You know you've read a good book when you turn the last page and feel a little as if you have lost a friend.

Paul Sweeney

 
 
 
 
 
Tác giả: Anne Rice
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Interviewwith The Vampire (The Vampire Chronicles Series , Book 1)
Dịch giả: Hải Âu
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13
à đó là kết thúc của câu chuyện, thực vậy.”
“Dĩ nhiên, ta biết anh đang thắc mắc sau đó chuyện gì đã xảy đến với bọn ta. Armand đã ra sao? Ta đã đi đâu? Ta đã làm gì? Nhưng ta có thể nói với anh rằng, thực sự chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Không có gì là không thể không tránh khỏi. Và hành trình qua Bảo tàng Louvre vào đêm cuối ấy như ta đã kể anh nghe, chỉ đơn thuần mang tính chất tiên đoán.”
“Từ đó, ta không thay đổi nữa. Ta không tìm kiếm bất cứ gì trong nguồn gốc vĩ đại của sự thay đổi, tức là bản chất con người. Và ngay cả trong tình yêu cũng như sự say mê đối với vẻ đẹp của thế gian này, ta cũng không tìm hiểu bất cứ gì để có thể đền đáp lại cho nhân loại. Ta hút lấy vẻ đẹp của thế gian như ma cà rồng hút máu. Ta đã hài lòng. Ta đã no ứ họng. Nhưng ta đã chết. Và ta đã không thể thay đổi được nữa. Câu chuyện đã kết thúc ở Paris, như ta vừa nói.”
“Suốt một thời gian dài, ta nghe rằng cái chết của Claudia chính là nguyên nhân của sự kết thúc đó. Rằng nếu ta nhìn thấy Madeleine và Claudia an toàn rời khỏi Paris, chuyện giữa ta và Armand có thể đã khác. Ta đã lại có thể yêu, lại có thể khao khát và tìm được điều gì đó tương tự như cuộc đời một con người, một cuộc đời phong phú và nhiều màu sắc, dù có trái với tự nhiên. Nhưng giờ ta biết là mình đã sai. Kể cả Claudia có không chết, kể cả ta không ghét bỏ Armand vì đã để cô bé chết, thì mọi chuyện cũng vẫn vậy. Dần dần thấy được sự độc ác của Armand hay bị ném thẳng vào nó... cũng đều như nhau. Rốt cuộc thì ta chẳng muốn gì trong số đó cả. Và, vì cũng chẳng xứng đáng với thứ gì tốt đẹp hơn, ta đã cuộn mình như con nhện cuộn mình dưới ngọn lửa của một que diêm. Và ngay cả Armand, vốn là bạn đồng hành thường xuyên và duy nhất của ta, cũng vẫn tồn tại ở một nơi rất xa, tận phía bên kia tấm màn đã chia cắt ta với mọi sinh vật, tấm màn có hình dạng của một mảnh vải liệm.”
“Nhưng ta biết anh đang muốn nghe xem Armand đã ra sao. Và đêm đã sắp tàn. Ta muốn kể với anh chuyện này vì nó rất quan trọng. Câu chuyện của ta sẽ không hoàn thiện nếu thiếu nó.”
“Bọn ta đã đi khắp thế giới sau khi rời khỏi Paris, như ta đã nói với anh; đầu tiên là Ai Cập, sau đó là Hy Lạp, rồi đến Italia, bán đảo Tiểu Á - bất cứ nơi nào ta chọn để dẫn lối cho cả hai ta, thật vậy, bất cứ nơi nào mà khát vọng đối với nghệ thuật dẫn lối cho ta. Thời gian ngừng tồn tại một cách có ý nghĩa trong những năm tháng ấy, và suốt một thời gian dài, ta thường bị lôi cuốn bởi những điều rất giản đơn - một bức tranh trong viện bảo tàng, một cửa sổ của nhà thờ, một bức tượng đẹp.”
“Nhưng trong suốt những năm tháng ấy, ta vẫn có một mong muốn dù mơ hồ nhưng dai dẳng là trở về New Orleans. Ta chưa bao giờ quên New Orleans. Và mỗi khi bọn ta đặt chân đến những xứ sở nhiệt đới hay vùng có những loài hoa và cây cối cũng mọc ở Louisiana, ta sẽ nhớ quê hương da diết và cảm xúc đó cũng là tia sáng khát khao duy nhất ta có ngoài niềm say mê bất tận dành cho nghệ thuật. Và thỉnh thoảng, Armand yêu cầu ta đưa hắn tới đó. Và ta, vì biết rằng với tư cách một quý ông lịch duyệt, ta đã làm rất ít điều có thể khiến Armand vui lòng và thường bỏ đi trong những khoảng thời gian dài mà không hề trò chuyện hay tìm kiếm hắn, ta muốn đáp ứng yêu cầu của hắn. Dường như đề nghị đó đã khiến ta quên đi nỗi sợ mơ hồ rằng có thể ta sẽ cảm nhận được nỗi đau ở New Orleans, rằng có thể ta sẽ phải gặp lại chiếc bóng nhợt nhạt của cái tôi bất hạnh và đầy khao khát thuở xưa. Nhưng ta đã hoãn kế hoạch đó. Có lẽ nỗi sợ trong ta lớn hơn ta tưởng. Bọn ta đã đến Mỹ và sống ở New York trong một thời gian dài. Ta vẫn tiếp tục trì hoãn. Và rồi, cuối cùng, Armand đã dùng cách khác để thúc giục ta. Hắn tiết lộ cho ta một bí mật mà hắn đã giấu từ khi bọn ta còn ở Paris.”
“Lestat đã không chết trong Rạp hát Ma Cà Rồng. Ta tưởng hắn đã chết, và khi ta hỏi Armand về đám ma cà rồng kia, hắn đã trả lời rằng bọn chúng chết hết rồi. Nhưng giờ hắn thừa nhận rằng sự thật không phải thế. Lestat đã rời rạp hát vào cái đêm ta bỏ chạy khỏi Armand và tìm đến nghĩa trang Montmartre. Hai ma cà rồng có chung chủ nhân với Lestat đã giúp hắn đặt vé về New Orleans.”
“Ta không thể diễn tả cho anh nghe cảm xúc đã ùa đến với ta khi nghe sự thật ấy. Tất nhiên, Armand nói hắn giấu ta là vì muốn bảo vệ ta, hy vọng rằng ta sẽ không theo đuổi một cuộc hành trình dài chỉ để trả thù, một cuộc hành trình có thể khiến ta đau đớn và phiền muộn vào thời điểm đó. Nhưng ta không thực lòng quan tâm. Ta đã không hề nghĩ đến Lestat trong cái đêm phóng hỏa rạp hát. Lúc ấy, ta chỉ nghĩ đến Santiago, Celeste và những ma cà rồng khác đã hãm hại Claudia. Lestat, trên thực tế, đã làm dấy lên trong ta những cảm xúc mà ta chưa từng mong có thể chia sẻ với bất kỳ ai, cảm xúc mà ta chỉ muốn quên đi, bất chấp cái chết của Claudia. Nhưng thù hận không phải một trong số đó.”
