lịch lãm, và tôi hỏi xin chữ ký của ông ta vào một thời điểm trái khoáy vậy.
“Đồ đạc đẹp lắm,” tôi nói.
Chúng tôi đang du hành một chuyến vòng quanh căn phòng. Duỗi chân cẳng, hít thở, tiêu hóa một phần bữa ăn đồ sộ mà phần nhiều còn chưa động dao nĩa tới. Để hoàn thiện bức tranh, đúng ra chúng tôi cần một cặp chó đi lòng vòng quanh chân và một cánh cổng để dựa vào. Chúng tôi không có những thứ đó, bởi vậy tôi thử thay thế chúng bằng đồ đạc.
“Đó là hàng Boulle,” Murdah nói, chỉ vào cái tủ gỗ lớn dưới khuỷu tay tôi. Tôi gật đầu, cùng cái kiểu gật đầu khi người ta nói cho tôi nghe tên của những loài thực vật, và lịch sự nghiêng đầu về phía những khảm đồng rối rắm trên đó.
“Họ lấy một tấm gỗ mặt và một tấm đồng, dính chúng vào nhau, rồi khắc những hoa văn ngay trên đó. Cái đó,” ông ta chỉ về một cái tủ có vẻ cùng bộ, “là một contre Boulle. Ông thấy không? Hoàn toàn tương phản. Không có gì thừa thãi cả.”
Tôi gật đầu ra chiều ngẫm ngợi, và ngó đi ngó lại hai món đó, cố tưởng tượng xem mình cần có bao nhiêu cái xe máy trước khi quyết định dùng tiền vào những món như thế này.
Murdah dường như đã đi lại đủ, bèn quay lại ghế sofa. Cách ông ta di chuyển như nói lên rằng chiếc hộp khôi hài đã gần như trống không.
“Hai hình ảnh đối lập của cùng một vật, ông Lang ạ,” ông ta nói, lấy thêm một điếu thuốc nữa. “Ông có thể nói, nếu ông muốn, rằng những cái tủ đó giống y những vấn đề nhỏ của chúng ta.”
“Vâng, tôi có thể.” Tôi chờ đợi, nhưng ông ta chưa sẵn sàng diễn giải. “Tất nhiên, tôi muốn biết sơ qua ông đang nói về điều gì trước.”
Ông ta quay lại phía tôi. Ánh sáng trên mặt vẫn còn đó, và cái vẻ điển trai của người quen ở trong nhà cũng vậy. Nhưng sự gần gũi thân mật giờ đã lụi mất, có thổi phù phù vào lò cũng không làm ai ấm cả.
“Tôi đang nói về, ông Lang ạ, về Nghiên cứu Sau Đại học, hiển nhiên rồi.” Ông ta có vẻ ngạc nhiên.
“Tất nhiên,” tôi nói.
“Tôi có liên quan với một nhóm người nhất định,” Murdah nói.
Ông ta đang đứng trước mặt tôi, hai cánh tay dang rộng theo cử chỉ chào-mừng-đến-với-viễn-cảnh-của-tôi mà các chính trị gia ngày nay thường dùng, trong khi tôi uể oải ngồi trên sofa. Mặt khác, đã có chút gì đó thay đổi, nếu không thì hẳn phải có ai đó đang rán cá ở đâu đây. Thứ mùi đó không thuộc về căn phòng này.
“Những người này,” ông ta tiếp tục, “trong nhiều trường hợp, là bạn bè của tôi. Những người tôi đã có mối quan hệ công việc trong nhiều, nhiều năm. Họ là những người tin tưởng tôi, họ dựa vào tôi. Ông có hiểu không?”
Tất nhiên, ông ta không hỏi tôi có hiểu mối quan hệ cụ thể đó hay không. Ông ta chỉ muốn biết những từ kiểu như Tin tưởng, Đáng tin còn có ý nghĩa ở nơi tôi sống không thôi. Tôi gật đầu để nói rằng có, tôi có thể đánh vần những từ đó lúc khẩn cấp.