“Nhưng khi nghe Armand tiết lộ sự thật ấy, ta có cảm giác như tấm màn bảo vệ mình đã trở nên mỏng dính và trong suốt, và mặc dù nó vẫn nằm chắn giữa ta và thế giới cảm xúc, ta vẫn thấy được Lestat ở phía bên kia và nhận ra rằng ta muốn gặp lại hắn. Với động lực đó, ta và Armand đã trở lại New Orleans.”
“Đó là vào cuối mùa xuân năm nay. Ngay khi bước ra khỏi ga xe lửa, ta biết mình đã thật sự về nhà. Như thể bầu không khí nơi đó đã được tẩm một mùi hương riêng biệt, và ta cảm thấy vô cùng thanh thản khi bước trên những vỉa hè ấm áp và bằng phẳng dưới hàng sồi thân thuộc, lắng tai nghe những âm thanh sống động và rộn rã không ngớt trong đêm.”
“Tất nhiên, New Orleans đã thay đổi. Nhưng ta không nuối tiếc vì những thay đổi đó mà còn thấy biết ơn trước những điều vẫn còn như xưa. Ở khu phố trên của quận Garden, vốn trong thời của ta từng là khu Faubourg St. Marie, ta có thể tìm thấy một trong những tòa biệt thự cổ kính và trang nghiêm từ thời đó nằm cách xa con phố lát gạch yên tĩnh tới mức, khi bước trong ánh trăng dưới những cây hoa mộc lan, ta nhận ra hương vị ngọt ngào và bình yên mà ta từng có trong những ngày xưa cũ; không chỉ từ những con đường tối và hẹp của khu phố Vieux Carre mà còn từ khu rừng hoang cạnh Pointe du Lac. Ở đó có những kim ngân và hoa hồng, có những cột trụ Corinth vươn thẳng lên những vì sao; và phía bên ngoài cổng vào là nhũng con đường thơ mộng khác, những biệt thự khác... đó là thành trì của sự thanh lịch.”
“Tại phố Royale, ta dẫn Armand băng qua những dòng khách du lịch, những cửa hàng đồ cổ và những lối ra vào rực rỡ ánh đèn của các nhà hàng hạng sang, ta đã phải kinh ngạc khi tìm ra căn nhà mà Lestat, Claudia, và ta đã từng coi là tổ ấm, mặt tiền của nó không thay đổi nhiều dù đã được trát vữa mới và nội thất cũng đã được tu sửa. Hai cánh cửa sổ kiểu Pháp vẫn mở hướng về phía những ban công nhỏ, bên trên cửa hiệu ở tầng trệt, và trong ánh sáng dịu của chùm đèn điện, ta có thể thấy được lớp giấy dán tường trang nhã sẽ không hề lạc lõng trong thời trước chiến tranh. Ở nơi đó, ta có một cảm giác mạnh mẽ về Lestat, hơn hẳn cảm giác về Claudia, và ta biết chắc, dù hắn không hề ở gần ngôi nhà này, ta cũng sẽ tìm thấy hắn ở đâu đó tại New Orleans.”
“Và ta cảm thấy điều gì đó khác; đó là một nỗi buồn đã phủ ngập lòng ta sau khi Armand tách ra đi riêng. Nỗi buồn ấy không đau đớn, cũng không dữ dội. Nó là một thứ cảm giác nồng ấm và thoáng ngọt ngào, như hương trong của những bông nhài và hồng mọc chen chúc nhau trong mảnh sân vườn cũ mà ta đang nhìn thấy qua những cánh cổng sắt. Nỗi buồn mang đến cho ta cảm giác mãn nguyện mơ hồ và giữ ta đứng lại nơi ấy suốt một hồi lâu; nỗi buồn ấy cũng giữ ta ở lại thành phố, kể cả khi ta đã rời đi đêm ấy, nó vẫn không thực sự biến mất.”
Bây giờ, ta tự hỏi nỗi buồn ấy đã ra sao; nó đã có thể làm nảy mầm trong ta cảm xúc nào khác còn dữ dội hơn chính nó? Nhưng ta lại lạc đề rồi.
“Bởi vì chẳng bao lâu sau, ta đã thấy một ma cà rồng ở New Orleans, một gã thanh niên bóng bẩy khuôn mặt trắng mịn đang độc bước trên vỉa hè rộng rãi của đại lộ St. Charles trước bình minh. Ta lập tức đoán chắc rằng nếu Lestat vẫn còn sống ở đây thì tên ma cà rồng kia sẽ phải biết hắn và thậm chí còn có thể dẫn ta tới chỗ hắn. Tất nhiên, tên ma cà rồng lạ mặt không thấy ta. Từ lâu ta đã luyện được kỹ năng nhận biết đồng loại của mình trong những thành phố rộng lớn mà không cho họ có cơ hội nhìn thấy mình. Armand, trong những chuyến thăm ngắn tới các ma cà rồng ở London và Rome, đã phát hiện ra rằng, thông tin về vụ hỏa hoạn rạp hát Ma Cà Rồng đã lan đi khắp thế giới, và cả ta lẫn hắn đều bị ruồng bỏ. Ta không màng tới những cuộc đấu về chuyện này và cho đến nay vẫn tránh xa chúng. Nhưng ta đã bắt đầu theo dõi và bám theo tên ma cà rồng ở New Orleans này, dù hắn chỉ thường dẫn ta đến các nhà hát và các tụ điểm giải trí mà ta không chút hứng thú. Nhưng rồi một đêm nọ, cuối cùng, sự thể đã thay đổi.”
“Đó là một đêm rất ấm áp, và ngay khi thấy tên ma cà rồng lạ mặt trên đại lộ St. Charles, ta đã đoán được là hắn đang định đến một địa điểm đặc biệt. Hắn không chỉ đi nhanh mà còn có vẻ hơi lo lắng. Và cuối cùng, khi hắn rẽ khỏi St. Charles để tiến vào một con phố chật hẹp, tồi tàn và tối tăm, ta biết chắc rằng hắn sắp tới một nơi có thể khiến ta quan tâm.”
“Nhưng rồi hắn đột nhập vào một căn nhà gỗ nhỏ và giết một phụ nữ. Hắn hành động nhanh chóng, không chút thích thú; và ngay khi hoàn thành, hắn bế đứa con của người phụ nữ nọ khỏi chiếc nôi mây, quấn đứa bé trong một chiếc chăn len màu xanh rồi quay lại đường phố.”
“Sau khi đi qua một vài khối nhà, hắn dừng lại trước một hàng rào sắt phủ kín dây leo, bao quanh một khoảng sân lớn mọc đầy cỏ dại. Ta có thể nhìn thấy một ngôi nhà cổ phía trong những tán cây, tối đen, lớp sơn đã bong tróc, lan can sắt cầu kỳ của những dãy hành lang dài phía trên và phía dưới đã phủ một lớp gỉ màu cam. Đó có vẻ là một tòa nhà bỏ hoang, bị kẹt lại nơi này giữa vô số những ngôi nhà gỗ nhỏ, những ô cửa sổ cao và trống toác của nó nhìn về phía mà chắc hẳn là chỉ có một loạt mái nhà thấp lộn xộn tẻ ngắt, một cửa hàng tạp hóa trong góc đường và một quán bar nhỏ nằm sát bên. Nhưng khoảng sân rộng và tối đã bảo vệ tòa biệt thự này khỏi những thứ đó, và ta phải bước vài bước dọc theo hàng rào rồi cuối cùng cũng thấy một tia sáng mờ nhạt tỏa ra từ một trong những ô cửa sổ thấp xuyên qua những nhánh cây ken dày đặc. Tên ma cà rồng nọ đã bước vào cổng. Ta có thể nghe thấy tiếng đứa bé khóc oe oe, rồi im bặt. Và ta bám theo hắn, dễ dàng nhảy qua hàng rào cũ rồi đáp xuống vườn, lặng lẽ tiến vào hành lang dài phía trước nhà.”
“Khi rón rén tới gần một trong những ô cửa sổ dài chạm sàn, ta đã được chứng kiến một cảnh tượng đáng kinh ngạc. Bởi vì bất chấp hơi nóng hầm hập của một đêm lặng gió khiến cái hành lang này, cho dù ván lót sàn đã khô cong và nứt toác, có lẽ là nơi duy nhất mà con người hoặc ma cà rồng có thể chịu đựng được, một ngọn lửa vẫn đang rực sáng trong lò sưởi phòng khách và toàn bộ cửa sổ phòng đều đóng kín, còn tên ma cà rồng trẻ tuổi đang ngồi bên lò sưởi, trò chuyện với một ma cà rồng khác đang ngồi sát đó, đôi chân mang dép lê của hắn đặt ngay trước lò sưởi, những ngón tay run rẩy cứ chốc chốc lại kéo lấy phần ve của chiếc áo khoác màu xanh tồi tàn. Và, mặc dù có một sợi dây điện mòn xơ lủng lẳng rơi xuống từ vòng hoa hồng thạch cao trên trần nhà, chỉ có một ngọn đèn dầu góp ánh sáng mờ của nó vào ngọn lửa trong lò, ngọn đèn dầu được đặt bên cạnh đứa trẻ đang khóc ngặt nghẽo trên chiếc bàn gần đó.”
“Ta trợn tròn mắt khi nhìn thật kỹ tên ma cà rồng đang ngồi khom lưng và run lẩy bẩy kia, với mái tóc vàng óng xõa xuống thành từng gợn sóng che khuất khuôn mặt. Ta những mong có thể lau sạch bụi khỏi tấm kính cửa sổ đang ngăn ta khẳng định điều mình đang nghi ngờ. “Các người đều bỏ mặc ta?” hắn rên lên bằng giọng yếu ớt và the thé.”
“Ông không giữ chúng tôi ở lại được đâu!” tên ma cà rồng trẻ tuổi lạnh lùng đáp trả một cách gay gắt. Hắn đang ngồi bắt tréo chân, hai tay khoanh lại trước khuôn ngực hẹp, mắt khinh khỉnh đảo quanh căn phòng trống rỗng và bụi bặm. “Ôi, im mồm đi!” hắn quát đứa trẻ đang khóc ré lên. “Im mồm đi, im mồm đi.”
“Củi, củi,” ma cà rồng tóc vàng yếu ớt nói, và, khi hắn ra hiệu cho ma cà rồng trẻ tuổi chuyền đống củi đang đặt cạnh ghế cho hắn, ta đã thấy rõ ràng, không thể nhầm lẫn, khuôn mặt nhìn nghiêng của Lestat, làn da hắn giờ đã nhẵn mịn và không có dù chỉ chút dấu vết mờ nhạt nhất của những vết sẹo cũ.”
“Nếu ông chịu ra ngoài,” ma cà rồng trẻ tuổi giận dữ nói, liệng mạnh một khúc củi vào lò. “Nếu ông chịu săn thứ gì đó khác chứ không phải những con vật khốn khổ này...” Và hắn nhìn xuống quanh mình với vẻ mặt kinh tởm. Khi đó ta cũng thấy được những cái xác nhỏ lông lá của dăm ba con mèo trong bóng tối, nằm la liệt trên lớp bụi. Đây là điều rất đáng lưu ý, vì cũng như mọi loài động vật có vú khác không thể lưu lại nơi có chất thải của mình, ma cà rồng không thể chịu được việc phải ở gần xác những nạn nhân của hắn. “Ông có biết giờ đã là mùa hè rồi không?” ma cà rồng trẻ tuổi gặng hỏi. Nhưng Lestat chỉ chà xát hai bàn tay vào nhau. Tiếng khóc của đứa bé đang yếu dần, và ma cà rồng trẻ tuổi tiếp tục nói, “Thôi nào, hãy hút máu đứa bé này đi và ông sẽ thấy ấm hơn.”
“Lẽ ra cậu phải mang đến cho ta thứ khác!” Lestat cay đắng nói. Và, khi hắn nhìn đứa bé, ta thấy đôi mắt hắn nheo lại để tránh ánh sáng mờ xỉn từ ngọn đèn ám khói. Ta bàng hoàng khi nhận ra được đôi mắt ấy và cả những biểu cảm trên khuôn mặt đang ẩn dưới bóng tối của sóng tóc vàng. Vậy mà lại phải nghe tiếng hắn rên rỉ, thấy tấm lưng hắn lại đang run rẩy khom xuống! Gần như không suy nghĩ gì, ta đập mạnh vào tấm kính. Tên ma cà rồng trẻ tuổi đứng bật dậy, vẻ mặt quyết liệt và dữ dằn, nhưng ta chỉ ra hiệu để hắn mở chết cửa sổ ra. Và Lestat, khép chặt lấy chiếc áo choàng vào cổ, từ từ ngồi dậy khỏi ghế.”
“Đó là Louis! Louis!” hắn nói. “Cho anh ta vào,” hắn điên cuồng ra hiệu, giống như một người bệnh đang ra lệnh cho “y tá” trẻ của mình.”
“Ngay khi cánh cửa sổ mở ra, mùi hôi thối và hơi nóng hầm hập của căn phòng ập vào ta. Đám ruồi nhặng trên những xác mèo thối rữa khuấy động giác quan của ta, khiến ta bất giác lùi lại, dù Lestat đang tuyệt vọng khẩn nài ta hãy tới gần hắn. Ở kia, trong góc nhà, ta thấy chiếc quan tài của hắn với lớp sơn mài đã bong khỏi gỗ và nửa phần được bọc lại trong một đống báo vàng xỉn. Những khúc xương trơ chỉ còn dính vài mẩu lông chất đầy khắp các góc nhà. Nhưng Lestat đã đưa đôi tay khô nứt của hắn nắm lấy tay ta, kéo ta lại gần hắn, tới trước lò sưởi ấm áp, và ta có thể thấy những giọt lệ ứa lên trong đôi mắt hắn. Chỉ khi miệng hắn dãn ra thành một nụ cười kỳ dị toát lên niềm hạnh phúc tuyệt vọng đến mức gần như đau đớn, ta mới lờ mờ thấy được dấu tích của những vết sẹo cũ. Vừa đáng sợ vừa khó hiểu làm sao, gã đàn ông bất tử với khuôn mặt nhẵn mịn và lung linh này lại cúi gập xuống, run rẩy và rên rỉ như một bà già.”