“Như một cử chỉ bạn hữu đối với những người đó, tôi tự nhận về mình một số nguy hiểm. Điều này là khá hãn hữu với tôi.” Điều đó, tôi nghĩ, là một trò đùa, bởi vậy tôi mỉm cười, thấy vậy ông ta có vẻ hài lòng. “Với tư cách cá nhân, tôi đã đứng ra bảo lãnh cho một thương vụ với một số lượng hàng hóa.” Ông ta ngừng nói mà nhìn tôi, muốn thấy phản ứng nào đó. “Tôi nghĩ có lẽ ông đã quen thuộc với bản chất của loại hàng hóa đó?”
“Trực thăng,” tôi nói. Có vẻ tới đoạn này rồi thì giả ngô nghê không có ích lợi gì.
“Trực thăng, chính xác,” Murdah nói. “Phải nói với ông rằng bản thân tôi không thích thứ đó, nhưng tôi nghe người ta nói rằng nó có vài chức năng cực hay.” Ông ta bắt đầu hơi thiếu nghiêm chỉnh với tôi, tôi nghĩ thế - và làm ra vẻ thật tâm chán ghét những thứ máy móc dầu mỡ thô lậu đã đem lại cho ông ta căn nhà này, và theo như tôi hiểu, còn hàng tá thứ khác như thế này nữa - bởi thế tôi quyết định thử nói toạc mọi thứ ra, với tư cách một con người bình thường.
“Chắc chắn rồi,” tôi nói. “Loại mà ông đang bán có thể phá hủy một ngôi làng bình thường trong vòng chưa đến một phút, cùng với tất cả cư dân ở đấy, rõ là thế.”
Ông ta nhắm mắt lại trong một giây, như thể mỗi suy nghĩ về điều đó làm ông ta đau đớn, mà có lẽ thế thật. Nếu thế thì nó cũng không lâu cho lắm.
“Như tôi đã nói, ông Lang, tôi không nghĩ tôi phải phán xét bản thân mình trước ông. Tôi không quan tâm tới việc món hàng được ứng dụng vào việc gì. Mối quan tâm của tôi, vì các bạn bè của tôi, và cũng vì tôi nữa, là món hàng tới được tay khách hàng.” Ông ta chắp hai tay vào nhau và chờ đợi. Như thể mọi thứ bây giờ là vấn đề của tôi.
“Thế thì quảng cáo đi,” tôi nói, sau một lúc. “Mặt sau của tờ Đồ dùng của Phụ nữ ấy.”
“Hừm,” ông ta nói. Như thể tôi là một thằng ngớ ngẩn. “Ông không phải là một thương gia, ông Lang ạ.”
Tôi nhún vai.
“Còn tôi là thương gia, ông biết đấy,” ông ta tiếp tục. “Nên tôi nghĩ ông phải tin tôi để biết về thị trường của chính tôi.” Một ý nghĩ dường như vừa lóe lên trong ông ta. “Dù sao, tôi cũng chẳng nên mạo muội khuyên ông cách tốt nhất để...” Và rồi ông ta nhận ra rằng ông ta tắc tị, bởi vì chẳng có gì trong hồ sơ của tôi chỉ ra rằng tôi biết cách tốt nhất để làm bất cứ chuyện gì.
“Để lái xe máy chăng?” Tôi đỡ lời, với vẻ bợ đỡ. Ông ta mỉm cười.
“Như ông nói.” Ông ta lại ngồi xuống ghế. Lần này xa hơn. “Sản phẩm mà tôi đang buôn bán đòi hỏi cách tiếp cận phức tạp hơn, tôi nghĩ thế, so với trên những trang tạp chí Đồ dùng của Phụ nữ. Nếu ông sản xuất bẫy chuột, thì như ông nói, ông quảng cáo nó như một loại bẫy chuột mới. Mặt khác,” ông ta đưa tay kia ra, để cho tôi xem cái tay kia trông thế nào, “nếu ông đang cố bán bẫy rắn, thì điều đầu tiên ông phải làm là giải thích tại sao rắn lại là thứ xấu xa. Tại sao chúng phải bị đánh bẫy. Ôngvẫn nghe tôi đấy chứ? Rồi, lâu, rất lâu sau đó, ông tới mang theo sản phẩm của mình. Ông thấy thế có lý chứ?” Ông ta mỉm cười nhẫn nại.