“Đúng, Lestat,” ta dịu dàng nói. “Tôi đến thăm anh.” Ta từ từ, nhẹ nhàng đẩy tay hắn ra, rồi tiến tới gần đứa bé lại đang khóc ngặt nghẽo vì sợ và đói. Ngay khi ta bế nó lên và nới lỏng mảnh chăn quấn bên ngoài, nó liền nín bớt, và ta vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, đu đưa nó trong vòng tay. Lestat đang cuống quít thì thầm với ta những lời ngắc ngứ mà ta không tài nào hiểu được những giọt lệ tràn xuống gò má hắn, tên ma cà rồng trẻ tuổi đang đứng ở ô cửa sổ mở với vẻ mặt kinh tởm và đặt một tay trên chốt cửa như thể hắn sẽ chạy trốn bất cứ lúc nào.”
“Vậy ra ông là Louis,” tên ma cà rồng trẻ tuổi nói. Lời ấy dường như càng khiến sự phấn khích khôn tả của Lestat dâng lên dữ dội hơn, và hắn điên cuồng lau nước mắt bằng gấu áo choàng.”
“Có một con ruồi đậu trên trán đứa bé, và ta bất giác hức lên một tiếng khi bóp chết con ruồi giữa hai ngón tay rồi thả xác nó xuống sàn nhà. Đứa bé đã không còn khóc nữa. Nó đang ngước lên nhìn ta bằng đôi mắt xanh lạ thường, đôi mắt màu xanh thẫm, khuôn mặt bầu bĩnh của nó bóng lên dưới hơi nóng trong phòng, và một nụ cười hiện ra trên môi nó, nụ cười tỏa sáng như một ngọn lửa. Ta chưa bao giờ mang cái chết đến với bất kỳ sinh linh nào còn nhỏ, còn ngây thơ đến thế, và bấy giờ ta ý thức rõ điều đó, khi đang bế đứa bé trên tay với cảm giác phiền muộn lạ thường, thậm chí còn dữ dội hơn cảm giác đã trào lên trong ta ở Royale. Và, trong khi tay vẫn khe khẽ đu đưa đứa bé, ta kéo chiếc ghế trống của tên ma cà rồng trẻ lại gần lò sưởi rồi ngồi xuống.”
“Đừng cố nói chuyện... ổn cả rồi,” ta nói với Lestat, hắn liền buông mình xuống ghế với vẻ biết ơn và với cả hai tay ra để mân mê ve áo khoác của ta.
“Nhưng tôi quá vui mừng khi thấy anh,” hắn lắp bắp trong dòng lệ tuôn trào. “Tôi đã mơ rằng anh sẽ tới... sẽ tới...” hắn nói. Rồi hắn nhăn mặt lại, như thể hắn đang phải chịu đựng một nỗi đau không thể gọi tên, và lớp vết sẹo mảnh chằng chịt lại thoáng hiện ra một lần nữa. Hắn nhìn vào khoảng không vô định, tay đưa lên tai như thể đang muốn bịt lấy nó để bảo vệ mình khỏi một thứ âm thanh khủng khiếp. “Tôi đã không...” hắn cất lời, rồi lắc đầu, mắt hắn mờ đục đi khi hắn cố mở ra thật to và ép chúng tập trung vào một điểm cố định. “Tôi không hề cố ý để chúng làm việc đó, Louis... ý tôi là, Santiago... tên ma cà rồng ấy, anh biết mà, hắn không hề tiết lộ với tôi việc bọn chúng định làm.”
“Tất cả là quá khứ rồi, Lestat ạ,” ta nói.
“Đúng, đúng,” hắn gật đầu lia lịa. “Quá khứ rồi. Lẽ ra con bé không nên... kìa, Louis, anh biết mà...” Và hắn lại lắc đầu, giọng hắn như mạnh lên, vang hơn nhờ nỗ lực của hắn. “Lẽ ra con bé không bao giờ nên là một trong số chúng ta, Louis ạ.” Và hắn đấm tay vào khuôn ngực hóp của mình khi nhẹ nhàng thốt lên từ “chúng ta” một lần nữa.”
“Cô bé. Khi ấy ta có cảm giác như cô bé chưa từng tồn tại, rằng cô bé là một giấc mơ phi lý, xa vời quá đỗi quý giá và riêng tư mà ta chưa bao giờ chia sẻ với bất kỳ ai. Và giấc mơ đó cũng đã trôi xa rồi. Ta nhìn hắn. Ta nhìn hắn chằm chằm. Và ta cố gắng nghĩ, Phải, ba người bọn ta ở cùng nhau.”
“Đừng sợ tôi, Lestat,” ta nói, như thể đang tự nhủ. “Tôi không đến để trả thù anh.”
“Anh đã quay về với tôi, Louis,” hắn thì thầm với chất giọng yếu ớt và the thé của mình. “Anh đã quay về nhà với tôi một lần nữa, Louis, phải vậy không?” Và hắn lại cắn chặt môi, tuyệt vọng nhìn ta.
“Không, Lestat.” Ta lắc đầu. Trong thoáng chốc, hắn như phát điên và cuồng loạn khua khoắng tay chân rồi cuối cùng ngồi đó, đưa tay lên ôm lấy mặt trong nỗi đau bùng nổ.”
“Tên ma cà rồng trẻ tuổi, vốn đang lạnh lùng quan sát ta, cất tiếng hỏi: “Ông có... Ông có quay về với ông ta không?”
“Không, tất nhiên là không,” ta đáp. Và hắn cười khẩy, như thể đó chính là điều hắn đã chờ đợi và mọi trách nhiệm sẽ lại dồn xuống hắn, rồi hắn bước ra ngoài hành lang. Ta có thể nghe tiếng hắn đang đứng đó rất gần, chờ đợi.”
“Tôi chỉ muốn ghé thăm anh, Lestat,” ta nói. Nhưng dường như Lestat không nghe thấy ta. Có cái gì đó đang khiến hắn bị phân tâm. Và hắn dán chặt mắt vào khoảng không, tròng mắt trợn lên, hai tay để lơ lửng trước tai. Rồi ta cũng nghe thấy. Đó là tiếng còi báo động. Và khi tiếng còi vang lên to hơn, hắn liền nhắm tịt mắt lại và đưa tay bịt chặt tai. Tiếng còi cứ mỗi lúc một to, ào đến trên con đường dẫn tới khu trung tâm thành phố. “Lestat!” ta hét lên với hắn, át đi tiếng đứa bé đang khóc vang lên vì nỗi sợ tương tự trước tiếng còi báo động. Nhưng vẻ đau đớn của hắn khiến cổ ta nghẹn lại. Môi hắn nhếch lên để hở lợi, khuôn mặt hắn co rúm lại một cách đau đớn khủng khiếp. “Lestat, đó chỉ là tiếng còi báo động thôi mà!” ta trấn an hắn một cách ngớ ngẩn. Rồi hắn bật dậy khỏi ghế, lao tới túm lấy ta, ôm chặt ta, và cho dù không muốn, ta vẫn nắm tay hắn. Hắn cúi xuống, dụi đầu vào ngực ta và siết tay ta mạnh đến mức khiến ta đau đớn. Căn phòng đã tràn ngập ánh sáng đỏ của còi báo động, rồi ánh sáng đó dần biến đi.”
“Louis, tôi không thể chịu đựng được, tôi không thể chịu đựng được,” hắn gầm gừ trong dòng lệ. “Giúp tôi với, Louis, hãy ở lại với tôi.”
“Nhưng tại sao anh lại sợ?” ta hỏi. “Anh không biết đó là cái gì sao?” Và khi cúi xuống nhìn Lestat, nhìn mái tóc vàng đang áp vào áo khoác mình, ta bỗng như thấy hình ảnh hắn của nhiều năm về trước, một quý ông cao lớn, oai vệ trong chiếc áo choàng đen xoáy tròn, với mái đầu ngửa ra sau, chất giọng nồng ấm, trong trẻo ngân nga giai điệu du dương thanh khiết của vở Opera mà bọn ta vừa mới xem, cây gậy gõ theo nhịp nhạc xuống lớp sỏi rải đường, đôi mắt to long lanh đã bắt được một thiếu nữ gần đó, khiến cô gái say mê, khiến một nụ cười nở ra trên mặt hắn trong khi giai điệu trên môi đã tắt lịm; và trong khoảnh khắc ấy cái khoảnh khắc mà ánh mắt hắn và ánh mắt thiếu nữ kia giao nhau, tất cả cái ác đều bị xóa mờ, trong niềm khoái lạc tuôn trào, trong niềm đam mê chỉ đơn thuần dành cho sự sống.”
“Đây có phải cái giá cho sự say mê đó? Mọi giác quan bị chấn động vì những đổi thay, co quắp trong cơn hoảng loạn? Ta lặng nghĩ về những điều ta có thể nói với hắn, phải làm thế nào để nhắc hắn nhớ rằng hắn bất tử, rằng không có gì ép hắn phải ở ẩn trừ bản thân hắn, và rằng hắn đang bị bao vây bởi những dấu hiệu rõ rệt của cái chết không tránh khỏi. Nhưng ta đã không nói gì, và ta biết ta sẽ không bao giờ nói.”
“Dường như sự im lặng đã trở lại trong căn phòng bao quanh bọn ta, nó dồn lên như một làn nước biển đen ngòm mà tiếng còi báo động ban nãy đã gạt đi. Ruồi nhặng đang bu đầy trên thi thể thối rữa của một con chuột, và đứa bé đang lặng lẽ ngước nhìn ta như thể đôi mắt ta là một món đồ chơi phát sáng, và nó đưa bàn tay mũm mĩm lên nắm lấy ngón tay ta đang để lơ lửng trên đôi môi bé xinh như nụ hoa của nó.”
“Lestat đã ngồi dậy và vươn thẳng người lên, nhưng rồi lại cúi gục xuống và cuộn mình vào trong ghế. Anh sẽ không ở lại với tôi, hắn thở dài. Rồi hắn nhìn ra xa và bỗng như đang tập trung vào thứ gì đó.”
“Tôi rất muốn được trò chuyện cùng anh,” hắn nói. “Đêm mà tôi quay về căn nhà ở Royale, tôi chỉ muốn trò chuyện với anh!” Hắn run bắn lên, mắt nhắm nghiền, cổ họng như co rút lại. Như thể những cú đánh mà ta từng giáng xuống hắn khi xưa bây giờ mới đến đích. Hắn nhìn vô định về phía trước, thè lưỡi liếm môi và nói bằng giọng thấp, gần như không chút màu mè. “Tôi đã theo anh đến Paris...”
“Anh đã muốn nói với tôi cái gì?” ta hỏi. “Anh đã muốn trò chuyện cùng tôi về vấn đề gì?”
“Ta vẫn còn nhớ rõ thái độ khăng khăng điên cuồng của hắn ở Rạp hát Ma Cà Rồng. Ta đã không nghĩ về điều đó trong nhiều năm. Không, ta chưa từng nghĩ về điều đó. Và lúc này, ta ý thức được rằng mình đang nhắc tới nó một cách cực kỳ miễn cưỡng.”
“Nhưng hắn chỉ nhìn ta cười, một nụ cười tẻ ngắt gần như hối lỗi. Và hắn lắc đầu. Ta thấy đôi mắt hắn đã bị phủ mờ trong lớp màn tuyệt vọng. Ta cảm nhận được một niềm khuây khỏa sâu sắc, rõ rệt.”
“Nhưng anh sẽ ở lại với tôi chứ!” hắn vẫn khăng khăng.
“Không,” ta đáp.
“Và tôi cũng không!” tên ma cà rồng trẻ tuổi lên tiếng từ bóng tối bên ngoài. Và trong giây lát, hắn đứng ở ô cửa sổ mở nhìn bọn ta chằm chằm. Lestat ngước lên nhìn hắn rồi ngượng ngùng quay đi, môi dưới của hắn dường như trề ra và run lên bần bật. “Đóng nó lại, đóng nó lại,” Lestat nói, phẩy ngón tay về phía cửa sổ. Rồi một tiếng nấc vỡ òa ra trong hắn, và, đưa tay lên che lấy miệng, hắn cúi gục đầu xuống và khóc nức nở.”
“Tên ma cà rồng trẻ tuổi đã biến mất. Ta nghe thấy tiếng chân hắn rảo bước rất nhanh trên lối di và nghe tiếng cánh cổng sắt đóng sầm lại. Chỉ còn mình ta ở lại với Lestat, và hắn đang khóc. Dường như phải mất một hồi lâu hắn mới nín, và trong thời gian đó, ta chỉ ngồi nhìn hắn. Ta nghĩ về tất cả những điều đã diễn ra giữa bọn ta. Ta nhớ lại những ký ức mà ta cứ tưởng mình đã hoàn toàn quên lãng. Và ta nhận ra nỗi buồn đang phủ ngập lòng mình bấy giờ cũng chính là nỗi buồn đã trào dâng khi ta nhìn ngắm nơi bọn ta đã từng sống ở Royale. Chỉ là, ta thấy nỗi buồn này không phải dành cho Lestat, cho tên ma cà rồng thông minh, phóng đãng đã từng sống nơi ấy. Nỗi buồn này dường như là dành cho điều gì khác, một điều vượt xa hơn Lestat, bao gồm cả hắn và là một phần của nỗi buồn to lớn hơn dành cho tất cả những thứ ta đã từng mất, từng yêu, từng biết. Khi ấy ta có cảm giác như mình đang ngồi một nơi chốn khác, vào một thời gian khác. Và nơi chốn, thời gian khác ấy rất thật, đó là một căn phòng cũng có bầy ruồi nhặng vo ve bay lượn như chúng đang vo ve ở đây, không gian đã cô đặc lại với mùi tử khí và hương thơm mùa xuân. Ta đã sắp sửa nhận ra được căn phòng ấy và đồng thời cũng nhận ra được một nỗi đau khủng khiếp, nỗi đau dữ dội tới mức tâm trí ta phải tìm cách trốn chạy, và nói, Không, đừng bắt tôi quay lại nơi ấy - rồi đột nhiên nỗi đau lắng xuống và ta lại thấy mình đang ngồi với Lestat ở đây, vào lúc này. Ta ngạc nhiên thấy những giọt lệ của mình đang rơi xuống mặt đứa bé. Ta thấy những giọt lệ lấp lánh trên má nó, và ta thấy bầu má ấy đầy lên khi đứa bé mỉm cười. Hẳn là nó đang nhìn thấy ánh sáng trong những giọt lệ. Ta đặt tay lên mặt, lau những giọt lệ đã lăn trên má và kinh ngạc nhìn chúng.”