“Vì thế,” tôi nói, “ông sắp tài trợ cho một hoạt động khủng bố, và để cho cái đồ chơi nhỏ của ông làm công việc của nó trên bản tin chín giờ. Tôi biết tất cả những chuyện này. Rusty biết rằng tôi biết những chuyện này.” Tôi liếc đồng hồ đeo tay, cố làm như thể sắp có cuộc hẹn với một tay buôn vũ khí khác trong vòng mười phút nữa. Nhưng Murdah không phải loại người để người ta có thể giục nhanh lên hay chậm lại.
“Điều đó, về cơ bản, chính xác là những gì tôi định làm,”ông ta nói.
“Và chính xác, vị trí của tôi trong chuyện này là ở chỗ nào? Ý tôi là, đó là những thứ ông nói với tôi, thế tôi phải làm gì với những thông tin đó đây? Ghi vào trong nhật ký của tôi à? Sáng tác một bài hát về nó? Hay là sao?”
Murdah nhìn tôi một lúc, rồi hít vào một hơi sâu và thở ra nhẹ nhàng, cẩn trọng qua mũi, như thể ông ta đang học thở.
“Ông, ông Lang ạ, ông sẽ thực hiện vụ khủng bố này cho chúng tôi.”
Im lặng. Im lặng một lúc lâu. Chóng mặt vì bề ngang. Những bức tường của căn phòng rộng lớn này như châu đầu vào trong, rồi lại tỏa ra, làm cho tôi cảm thấy mình nhỏ bé hơn, yếu đuối chưa từng thấy.
“À há,” tôi nói.
Lại im bặt. Mùi cá rán nồng hơn bao giờ hết.
“Tôi có thể nói gì trong chuyện này không?” Tôi rền rĩ. Cổ họng tôi, vì một lý do nào đó, đang gây phiền phức cho tôi. “Ý tôi là, nếu như tôi định nói, ví dụ như, tiên sư bố ông và họ hàng hang hốc nhà ông, thì đại khái chuyện gì có thể xảy đến, với bảng giá của ngày hôm nay?”
Lần này tới lượt Murdah giở bài liếc-nhìn-đồng-hồ. Có vẻ như ông ta đột nhiên trở nên buồn chán, chẳng muốn cười một chút nào nữa.
“Điều đó, ông Lang ạ, tôi nghĩ không phải là một lựa chọnmà ông phải phí thời gian để tâm làm gì.”
Cảm thấy có luồng gió mát hơn sau gáy, tôi quay người lại thì thấy Barnes và Lucas đang đứng cạnh cửa. Barnes nhìn có vẻ thoải mái, Lucas thì không. Murdah gật đầu, và hai anh chàng người Mỹ tiến lên, đứng hai bên ghế cạnh ông ta. Đối mặt với tôi. Murdah chìa tay ra, lòng bàn tay ngửa lên, trước mặt Lucas, mà không nhìn vào anh ta.
Lucas lật nắp túi áo khoác lấy ra một khẩu tự động. Một khẩu Steyr, tôi nghĩ. 9 ly. Điều đó chẳng thành vấn đề. Anh ta nhẹ nhàng đặt khẩu súng vào tay Murdah, rồi quay về phía tôi, hai mắt mở to để biểu thị một ý gì mà tôi không tài nào suy luận được.
“Ông Lang,” Murdah nói, “có sự an nguy của hai người mà ông phải quan tâm tới. Của bản thân ông, tất nhiên rồi, và của cô Woolf. Tôi không biết cái gì có thể đặt cao hơn sự an nguy của ông, nhưng tôi nghĩ nếu ông đặt sự an nguy của cô ấy lên trên thì đó chỉ có thể là chuyện yêu đương. Và tôi muốn ông cân nhắc sự an nguy của cô ấy thật kỹ lưỡng.” Ông ta đột nhiên tươi cười, như thể những gì tồi tệ nhất đã qua đi. “Nhưng, tất nhiên, tôi không mong chờ ông làm điều đó mà không có một lý do chính đáng.”