“Nhưng Louis...” Lestat nhẹ nhàng nói. “Làm sao anh vẫn giữ được mình, làm sao anh chịu đựng được tất cả những điều này?” Hắn ngước lên nhìn ta, miệng vẫn méo xệch, mặt nhòe nhoẹt nước. “Hãy cho tôi biết, Louis, hãy giúp tôi hiểu với! Làm sao anh hiểu được tất cả những điều này, làm sao anh chịu đựng được?” Và qua nỗi tuyệt vọng trong mắt hắn, qua âm sắc thâm trầm trong giọng nói hắn, ta có thể thấy hắn đã tự ép mình tới một thứ gì đó rất đau đớn, tới một nơi mà hắn đã không dám mạo hiểm ghé thăm từ rất lâu rồi. Nhưng sau đó, ngay trong lúc ta đang nhìn hắn, đôi mắt hắn trở nên mờ mịt và bối rối. Rồi hắn kéo chiếc áo choàng thật chặt vào mình, lắc đầu nhìn chằm chằm ngọn lửa trong lò. Hắn khẽ rùng mình và rên lên một tiếng.”
“Bây giờ tôi phải đi, Lestat ạ,” ta nói. Ta cảm thấy quá mệt mỏi, mệt mỏi vì hắn và vì nỗi buồn này. Ta muốn trở lại với sự tĩnh lặng bên ngoài, sự tĩnh lặng hoàn hảo mà ta đã quá đỗi than quen. Nhưng khi dợm bước đi, ta nhận ra mình đang bế theo đứa bé trong tay. Lestat ngước lên nhìn ta với đôi mắt to đầy phiền não và khuôn mặt mịn màng, không tuổi. “Nhưng anh sẽ quay lại... anh sẽ quay lại thăm tôi chứ... Louis?” hắn hỏi.
“Ta quay đi khỏi Lestat, nghe tiếng hắn gọi với theo sau lưng khi lặng lẽ rời khỏi ngôi nhà. Khi ra tới đường, ta quay lại nhìn và thấy hắn đang lảng vảng quanh cửa sổ như thể hắn sợ phải ra ngoài. Ta nhận ra hắn đã không ra ngoài trong một thời gian rất, rất dài. Lúc ấy, ta chợt nghĩ rằng, có lẽ hắn sẽ không bao giờ ra ngoài nữa.”
“Ta quay lại căn nhà mà tên ma cà rồng trẻ tuổi đã bắt đứa bé đi và bỏ nó lại trong chiếc nôi của nó. Không lâu sau đó, ta nói với Armand việc đã gặp Lestat. Có lẽ là khoảng một tháng sau, ta không nhớ rõ. Lúc ấy, thời gian không có nghĩa lý gì lắm đối với ta, cũng hệt như bây giờ. Nhưng đó lại là vấn đề lớn đối với Armand. Hắn đã rất ngạc nhiên khi ta không nhắc đến chuyện gặp Lestat sớm hơn.”
“Đêm ấy, bọn ta đi bộ tới khu phố trên, nơi thành phố đã nhường chỗ cho công viên Audubon và bờ sông đã biến thành một con dốc hoang vắng, phủ đầy cỏ dại dẫn xuống một bãi sông lầy lội, những đống gỗ dạt vương vãi đây đó đang trôi theo làn sóng dập dềnh vỗ vào bờ. Xa xa bên bờ kia là ánh đèn mờ ảo của những nhà máy và các công ty nhìn thẳng ra sông, những chấm sáng xanh, đỏ nhấp nháy ở đằng xa như những vì sao. Và ánh trăng rọi sáng dòng nước mênh mông, đang cuồn cuộn trôi đi giữa đôi bờ, và ngay cả cái nóng mùa hè cũng không còn nơi này, làn gió mát rượi từ mặt nước dâng lên và khẽ nhấc những đám rêu bám trên thân miếng gỗ sồi mục nát mà bọn ta đang ngồi. Ta ngắt một ngọn cỏ và nếm thử, nó chỉ có vị đắng kỳ dị, không tự nhiên. Nhưng hành động đó lại có vẻ tự nhiên. Ta đã có cảm giác như mình sẽ không bao giờ rời khỏi New Orleans nữa. Nhưng những suy nghĩ ấy có nghĩa lý gì khi ta bất tử? Không bao giờ rời khỏi New Orleans “nữa” sao? “Nữa” có vẻ là từ chỉ dành cho con người.”
“Nhưng anh không hề cảm thấy muốn trả thù?” Armand hỏi. Hắn đang nằm bên cạnh ta trên bãi cỏ, khuỷu tay chống xuống đỡ lấy người, mắt dán chặt vào ta.”
“Tại sao?” ta điềm tĩnh hỏi. Ta ước gì, như ta vẫn thường thầm ước, là Armand không còn ở đó nữa và ta sẽ được một mình. Một mình với dòng sông mát rượi đang cuộn chảy dưới ánh trăng mờ này. Hắn đã phải nhận lấy quả báo thích đáng của mình rồi. Hắn đang chết, chết vì sự bảo thủ, vì sợ hãi. Tâm trí hắn không thể chấp nhận được thời đại này. Chẳng có gì duyên dáng và thanh thản như anh đã từng tả cho tôi nghe về cái chết của ma cà rồng ở Paris cả. Tôi nghĩ hắn đang chết mòn một cách lóng ngóng và méo mó như bất kỳ con người nào đang chết đi trong thế kỷ này... vì tuổi già.”
“Nhưng anh... anh cảm thấy thế nào?” Armand nhẹ nhàng nhấn mạnh. Tính riêng tư của câu hỏi đó khiến ta kinh ngạc, và ta nhận ra đã lâu lắm rồi bọn ta mới lại trò chuyện với nhau như thế này. Bấy giờ ta mới có ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của Armand, về mức độ tách biệt của hắn, về sự điềm tĩnh và tự chủ của sinh vật có mái tóc thẳng màu hung và đôi mắt to, thoảng nét u sầu này, đôi mắt vốn dường như chẳng nhìn thấy gì ngoài những suy tưởng của chính hắn. Và đêm nay, đôi mắt ấy đang được thắp sáng bởi một ngọn lửa đục dị kỳ.”
“Không gì cả,” ta đáp.
“Không gì cả dù xét bất cứ phương diện nào?”
“Ta trả lời là không. Ta vẫn nhớ rất rõ nỗi buồn ấy. Như thể nỗi buồn ấy không hề đột ngột biến mất mà vẫn cứ vảng vất đâu đây suốt thời gian qua, và nó đang thì thầm, “Đến đây nào.” Nhưng ta sẽ không nói cho Armand biết điều đó, ta sẽ không tiết lộ. Và ta có cảm giác kỳ lạ nhất về nhu cầu được biết bí mật ấy trong Armand... bí mật ấy hay điều gì khác... đó là một nhu cầu giống với cơn khát máu một cách lạ thường.”
“Nhưng Lestat có nói gì với anh không, bất cứ điều gì có thể khơi dậy nỗi thù hận cũ trong anh?...” Armand thì thầm. Và đến giây phút ấy, ta bỗng nhận thức được rõ rệt mức độ đau khổ của hắn.”
“Sao vậy, Armand? Tại sao anh lại hỏi như vậy?” ta nói.
“Nhưng hắn chỉ nằm dài ra trên bãi cỏ và ngước mắt lên nhìn những vì sao suốt một hồi lâu. Những vì sao mang lại cho ta một ký ức quá sắc nét, con tàu đã đưa Claudia và ta đến châu Âu, và trong những đêm trên biển ấy, muôn vì sao dường như sà xuống để chạm lên những con sóng.”
“Tôi cứ tưởng có thể hắn đã kể anh nghe chuyện gì đó về Paris...” Armand nói.
“Hắn nên kể gì về Paris? Rằng hắn không hề muốn Claudia phải chết ư?” ta hỏi. Lại và Claudia; cái tên vang lên thật xa lạ. Claudia đang rải những lá bài lên chiếc bàn rung lắc theo từng nhịp sóng xô, ngọn đèn đung đưa trên chiếc móc sắt, ô cửa sổ đen ngòm bên mạn tàu phủ đầy sao. Cô bé cúi đầu xuống, những ngón tay để lơ lửng trên vành tai như thể em sắp sửa kéo những lọn tóc ra. Và ta có một cảm giác sợ hãi kỳ lạ chưa từng thấy: rằng trong ký ức của ta, cô bé sẽ ngẩng lên khỏi những lá bài và hốc mắt em sẽ hoàn toàn trống rỗng.”
“Anh đã có thể nói với tôi bất cứ điều gì anh muốn về Paris, Armand ạ,” ta nói. “Anh đã có thể nói từ lâu rồi. Chuyện đó cũng chẳng hề gì.”
“Kể cả khi tôi chính là người đã...?”
“Ta quay sang phía Armand, hắn đang nằm nhìn lên bầu trời. Và ta thấy được nỗi đau khác thường trên khuôn mặt, trong đôi mắt hắn. Dường như đôi mắt ấy đã mở to hơn, rất to, và khuôn mặt trắng bệch đóng khung lấy đôi mắt đã trở nên vô cùng hốc hác.”
“Rằng anh là người đã giết cô bé? Người đã bắt cô bé ra khoảng sân đó và chết cô bé lại?” ta hỏi. Ta mỉm cười. “Đừng nói với tôi là sau chừng ấy năm, bây giờ anh lại thấy đau khổ về chuyện đó. Như thế chẳng giống anh chút nào.”
“Rồi Armand nhắm mắt lại, quay mặt đi, đôi tay hắn buông thõng trên ngực như thể ta vừa giáng xuống hắn một đòn quá đau đớn và bất ngờ.”
“Anh không thể làm tôi tin là anh quan tâm tới chuyện đó được đâu,” ta lạnh lùng nói với hắn. Rồi ta nhìn xa xa về phía dòng sông, và một lần nữa, lại thấy cảm xúc ấy dâng trào... rằng ta chỉ muốn được ở một mình. Ta biết là một lát nữa mình sẽ đứng dậy và rời đi. Đó là trong trường hợp Armand không chịu đi trước. Bởi vì thực ra ta muốn ở lại nơi này. Đây là một chốn vắng vẻ và tĩnh lặng.”
“Anh có quan tâm đến cái gì đâu...” Armand nói. Rồi hắn từ từ ngồi dậy và quay sang nhìn ta, nhờ thế, ta lại có thể thấy được ngọn lửa đen thẳm trong đôi mắt hắn. “Tôi cứ nghĩ là ít nhất anh cũng sẽ quan tâm đến chuyện đó. Tôi cứ nghĩ là anh sẽ cảm nhận được niềm đam mê cũ, cơn thịnh nộ cũ nếu anh gặp lại Lestat. Tôi cứ nghĩ sẽ có điều gì đó bị kích động và hồi sinh trong anh nếu anh thấy hắn... nếu anh quay lại nơi này.”
“Và tôi sẽ sống lại?” ta khẽ nói. Ta cảm nhận được sự lạnh lùng, sắt đá từ âm sắc và sự tự chủ trong những lời của mình. Như thể ta đã lạnh toát từ đầu tới chân và toàn thân ta được tạo ra từ kim loại, còn Armand đột nhiên trở nên mỏng manh; mỏng manh, như hắn vẫn luôn thế, trên thực tế, là đã từ lâu lắm rồi.”
“Phải!” Armand thét lên. “Phải, sống lại!” Rồi hắn trở nên bối rối, cực kỳ bối rối. Và một chuyện kỳ lạ diễn ra. Hắn cúi gục đầu xuống như đã bị đánh bại. Và có điều gì đó trong biểu cảm của hắn trước sự bại trận ấy, có điều gì đó được phản chiếu trên khuôn mặt trắng bệch của hắn dù chỉ trong giây lát đã nhắc ta nhớ về một người khác, người mà ta đã thấy có dáng vẻ bại trận hệt như thế này. Và ta kinh ngạc nhận ra mình đã mất rất nhiều thời gian mới thấy được khuôn mặt Claudia trong dáng vẻ đó. Khuôn mặt Claudia khi em đứng bên chiếc giường trong căn phòng khách sạn Saint-Gabriel, cầu xin ta biến Madeleine thành ma cà rồng. Vẻ bất lực giống như vậy, vẻ bại trận chân thật đến mức dường như mọi thứ khác đều rơi vào quên lãng. Và rồi, cũng như Claudia, Armand gồng mình lên như đã thu vén được chút sức lực còn sót lại trong cơ thể. Nhưng hắn chỉ khẽ nói với không trung, “Tôi đang chết!”
“Và ta, quan sát hắn, lắng nghe hắn, là sinh vật duy nhất dưới quyền năng của Chúa có thể nghe được điều Armand vừa nói và biết rằng đó hoàn toàn là sự thật, nhưng chẳng đáp lại lời nào.”
“Môi hắn bật ra một tiếng thở dài. Đầu hắn cúi gục xuống. Bàn tay phải của hắn nằm sóng sượt trên bờ cỏ. “Thù hận... đó chính là niềm đam mê,” hắn nói. “Trả thù, đó là chính là đam mê...”
“Không phải từ tôi...” ta khẽ thầm thì. “Không phải bây giờ.”
“Rồi hắn dán chặt mặt vào ta, khuôn mặt hắn trở nên điềm tĩnh. “Tôi đã tưởng rằng anh sẽ vượt qua được tất cả, rằng khi nỗi đau qua đi, anh sẽ lại ấm áp và ngập tràn tình yêu, ngập tràn nhiệt huyết và sự hiếu kỳ bất tận mà anh từng bộc lộ trong lần đầu gặp tôi, với lương tâm không gì lay chuyển được và niềm khao khát tri thức đã đưa anh đi khắp thế giới để tới Paris, tới chỗ tôi. Tôi đã tưởng rằng đó là một phần không bao giờ có thể tàn lụi trong anh. Và tôi đã tưởng rằng khi nỗi đau qua đi, anh sẽ tha thứ cho vai trò của tôi trong cái chết của cô bé. Cô bé chưa từng yêu anh, anh biết đấy. Không phải như cách tôi yêu anh, và cách anh yêu cả hai người bọn tôi. Tôi biết điều đó! Tôi hiểu nó! Và tôi đã tin là mình có thể lôi cuốn được anh, giữ anh ở lại bên mình. Rồi thời gian sẽ mở ra trước mắt chúng ta, và chúng ta có thể làm thầy dạy lẫn nhau. Mọi điều khiến anh hạnh phúc cũng sẽ khiến tôi hạnh phúc; và tôi sẽ bảo vệ anh tránh khỏi mọi khổ đau. Quyền năng của tôi sẽ là quyền năng của anh. Sức mạnh của tôi cũng vậy. Nhưng với tôi, anh đã chết từ bên trong rồi, anh đã trở nên lạnh lẽo và vượt ra ngoài tầm với của tôi! Như thể tôi không còn ở đây, ngay bên cạnh anh nữa. Và nếu không còn ở bên anh, tôi có cảm giác kinh khủng là mình không hề tồn tại. Và anh cũng lạnh lùng, xa cách tôi hệt như những đường nét và dáng hình cứng nhắc mà tôi không thể yêu hay hiểu được trong các bức họa hiện đại kỳ quái; anh đã trở nên xa lạ như những bức tượng kim loại điêu khắc rắn đanh và không có chút tính người nào của thời đại này. Tôi thấy run sợ khi cạnh anh. Tôi nhìn vào mắt anh mà không hề thấy bóng mình phản chiếu trong đó...”