Vừa nói ông ta vừa kéo kim hỏa lên, và nhướng cằm về phía tôi, khẩu súng lỏng lẻo trong tay ông ta. Mồ hôi túa ra từ hai lòng bàn tay và cổ họng tôi cứng đờ. Tôi chờ đợi. Bởi vì đó là tất cả những gì tôi có thể làm.
Murdah dò xét tôi một lúc. Rồi ông ta với tay ra, ấn họng súng vào bên cổ của Lucas, bắn hai phát.
Chuyện đó xảy ra quá nhanh, quá bất ngờ, quá vô lý, cho nên trong một phần mười giây tôi đã muốn phá lên cười. Có ba người đang đứng đó, rồi có tiếng pằng pằng, và rồi chỉ còn hai. Thực sự nực cười.
Tôi nhận ra rằng mình đã tè ra quần. Không nhiều. Nhưng đủ.
Tôi chớp mắt một cái, và nhìn thấy Murdah đã đưa khẩu súng lại cho Barnes, anh ta đang ra dấu về phía cánh cửa sau lưng tôi.
“Tại sao ông ta làm thế? Tại sao lại có người làm điều tồi tệ như thế?”
Có lẽ đó là giọng tôi, nhưng không phải. Đó là giọng Murdah. Mềm mỏng và bình tĩnh, hoàn toàn kiểm soát. “Đó là một điều tồi tệ, ông Lang ạ,” ông ta nói. “Tồi tệ. Tồi tệ, bởi vì nó không có nguyên cớ. Mà chúng ta thì luôn luôn muốn tìm nguyên nhân của một cái chết. Ông đồng ý không?”
Tôi ngước nhìn khuôn mặt ông ta, nhưng không thể tập trung vào nó. Nó tới rồi đi, giống như giọng nói của ông ta, vừa như ở ngay bên tai tôi, vừa như ở xa hàng dặm.
“Chà, hãy nói với nhau rằng mặc dù anh ta chẳng có lý do gì phải chết, tôi vẫn có một lý do để giết anh ta. Như thế tốt hơn, tôi nghĩ thế. Tôi giết anh ta, ông Lang ạ, để chỉ cho ông thấy một điều, và chỉ một điều thôi.” Ông ta ngừng lại. “Để chỉ cho ông thấy rằng tôi có thể làm thế.”
Ông ta nhìn xuống xác Lucas, và tôi nhìn theo ánh mắt ông ta. Đó là phía bị bắn. Nòng súng quá gần với thịt cho nên khí thoát ra theo viên đạn vào trong, làm chỗ bị bắn phồng đen trông thật kinh khủng. Tôi không thể nhìn vào đó lâu được.
“Ông có hiểu điều tôi đang nói không?”
Ông ta nghiêng người ra phía trước, đầu ngả về một bên. “Người này,” Murdah nói, “là một nhà ngoại giao chínhthức của Mỹ, một nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ. Tôi chắc là anh ta có nhiều bạn bè, một người vợ, có lẽ thậm chí có vài đứa con. V ì lẽ đó mà không thể cho một người như anh ta biến mất, đơn giản là biến mất hay sao? Tan biến?”
Những người đàn ông đang lom khom trước mặt tôi, áo khoác sột soạt trong khi họ ra sức lôi xác Lucas đi. Tôi ép mình phải lắng nghe Murdah.
“Tôi muốn ông nhìn thấy sự thật, ông Lang. Và sự thật là nếu tôi muốn anh ta biến mất thì sẽ là như thế. Tôi bắn chết một người ở đây, ngay trong nhà tôi, để máu anh ta chảy ra tấm thảm của tôi, bởi vì đó là điều tôi muốn. Và không ai ngăn được tôi. Không cảnh sát, không mật vụ, không bạn hữu nào của ông Lucas. Và hiển nhiên không phải ông. Ông nghe tôi đấy chứ?”
Tôi lại ngẩng lên nhìn ông ta lần nữa, và thấy mặt ông ta rõ hơn.