“Điều anh đòi hỏi là bất khả!” ta vội nói. “Anh không thấy sao? Điều mà tôi đòi hỏi cũng bất khả y như vậy, ngay từ đầu.”
“Armand không đồng ý, đôi môi hắn như đang mấp máy một lời phản đối, bàn tay giơ lên như muốn đẩy lùi lời phản đối ấy đi.”
“Tôi muốn thấy được tình yêu và cái thiện trong trạng thái sống mà như chết này,” ta nói. “Đó vốn là điều bất khả ngay từ đầu bởi vì anh không thể vừa có được tình yêu và cái thiện vừa làm những việc mà anh biết là độc ác, xấu xa. Tất cả những gì anh có được là nỗi hoang mang tuyệt vọng và sự khát khao, theo đuổi ảo ảnh về lòng tốt mà chỉ con người mới cảm nhận được. Tôi đã biết đáp án thực sự cho câu hỏi của mình từ trước khi đến Paris. Tôi đã biết đáp án từ cần đầu tiên giết người để thỏa mãn cơn khát máu của mình. Đáp án là cái chết của chính tôi. Nhưng tôi không chấp nhận được điều đó, tôi không thể chấp nhận được vì cũng như mọi sinh vật khác trên cõi đời này, tôi không muốn chết! Vậy nên tôi cứ mải tìm kiếm những ma cà rồng khác, rồi tìm kiếm Chúa, tìm ác quỷ, và hàng trăm thứ khác dưới hàng trăm cái tên khác. Nhưng tất cả đều như nhau, tất cả đều độc ác. Tất cả đều sai trái. Bởi vì không một ai, dù với bất cứ lý lẽ nào, có thể thuyết phục tôi tin điều mình đã biết là sự thật, rằng tôi đã bị nguyền rủa trong chính tâm trí và linh hồn mình. Và khi đến với Paris, tôi cứ tưởng rằng anh chính là thứ sinh vật quyền năng và đẹp đẽ có thể sống mà không hề hối tiếc và tôi tha thiết muốn được giống như anh. Nhưng hóa ra anh cũng chỉ là một kẻ hủy diệt hệt như tôi, thậm chí còn tàn nhẫn và xảo quyệt hơn. Anh đã cho tôi thấy được đích đến duy nhất mà tôi có thể hy vọng đạt được, chiều sâu của cái ác, mức độ lạnh lùng mà tôi cần phải đạt được để chấm dứt nỗi đau của mình. Và tôi chấp nhận điều đó. Vậy nên niềm đam mê đó, tình yêu mà anh từng thấy nơi tôi đó đã bị dập tắt rồi. Giờ đây, anh chỉ đang thấy trong tôi hình ảnh phản chiếu của chính mình mà thôi.”
“Một quãng lặng rất dài đã trôi qua trước khi Armand lên tiếng. Hắn đã ngồi dậy, đứng quay lưng về phía ta và nhìn xuống dòng sông, đầu hắn vẫn cúi gục xuống, hai tay buông thõng hai bên mình. Ta cũng nhìn về phía dòng sông và thầm nghĩ, “Ta không còn gì để nói nữa, cũng không còn gì để làm nữa.” “Louis,” Armand nói và ngẩng đầu lên, giọng hắn nghẹn ngào và khác thường.
“Vâng, Armand,” ta đáp.
“Anh còn cần điều gì ở tôi nữa không, anh còn yêu cầu nào khác không?”
“Không,” ta nói. “Ý anh là gì?”
“Armand không trả lời câu hỏi này. Hắn bắt đầu chầm chậm bước đi. Ban đầu ta tưởng rằng hắn chỉ định đi vài bước, có lẽ là để dạo quanh bãi sông lầy lội phía dưới một mình. Đến khi ta nhận ra được là hắn đã rời bỏ ta thì hắn chỉ còn là một chấm nhỏ xíu xa tít, nổi bật trên dòng nước sáng lấp lánh dưới ánh trăng. Ta không bao giờ gặp lại hắn nữa.”
“Tất nhiên, phải nhiều đêm sau đó ta mới biết là Armand đã thực sự ra đi. Quan tài của hắn vẫn đó. Nhưng hắn không còn quay lại nữa. Vài tháng sau, ta mang chiếc quan tài đó tới nghĩa trang St. Louis và đưa xuống hầm mộ bên cạnh chiếc quan tài của mình. Ngôi mộ của ta, từ lâu đã bị bỏ quên vì gia đình ta đã chết cả rồi, bây giờ lại tiếp nhận thứ duy nhất mà Armand bỏ lại. Nhưng rồi ta bắt đầu thấy khó chịu. Ta nghĩ về điều đó khi vừa thức giấc và lại nghĩ một lần nữa vào bình minh, trước khi chìm vào giấc ngủ. Đến đêm nọ, ta quyết định đi tới khu trung tâm thành phố và lôi quan tài của Armand ra, đập nát thành từng mảnh vụn rồi để nó lại lối đi hẹp dẫn vào nghĩa trang, giữa đám cỏ cao.”
“Tên ma cà rồng trẻ tuổi, đứa con trẻ nhất của Lestat, đã tiếp cận ta vào một tối không lâu sau đó. Hắn cầu xin ta kể cho hắn nghe mọi điều ta đã biết về thế giới, cầu xin ta trở thành bạn đồng hành và thầy của hắn. Ta nhớ đã trả lời hắn rằng, điều ta biết trước nhất là ta sẽ giết hắn nếu còn thấy hắn lần nữa. “Cậu thấy đấy mỗi đêm tôi đi dạo đều sẽ có người phải chết, cho đến khi tôi đủ can đảm để chấm dứt chu trình đó,” ta bảo hắn. “Và cậu quả là một lựa chọn tuyệt vời cho vai nạn nhân, một kẻ giết người cũng độc ác hệt như ta.”
“Và vào đêm sau đó, ta rời khỏi New Orleans vì nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng không rời. Và ta không muốn nghĩ đến tòa biệt thự cũ nát nơi Lestat đang chết dần chết mòn. Hay tên ma cà rồng hiện đại, ma mãnh đã chạy trốn ta. Hay là Armand.”
“Ta muốn đến nơi không có gì quen thuộc với mình. Và không có điều gì đáng bận tâm ở đó.”
“Và đó là kết thúc thật sự. Không còn gì khác nữa.”
Phỏng Vấn Ma Cà Rồng Phỏng Vấn Ma Cà Rồng - Anne Rice Phỏng Vấn Ma Cà Rồng