Đôi mắt sẫm màu. Ánh sáng trên khuôn mặt. Ông ta vuốt thẳng chiếc cà vạt.
“Ông Lang,” ông ta nói, “thế tôi đã cho ông lý do để nghĩ về sự an toàn của cô Woolf hay chưa?”
Tôi gật đầu.
Họ lái xe chở tôi quay lại Luân Đôn, ấn tôi xuống thảm chiếc Ngoại giao, và quẳng tôi ra một chỗ phía Nam con sông. Tôi qua cầu Waterloo và đi dọc phố Strand, thi thoảng dừng lại đâu đó chẳng vì lý do gì, đôi khi thả xu vào tay mấy người ăn xin mười- tám-tuổi, và mong muốn cái thực tế này trở thành một giấc mơ, nhiều hơn bất cứ lúc nào tôi đã từng mong muốn một giấc mơ trở thành hiện thực.
Mike Lucas đã bảo tôi phải cẩn thận. Anh ta đã nhận lấy nguy hiểm để nhắc tôi phải cẩn thận. Tôi không hề quen người đàn ông đó, cũng không yêu cầu anh ta phải nhận lấy nguy hiểm thay tôi, nhưng dù sao anh ta cũng đã làm điều đó bởi vì anh ta là người tử tế và không thích những nơi công việc bắt anh ta phải tới, và cũng không muốn tôi bị đưa tới đó.
Pằng pằng.
Không quay trở lại. Trái đất không ngừng quay.
Tôi thấy thương bản thân, thương Mike Lucas, thương cả những người hành khất nữa, nhưng tôi thực sự thương hại bản thân mình, và điều đó phải dừng lại. Tôi bắt đầu bước về nhà.
Tôi chẳng còn lý do nào để lo lắng khi trở về căn hộ của mình nữa, kể từ khi tất cả những người tôi phải để ý gắt gao suốt tuần qua giờ đây đã lồ lộ ngay trước mặt. Ngủ trên giường của chính mình giờ đây là cách duy nhất để tôi thoát khỏi những chuyện này. Bởi vậy tôi sải bước nhanh tới Bayswater, và trong khi bước tôi cố nhìn vào khía cạnh đáng cười của vấn đề.
Thật không dễ dàng, và tôi không chắc mình đã làm điều đó một cách đúng đắn, nhưng đó là điều tôi muốn làm khi mọi việc không được tốt. Bởi vì nói mọi việc không được tốt thì có nghĩa lý gì? So sánh với cái gì đây? Anh có thể nói: so sánh với sự việc diễn ra một vài giờ trước đó, hoặc vài năm trước đó. Nhưng đó không phải mấu chốt. Nếu như hai chiếc xe ô tô cùng phóng nhanh tới một bức tường gạch mà không phanh, và một chiếc húc vào tường trong một khoảnh khắc trước chiếc kia, anh không thể thêm khoảnh khắc đó vào để nói chiếc xe thứ hai tốt hơn rất nhiều so với chiếc thứ nhất.
Chết chóc và thảm họa ngự trên vai chúng ta từng giây của cuộc đời, cố gắng túm lấy chúng ta. Chúng ta thoát, rất nhiều lần. Rất nhiều dặm đường trên xa lộ mà lốp trước không bị nổ. Rất nhiều vi rút đã chui vào người mà không đục khoét gì. Rất nhiều đàn dương cầm rơi xuống chỉ một phút sau khi chúng ta đã đi qua. Hoặc một tháng, cũng chẳng có khác biệt gì.
Bởi vậy, trừ khi chúng ta quỳ xuống cảm ơn mỗi lần tai họa giáng trượt, thì việc rên rỉ lúc nó đánh trúng chẳng có nghĩa gì. Với chúng ta, hoặc với một người nào khác. Bởi vì chúng ta không so sánh nó với bất cứ thứ gì.
Và dù sao đi nữa, chúng ta đều chết, hoặc chưa từng được sinh ra, và mọi chuyện thực ra chỉ là một giấc mơ.
Thế đó, anh thấy không. Đó là mặt đáng cười.